Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.02 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THANH THÚY

QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn này là do chính tác giả nghiên cứu và thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Gia Lâm. Các nội dung được trình
bày trong bản luận văn có tham khảo và sử dụng một số tài liệu, thông tin đã
được công bố theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN THỊ THANH THÚY



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1 .............................................................................................................................. 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................... 7
1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.............................. 7
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự. ... 12
Chương 2: ...............................................................................................................................
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................................ 38
2.1. Thực trạng thực hiện quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự ............................... 38
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị
cáo trong tố tụng hình sự .................................................................................................. 52
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong tố
tụng hình sự. ....................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 67


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự của nước CHXHCN Việt Nam

CQTHTT


Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX

Người tiến hành tố tụng

CQĐT

Hội đồng xét xử

NBC

Cơ quan điều tra

TAND

Người bào chữa

VKS

Tòa án nhân dân

KSV

Viện kiểm sát

NTGTT

Kiểm sát viên

Người tham gia tố tụng


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện đối với mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy,
việc mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của
toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải có những quy định chặt
chẽ để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
trong đó có quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự. Điều 50 của Hiến pháp
năm 1992 quy định: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật”. Việc quy định này của Hiến pