Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về huy động vốn của tổ chức tín dụng ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.27 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO ÁNH TUYẾT

PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: luận văn là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Minh
Hằng. Các số liệu, kết luận được trình bày trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về
tính xác thực và nguyên bản của luận văn.

Tác giả


Đào Ánh Tuyết


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn TS. Nguyễn
Minh Hằng – người thầy đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình
trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau
Đại học, Khoa Pháp luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện
luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong đại gia đình, các bạn bè
đã động viên, ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp đỡ tôi tập trung
nghiên cứu và hoàn thành bài luận văn của mình.


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
TCTD

Tổ chức tín dụng

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng nhà nước

BHTG


Bảo hiểm tiền gửi

BLDS

Bộ luật dân sự

BLLĐ

Bộ luật Lao động

GTCG

Giấy tờ có giá

LNH

Liên ngân hàng

DN

Doanh nghiệp

NH

Ngân hàng


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài .............................................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 4
6. Kết cấu luận văn............................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................................... 5
1.1.Khái niệm, vai trò của hoạt động huy động vốn của Tổ chức tín dụng .................... 5
1.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ……………14
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng …14
1.2.2. Nội dung pháp luật điểu chỉnh hoạt động huy động vốn của
TCTD……………….15
KẾT LUẬN CHƯƠNG I .................................................................................................. 26
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ................................................ 27
2.1.Quy định về chủ thể của hoạt động huy động vốn.................................................. 27
2.2.Quy định về các hình thức huy động vốn. .............................................................. 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG II................................................................................................. 54
CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM.............................................................. 55
3.1. Những yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động huy
động vốn của các TCTD ở Việt Nam ........................................................................... 55
3.2. Các giải pháp cụ thể ............................................................................................... 57
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 71


1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta. Nó đóng vai trò quyết định đến sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Với tư cách là các “trung gian tài
chính”, các Tổ chức tín dụng Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc
huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với những
điều kiện nhất định. Vốn để các TCTD tiến hành và phát triển các hoạt động kinh
doanh của mình không chỉ riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là vốn huy động
được. Do đó có thể nói hoạt động huy động vốn có tác động rất lớn đến các TCTD
cũng như toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn,
Nhà nước ta phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo
điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay văn bản pháp luật hiện hành quy định về huy động vốn của
TCTD còn tồn tại nhiều hạn chế. Các quy định về huy động vốn còn nằm rải rác ở
nhiều văn bản pháp luật làm cho quá trình tìm hiểu hoạt động huy động vốn rất
khó khăn. Hơn nữa, các quy định hiện hành về huy động vốn chưa thống nhất, các
quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo nhau, chưa phù hợp với thực tiễn khiến cho
hoạt động áp dụng pháp luật về huy động vốn còn nhiều bất cập…Qua tìm hiểu và
nghiên cứu, tác giả nhận thấy cần có một công trình nghiên cứu pháp luật Việt
Nam về hoạt động huy động vốn và việc áp dụng chúng trên thực tiễn. Với suy
nghĩ như vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về huy động vốn của Tổ chức tín
dụng ở Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp” làm luận văn cho mình. Việc chọn
đề tài nghiên cứu này, trước hết, là một nỗ lực nhằm có được một sự hiểu biết sâu
hơn về pháp luật về huy động vốn, và sau đó là hy vọng được đóng góp một phần
công sức của mình vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật của nước ta về
tài chính – ngân hàng.



2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, dưới góc độ nghiên cứu luật pháp, một số khóa luận tốt nghiệp
ở bậc đại học đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu: “Pháp luật về hoạt động huy
động vốn của ngân hàng thương mại” năm 2008 của tác giả Phạm Thị Ban, Đại
học Luật Hà Nội; “Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của tổ chức tín
dụng là ngân hàng” năm
2009 của tác giả Tường Thị Thu Huyền, Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về
huy động vốn của ngân hàng thương mại - Thực trạng và giải pháp” năm 2011 của
tác giả Ma Thị Thắm, Đại học Luật Hà Nội….
Pháp luật về huy động vốn cũng được đề cập đến trong một số Luận án
Tiến sĩ Luật học với vai trò là một bộ phận có liên quan như: “ Hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Ngô Quốc Kỳ, người
hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, TS Dương Đăng Huệ của trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2003; “ Các giao dịch thương mại chủ yếu của Ngân
hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Tuyến , người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Đình Hảo. TS
Võ Đình Toàn của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004…
Nhìn chung các nghiên cứu của các tác giả trên đều được thực hiện trong bối
cảnh kinh tế và môi trường pháp lý cũ đồng thời chưa đi sâu nghiên cứu phương
hướng hoàn thiện pháp luật. Hơn nữa, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu hoạt
động huy động vốn của các ngân hàng chứ chưa có công trình nghiên cứu nào tập
trung phân tích đánh giá khái quát các quy định của pháp luật về huy động vốn của
cả TCTD. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ
bản về huy động vốn của các TCTD từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam.



3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu mà tác giả mong muốn đạt được trong luận văn này là một cái nhìn
khái quát về các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động huy động vốn,
thực tiễn áp dụng pháp luật của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam và những tồn tại
cần khắc phục. Xuất phát từ mục tiêu này, nhiệm vụ khoa học của luận văn cụ thể
tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn
và nội dung pháp luật quy định về hoạt động huy động vốn của các TCTD ở Việt
Nam như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò, nội dung pháp luật quy định về
chủ thể huy động vốn, các hình thức huy động vốn của các Tổ chức tín dụng.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật quy định về hoạt động huy động vốn
của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam và thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật trên thực tiễn.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực trạng đó luận văn rút ra một số kiến nghị
theo hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín
dụng tại Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu pháp luật điều
chỉnh hoạt động huy động vốn của Tổ chức tín dụng ở Việt Nam, xem xét thực
trạng pháp luật để từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp đối với hoạt động huy động
vốn này. Pháp luật được nghiên cứu trong luận văn là pháp luật Việt Nam về hoạt
động huy động vốn của TCTD trên cơ sở có sự tham khảo và so sánh với các quy
định của pháp luật về huy động vốn của các nước trên thế giới.
Với những hạn chế về mặt thời gian và dung lượng của một luận văn thạc sỹ,
trong luận văn này không hướng tới việc mô tả lại toàn bộ những nội dung điều
chỉnh của pháp luật hiện hành về huy động vốn hay hướng tới phân tích vấn đề
huy động vốn dưới góc độ nghiệp vụ mà khái quát những nội dung điều chỉnh và
tập trung chủ yếu vào phân tích khía cạnh pháp lý của các hình thức huy động vốn

của TCTD, đánh giá thực trạng áp dụng trên thực tiễn hiện nay còn vướng mắc để
từ đó mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và những kiến nghị hoàn thiện.


4

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong việc nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phân tích, so
sánh, thống kê… nhằm giải quyết các yêu cầu của luận văn đặt ra. Ngoài ra, đề tài
được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế, đồng thời tác giả cũng có sự
tham khảo, kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
nhằm hoàn thành luận văn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành ba chương:
Chương I. Khái quát về hoạt động huy động vốn và Pháp luật điều chỉnh hoạt
động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Chương II. Thực trạng pháp luật về hoạt động huy động vốn của Tổ chức tín
dụng ở Việt Nam.
Chương III. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động huy
động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam.


5

CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC

TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.1.Khái niệm, vai trò của hoạt động huy động vốn của Tổ chức tín dụng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, các hình thức huy động vốn của TCTD
1.1.1.1.Khái niệm
Trong tác phẩm “Tư bản luận” Các Mác chỉ ra rằng: “tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư”. Theo đó, vốn là tiền đề của tất cả các hoạt động kinh doanh
trong toàn xã hội nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp
đều có nhu cầu về vốn để vận hành và phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh
thường xuyên đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung một số lượng vốn nhất định
nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự trữ,… phát
sinh ở mọi thời điểm. Đặc biệt trong nền thị trường, lượng vốn kinh doanh biểu
hiện thế lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối với sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường. Vì vậy, thị trường
tài chính, trong đó đóng vai trò chủ chốt là các TCTD luôn có mối quan hệ khăng
khít cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là nguồn huyết mạch cung cấp cho doanh
nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển, là trung gian cung cấp nguồn vốn cho
toàn bộ các hoạt động kinh tế trong xã hội. Đây là căn nguyên làm cho các TCTD
trở thành một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế quốc
gia.
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, nguồn vốn đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các TCTD. Tuy nhiên, khác với các
doanh nghiệp thông thường, vốn đối với với các TCTD chính là “hàng hóa”, là
phương tiện hoạt động. Vì thế, nhu cầu về vốn của các TCTD là rất lớn và có thể
nói là không hạn chế về lượng. Xuất phát từ tính chất đó, huy động vốn đã trở
thành hoạt động thường xuyên, chủ yếu và đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với
tất cả các TCTD.


6


Huy động vốn có thể xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm
nhất trong hoạt động của các TCTD. Trong giai đoạn sơ khai, những nghiệp
vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhằm mục đích
đảm bảo an toàn và lúc này người phải trả phí là người gửi tiền chứ không
phải là các TCTD, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi
chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các TCTD, tiền lúc
này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó vì không có khả năng
luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, vị
thế đó bị đảo ngược, TCTD phải trả phí và nguồn tiền được kí gửi thay đổi
vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các ngân hàng
nói riêng và các TCTD nói chung. Có thể nói đến ngày nay, hoạt động huy
động vốn đã được mở rộng phong phú và là một trong những hoạt động hết
sức quan trọng, liên quan đến sự sống còn của các TCTD.
Vậy, huy động vốn là gì?
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự
phát triển của các TCTD, nội hàm của khái niệm huy động vốn đã có những
thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Tuy nhiên, gần
như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như
không có sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Ở Việt Nam khái
niệm huy động vốn thường ít được đề cập tới trong các nghiên cứu cũng như
trong các văn bản pháp lý. Do đó, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống
nhất.
Dưới góc độ kinh tế cũng có nhiều cách tiếp cận với khái niệm này, tuy
cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề
cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất.
Cách tiếp cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các
chuyên ngành kinh tế, tài chính ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động


7


vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn như: nguồn vốn được chia
thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính
vì vậy, hoạt động huy động vốn của TCTD lúc này bao gồm cả việc khởi tạo
nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn
vốn cấp 2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của TCTD.
Tuy nhiên, khái niệm nghiệp vụ huy động vốn của các TCTD, một số
tài liệu chuyên ngành cũng có cách tiếp cận hẹp hơn. Chẳng hạn, trong “Đề
cương hướng dẫn nghiệp vụ ngân hàng thương mại” của Khoa Kế toán – Tài
chính – Ngân hàng Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh đề cập đến các
hình thức của nghiệp vụ huy động vốn thường chỉ bao gồm: Hình thức tiền
gửi thanh toán, hình thức tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, các hình thức
tiền gửi đặc biệt khác. Có thể xem đây là một cách tiếp cận thiên về tính
kinh tế và mang nặng tính nghiệp vụ nhưng thiết nghĩ đôi lúc có khả năng
gây tâm lí thiên lệch đối với các chủ thể tiếp nhận.Vẫn biết rằng khi tiếp cận
từ khía cạnh này, quan điểm của nhà nghiên cứu đang cố nhấn mạnh tính lợi
nhuận trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Có nghĩa rằng , nếu
loại trừ các hình thức khác (ví dụ như các khoản vay trong thị trường liên
ngân hàng, vay từ Ngân hàng nhà nước) trong việc đảm bảo nguồn vốn, đảm
bảo khả năng thanh khoản của các TCTD, vô hình chung đã bỏ qua một
trong những kênh quan trọng nhất trong việc đảm bảo sự hoạt động bình
thường, an toàn của các TCTD.
Dưới góc độ pháp lý, trong các Giáo trình Luật Ngân hàng cũng như
các văn bản luật đều chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này nhưng
thông qua các quy định của pháp luật cũng cho ta phần nào hình dung một
cách chính xác nhất nội hàm của khái niệm này. Cụ thể, tại Chương 3 Mục 1
Luật Các TCTD quy định 4 hình thức của hoạt động huy động vốn bao gồm:
nhận tiền gửi; Phát hành giấy tờ có giá; Vay vốn giữa các TCTD và Vay vốn



8

của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù không khái quát được về hoạt động huy
động vốn nhưng với việc chỉ ra cụ thể các hình thức huy động vốn của
TCTD có thể nhận diện được chính xác rằng khi TCTD thực hiện một trong
bốn hoạt động trên tức là TCTD đang tiến hành hoạt động huy động vốn.
Việc liệt kê các hành vi không thể nói lên bản chất của hoạt động đó, tuy
nhiên, đối với một văn bản pháp lí thì đây lại là cách thể hiện tương đối tiện
dụng và không gây tranh cãi. Mặc dù vậy, điểm yếu của phương pháp này là
mang tính khiên cưỡng và dễ dàng bị lạc hậu khi cơ sở hạ tầng có những
thay đổi. Nếu có thể đưa ra một khái niệm thể hiện chính xác bản chất của
hiện tượng rõ ràng tính bền vững của quy định sẽ lâu dài hơn. Dù phát sinh
những nghiệp vụ hiện đại hơn thì nó vẫn luôn thể hiện đúng bản chất của
hoạt động đó.
Như vậy, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về hoạt động
huy động vốn của TCTD. Trên cơ sở phân tích đánh giá các định nghĩa và
bản chất của các hoạt động huy động vốn ở Việt Nam hiện nay, tác giả xin
đưa ra khái niệm về hoạt động huy động vốn của TCTD như sau:
“Hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động mà trong đó các
TCTD này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục đích
kinh doanh và đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó
theo đúng các quy định pháp luật”.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động huy động vốn của TCTD
Mặc dù chưa có một khái niệm thống nhất về hoạt động huy động vốn
của TCTD, tuy nhiên, dựa vào bản chất và các hình thức huy động vốn có
thể đưa ra một số đặc điểm của hoạt động huy động vốn này như sau:
Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động huy động vốn là các TCTD, bao gồm:
ngân hàng; TCTD phi ngân hàng; Tổ chức tài chính vi mô và Quỹ tín dụng
nhân dân. Đây là các loại hình doanh nghiệp được thành lập và hoạt động



9

theo giấy phép của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng được phép huy động vốn mà chỉ các tổ chức đảm
bảo đáp ứng các điều kiện khắt khe theo luật định mới được Ngân hàng Nhà
nước cho phép thực hiện hoạt động huy động vốn này. Với đặc trưng là kinh
doanh loại hàng hóa đặc biệt, đảm nhiệm vai trò huy động vốn cho toàn bộ
nền kinh tế, vì vậy Ngân hàng Nhà nước phải tiến hành kiểm tra, giám sát
chặt chẽ và có sự hỗ trợ đặc biệt đối với các TCTD này. Đây là đặc điểm
khác biệt giúp ta phân biệt các TCTD và các doanh nghiệp thông thường
khác.
Thứ hai: Huy động vốn là hoạt động chủ yếu, thường xuyên và luôn
gắn liền với kế hoạch kinh doanh của TCTD. Với đặc trưng là kinh doanh
loại hàng hóa đặc biệt là tiền tệ cho nên vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu
để các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy các
TCTD luôn luôn phải có những biện pháp nghiệp vụ để thu hút nguồn vốn từ
các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhất là trong tình hình kinh tế khó khăn
như hiện nay, để tồn tại và phát triển thì các TCTD, đặc biệt là các Ngân
hàng thương mại phải cạnh tranh với nhau với các chiến lược đặc biệt để thu
hút nguồn vốn.Ví dụ như các chương trình: khuyến mại tiền gửi “ Hè sôi
động cùng Vietinbank”; Chương trình “ Ngàn quà tặng thay lời tri ân” cho
khách hàng đến gửi tiền của Vietcombank hay chương trình: “ Vui lễ thống
nhất – ngây ngất khuyến mại cùng Oceanbank” với hàng nghìn quà tặng hấp
dẫn cho khách hàng đến giao dịch. Hơn nữa, khi tiến hành hoạt động huy
động vốn, các TCTD cũng phải tính toán sao cho việc sử dụng đồng vốn huy
động được hiệu quả nhất.
Thứ ba: quan hệ huy động vốn xét về bản chất chính là một quan hệ
vay nợ. Trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thỏa thuận, các chủ sở hữu
có vốn (bên cho vay) sẽ cung cấp nguồn tài chính cho các TCTD ( bên cho



10

vay) trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do đó hoạt
động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay được gọi là chủ nợ
và bên vay được gọi là con nợ. Sau đó, các TCTD phải có nghĩa vụ hoàn trả
đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi các chủ sở hữu có nhu cầu rút
vốn.
Thứ tư: Hoạt động huy động vốn của TCTD được điều chỉnh bởi các
văn bản pháp luật ngân hàng nói chung và các văn bản pháp luật có liên
quan. Theo đó, có một hành lang pháp lý chặt chẽ để kiểm soát hoạt động
huy động vốn của các TCTD đồng thời các văn bản này tạo ra cơ sở pháp lý
chắc chắn để các TCTD được thực hiện quyền huy động vốn của mình. Hơn
nữa, hoạt động huy động vốn của các TCTD có tác động lớn đối các doanh
nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, vì thế các văn bản pháp
luật này sẽ tạo thành cơ chế để hỗ trợ cần thiết khi có vấn đề bất thường xảy
ra đối với các TCTD.
1.1.1.3.Phân loại
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động huy động
vốn ngày càng phát triển với nhiều hình thức vô cùng phong phú và đa dạng.
Căn cứ vào nội dung của hoạt động huy động vốn các TCTD được huy động
vốn thông qua bốn hình thức:
Huy động vốn bằng nhận tiền gửi: là hình thức huy động vốn quan
trọng nhất của các TCTD. Theo đó, các TCTD sẽ có những hoạt động đặc
biệt để thúc đẩy các tổ chức, cá nhân trong xã hội có khoản tiền nhàn rỗi
đem tới các TCTD, chủ yếu là các Ngân hàng thương mại để gửi tiền. Tùy
vào mục đích mà các tổ chức, cá nhân có thể gửi tiền dưới các hình thức:
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác.



11

Căn cứ vào các hình thức gửi tiền mà các TCTD phải hoàn trả đầy đủ tiền
gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá: là hình thức huy
động vốn bằng cách các TCTD sẽ phát hành các giấy tờ có giá trên thị
trường tiền tệ. Đây là chứng nhận của TCTD phát hành, theo đó xác nhận
nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua. Căn cứ vào nhu
cầu mà khách hàng có thể mua các loại giấy tờ có giá sau: Trái phiếu, tín
phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác. Khi đến
hạn, khách hàng mua các giấy tờ có giá này sẽ được các TCTD trả đầy đủ số
tiền gốc kèm theo lãi như đã thỏa thuận.
Huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác: đây là hình thức
huy động vốn mà một TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (bên cho
vay) giao cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác (bên vay) một
khoản tiền để sử dụng trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi. Hoạt động huy động vốn này được thực hiện chủ yếu trên
thị trường liên ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời dự trữ bắt buộc, khả
năng chi trả và cân đối vốn trong ngắn hạn.
Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nước: là hình
thức huy động vốn đặc biệt, chỉ được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp
như: giải quyết tình trạng thiếu hụt tiền tạm thời, không đủ khả năng thanh
toán hoặc thực hiện các hợp đồng cho vay gấp. Với các trường hợp này, các
TCTD có thể xin vay tiền từ NHNN. Xuất phát từ tính chất này nên hoạt
động vay vốn của TCTD không thể mang tính chất lâu dài.



12

1.1.2. Vai trò hoạt động huy động vốn của Tổ chức tín dụng
Với đặc trưng về loại hình kinh doanh hàng hóa đặc biệt là tiền tệ nên
huy động vốn có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với các TCTD,
mà còn có ý nghĩa lớn đối với cả nền kinh tế. Cụ thể:
Đối với các TCTD :
Thứ nhất, huy động vốn là cơ sở để TCTD tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh.
Hoạt động của TCTD gắn bó mật thiết với hệ thống tiền tệ và hệ thống
thanh toán. Vì vậy Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn
là đối tượng kinh doanh chủ yếu của TCTD. Huy động vốn đem lại nguồn
vốn lớn, chủ yếu cho các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nguồn
vốn này là cơ sở để các TCTD tổ chức mọi hoạt động kinh doanh; quyết
định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của TCTD; quyết
định năng lực thanh toán và bảo đảm uy tín của TCTD trên thương trường;
quyết định năng lực cạnh tranh của TCTD... Không những thế, huy động
vốn còn tạo tiền đề để TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như:
làm dịch vụ thanh toán, ngân quỹ... góp phần làm tăng thêm lợi nhuận cho
các TCTD. Như vậy, Vốn là điều đầu tiên được quan tâm trong quá trình
kinh doanh củaTCTD. Do vậy, TCTD phải thường xuyên chăm lo tới việc
tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Thứ hai, hoạt động huy động vốn quyết định khả năng thanh toán và
đảm bảo uy tín của TCTD trên thị trường. Từ đó quyết định năng lực cạnh
tranh của TCTD.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động, đòi hỏi các TCTD, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại phải coi
uy tín trên thị trường là trọng yếu. Nghĩa là khả năng sẵn sàng thanh toán chi
trả cho khách hàng phải đảm bảo tốt, khả năng thanh toán của TCTD càng



13

cao thì vốn khả dụng của TCTD càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác,
khả năng thanh toán của TCTD tỷ lệ thuận với vốn của TCTD nói chung và
vốn khả dụng nói riêng, với tiềm năng vốn lớn thì TCTD có thể hoạt động
kinh doanh với quy mô lớn ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động
cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao khả năng thanh
toán của TCTD trên thị trường. Hơn nữa, TCTD có vốn lớn thì dự trữ thực tế
lớn và khả năng thanh toán ít bị ảnh hưởng khi có khách hàng rút tiền, từ đó
giúp TCTD đa dạng hoá kinh doanh và mở rộng phạm vi kinh doanh, giảm
rủi ro.
Không những vậy, khi TCTD huy động được nguồn vốn lớn sẽ có điều
kiện mở rộng quy mô, tạo điều kiện nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân
viên, áp dụng các phương tiện hiện đại trong quá trình kinh doanh từ đó tạo
uy tín trong kinh doanh, tạo tiền đề để thu hút thêm nguồn vốn. Mặt khác khi
huy động được nguồn vốn lớn sẽ là điều kiện thuận lợi đối với TCTD, nhất
là các Ngân hàng thương mại trong việc mở rộng tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian,
thời hạn cho vay và hạn mức vay thậm chí quyết định mức lãi suất cho
khách hàng từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Doanh số hoạt động
tăng nhanh chóng và TCTD sẽ có nhiều thuận lợi trong kinh doanh.
Đối với nền kinh tế:
Thông qua hoạt động huy động vốn của các TCTD, nền kinh tế có thêm
một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác nhau trong dân cư nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ
tầng, cung cầu vốn giữa các thành phần khác nhau trong xã hội gặp nhau
được dễ dàng hơn. Cũng thông qua hoạt động này, Nhà nước có thể kiểm
soát, điều chỉnh chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát
triển kinh tế. Hơn nữa, với chính sách lãi suất huy động vốn hợp lý, hoạt



14

động huy động vốn của các TCTD sẽ tăng khả năng kích thích tiết kiệm
trong nhân dân. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể đánh giá được
trình độ phát huy nội lực của quốc gia, khai thác tiềm năng của mọi nguồn
vốn đang còn tiềm ẩn, thu gom được một lượng tiền tương đối lớn trong nền
kinh tế, giảm dần lượng tiền mặt trong lưu thông. Từ đó, các TCTD có thể
tập trung được các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần nâng
cao đời sống nhân dân.
1.2.Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín
dụng
1.2.1.Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy
động vốn
Điều chỉnh bằng pháp luật là việc Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật tác
động lên các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của Nhà
nước.
Cũng như hàng loạt các quan hệ khác trong xã hội, quan hệ huy động vốn
của các TCTD cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật, bởi vì:
Thứ nhất, thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn
của TCTD, Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp với
từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Với việc đưa ra những quy định về lãi
suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định về bảo hiểm tiền gửi, quy định điều kiện để
được vay vốn Ngân hàng Nhà nước... Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến hoạt
động huy động vốn của TCTD bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn
chế việc huy động vốn của các TCTD.
Thứ hai, hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động chứa đựng
nguy cơ rủi ro cao, sự tác động tích cực hoặc tiêu cực của nó thường mang tính
phản ứng “dây chuyền” do đó ảnh hưởng đến cả hệ thống TCTD và tác động đến

toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi mà
không được Nhà nước quản lý chặt chẽ thì có thể dẫn đến việc các TCTD lợi dụng
đặc quyền được huy động vốn bằng nhận các loại tiền gửi để lừa đảo dân chúng
trên phạm vi rộng, với số lượng lớn. Mặt khác, các TCTD huy động vốn mà không
sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả, để thất thoát vốn sẽ dẫn đến tình trạng mất


15

khả năng chi trả, thanh toán cho người gửi tiền, từ đó gây tâm lý hoang mang cho
những người gửi tiền khác khiến họ đồng loạt tới các TCTD rút tiền, đẩy các
TCTD khác vào tình trạng thiếu khả năng chi trả. Điều đó dẫn đến sự đổ vỡ toàn
bộ hệ thống TCTD, gây ra khủng hoảng về tài chính - tiền tệ, mất ổn định kinh tế.
Khi dân chúng mất lòng tin vào các TCTD thì nguồn vốn nhàn rỗi không được tập
trung cho đầu tư phát triển, nền kinh tế khó mà phát triển được. Bởi vậy, hoạt
động huy động vốn cần phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ.
Thứ ba, để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác trong hoạt động huy động
vốn, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các TCTD trong quá
trình huy động vốn cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, thông
qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các
TCTD, Nhà nước có thể kiểm soát được tình hình hoạt động kinh doanh của các
TCTD, từ đó kịp thời có biện pháp xử lý, giúp TCTD thoát khỏi tình trạng khó
khăn về tài chính.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của Tổ
chức tín dụng.
1.2.2.1. Chủ thể của hoạt động huy động vốn

Chủ thể của hoạt động huy động vốn là những tổ chức được pháp luật
cho phép thực hiện quyền huy động vốn. Chỉ những tổ chức đáp ứng những
điều kiện luật định mới được thực hiện những hoạt động này.Vì thế, việc xác

định chủ thể của hoạt động huy động vốn có ý nghĩa quan trọng. Chỉ khi xác
định được đúng các chủ thể được quyền huy động vốn thì hoạt động huy
động vốn mới có thể được thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng pháp luật, góp
phần hạn chế rủi ro đối với nguồn vốn được huy động. Hơn nữa, việc quy
định cụ thể về chủ thể huy động vốn bao gồm: quyền huy động vốn, trách
nhiệm của các chủ thể huy động vốn sẽ giúp Nhà nước quản lý chặt chẽ hoạt
động kinh doanh này và có những biện pháp kiểm tra, hỗ trợ kịp thời khi cần
thiết.
Trước đây, theo Luật các TCTD 1997 thì các TCTD được phân loại căn
cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ. Theo đó, TCTD được chia thành 4 loại:


16

TCTD Nhà nước; TCTD cổ phần; TCTD Hợp tác và TCTD có vốn đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhà nước có
chủ trương thực hiện đa sở hữu, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO,
vấn đề tạo sự bình đẳng cho tất cả các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế
lại càng được quan tâm. Chính vì thế, việc phân loại căn cứ vào tính chất sở
hữu vốn điều lệ không còn phù hợp, không đảm bảo được sự bình đẳng giữa
các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Chính vì thế, Luật TCTD 2010 đã
đưa ra cách phân loại khác, đó là phân loại căn cứ vào phạm vi thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh. Căn cứ vào phạm vi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh,
TCTD được chia làm 4 loại: TCTD là ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, Tổ
chức tài chính vi mô và Quỹ tín dụng nhân dân.
Thứ nhất, TCTD là ngân hàng.
TCTD là ngân hàng là TCTD được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng.
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động TCTD là ngân hàng được chia
làm 3 loại : Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách và Ngân hàng

hợp tác xã.
i) Ngân hàng thương mại : là ngân hàng thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận. Với chức năng này, ngân hàng thương mại
là chủ thể duy nhất được thực hiện tất cả các hoạt động huy động vốn bao
gồm : nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác; Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài; Vay vốn của TCTD, tổ
chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; Vay
vốn của Ngân hàng Nhà nước. Ở Việt Nam, Ngân hàng Thương mại tồn tại
dưới các hình thức sau:


17

Ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước: là ngân hàng thương mại do
Nhà nước thành lập, thuộc sở hữu Nhà nước. Nhiệm vụ của NHTM nhà
nước ngoài mục tiêu lợi nhuận còn lồng ghép mục tiêu thực hiện chính sách
kinh tế nhà nước.
Ngân hàng thương mại cổ phần: là ngân hàng thương mại được thành
lập dưới hình thức công ty cổ phần. Ngân hàng thương mại cổ phần là một
dạng công ty cổ phần nên pháp luật áp dụng đối với tổ chức và hoạt động
ngân hàng thương mại cổ phần sẽ bao gồm pháp luật về công ty cổ phần và
quy định pháp luật Ngân hàng.
Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp
đồng liên doanh, góp vốn giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài, tỷ lệ vốn
góp do các bên thỏa thuận song phần vốn của bên nước ngòai không vượt
quá 50% vốn điều lệ của Ngân hàng liên doanh. Thời hạn hoạt động của
ngân hàng liên doanh ở Việt Nam tối đa là không quá 30 năm.
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài: là Ngân hàng được thành lập dựa
trên 100% vốn đầu tư của nước ngoài không phân biệt hình thức tổ chức.

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng
nước ngoài, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và pháp luật Việt Nam,
được ngân hàng mở chi nhánh bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa
vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. Thời gian hoạt động của Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài được ghi trong giấy phép và không quá 20
năm.
ii)

Ngân hàng chính sách: là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, do

nhà nước thành lập để thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao. Lợi nhuận
không phải là mục tiêu hàng đầu của các NH chính sách. Vì thế Ngân hàng
chính sách không được thực hiện tất cả các hoạt động huy động vốn.


18

iii)

Ngân hàng hợp tác xã : là ngân hàng của các quỹ tín dụng nhân

dân, do các quỹ tín dụng nhân dân và 1 số pháp nhân góp vốn thành lập
nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và điều hòa vốn
trong hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân. Đây là loại hình ngân hàng mới
được ghi nhận trong luật các TCTD 2010.
Thứ hai, TCTD phi ngân hàng :
TCTD phi ngân hàng là TCTD chỉ được thực hiện một hoặc một số
hoạt động ngân hàng, trừ hoạt động nhận tiền gửi và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Các TCTD phi ngân hàng bao gồm :
i)


Công ty tài chính : là TCTD phi ngân hàng thực hiện hoạt động

ngân hàng theo giấy phép nhưng không được thực hiện dịch vụ nhận tiền gửi
ngắn hạn và cung ứng dịch vụ thanh toán. Hoạt động của các công ty tài
chính là cho vay, tư vấn tài chính, tiền tệ và một số dịch vụ khác theo quy
định của pháp luật và một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
ii)

Công ty cho thuê tài chính: là TCTD phi ngân hàng có hoạt

động chủ yếu là cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng
trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, phương tiện vận chuyển
và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng thuê giữa bên thuê và bên cho
thuê. So với Ngân hàng thì TCTD phi Ngân hàng được thực hiện ít hoạt
động huy động vốn hơn. TCTD phi Ngân hàng không được nhận tiền gửi
của cá nhân.
Thứ ba, Tổ chức tài chính vi mô:
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình TCTD chỉ thực hiện một số hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cá nhân, hộ gia đình
thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ. Với quy mô và tính chất hoạt động
của mình thì Tổ chức tài chính vi mô chỉ được nhận tiền gửi trong phạm vi
hẹp và được vay vốn của các TCTD, tổ chức tài chính, các cá nhân, tổ chức


19

khác trong và ngoài nước theo quy định của Luật các TCTD 2010. Tổ chức
tài chính vi mô không được tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá và
không được vay vốn từ Ngân hàng nhà nước.

Thứ tư, Quỹ tín dụng nhân dân :
Quỹ tín dụng nhân dân là TCTD do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã, để thực hiện một, một số
hoạt động ngân hàng và nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau trong sản xuất kinh doanh. Cũng giống như Tổ chức tài chính vi mô,
Quỹ tín dụng nhân dân cũng không được thực hiện tất cả các hoạt động huy
động vốn. Quỹ tín dụng nhân dân chỉ được thực hiện hoạt động nhận tiền
gửi và vay vốn của các TCTD, tổ chức tài chính, các cá nhân, tổ chức khác
trong và ngoài nước theo quy định của Luật các TCTD 2010. Quỹ tín dụng
nhân dân không được tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá và không
được vay vốn từ Ngân hàng nhà nước.
Như vậy, ta thấy rằng cách phân loại theo phạm vi thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh được ghi nhận tại Luật TCTD 2010 rạch ròi hơn so với cách
phân loại theo hình thức sở hữu vốn, thể hiện rõ hơn đặc trưng, nhiệm vụ
quyền hạn của mỗi nhóm TCTD, đảm bảo bình đẳng hơn giữa các chủ thể
kinh doanh hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế.
1.2.2.2. Các hình thức huy động vốn của TCTD
Hình thức huy động vốn là cách thức, phương thức mà TCTD sử dụng
để thực hiện hoạt động huy động vốn. Hiện nay, pháp luật đã quy định cụ
thể về các hình thức huy động vốn mà TCTD được phép thực hiện bao gồm
các quy định về cách thức huy động vốn, trình tự, thủ tục huy động vốn, thời
hạn huy động vốn… Các quy định này có ý nghĩa lớn không chỉ đối với các
TCTD mà còn đối với chủ sở hữu vốn. Đây là cơ sở pháp lý rõ ràng để các
chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đồng thời giúp các chủ sở hữu


20

vốn được đa dạng lựa chọn loại hình đầu tư cho phù hợp. Hiện nay có bốn
hình thức huy động vốn bao gồm:

Hoạt động nhận tiền gửi:
Là hoạt động nhận tiền của các tổ chức, cá nhân trong xã hội dưới các
hình thức:
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác.
Như vậy, ta thấy rằng “quan hệ nhận tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát
sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được
phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất, quan hệ nhận tiền gửi là một quan hệ
hợp đồng vay nợ, bởi vì : quan hệ này được thiết lập trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng và tự do thoả thuận giữa các chủ thể. Có sự chuyển giao một
lượng tiền nhất định từ người gửi tiền sang tổ chức nhận tiền gửi để tổ chức
này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn
trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi đến hạn hoặc khi người gửi
tiền có yêu cầu. Đồng thời quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín
nhiệm giữa các bên.
Tuy quan hệ nhận tiền gửi là quan hệ vay nợ nhưng nó có những đặc
điểm riêng giúp ta phân biệt với các quan hệ vay nợ thông thường khác. Đó
là:
Thứ nhất, về chủ thể: quan hệ nhận tiền gửi bao gồm hai loại chủ thể là
người gửi tiền và TCTD. Trong đó người gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong
xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi. Họ đóng vai trò là người cho
vay trong quan hệ này. Còn tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng, được Ngân hàng Nhà nước cho phép
thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của công chúng (sự cho phép của Ngân
hàng Nhà nước được thể hiện bằng việc ghi nhận nghiệp vụ này trong giấy


×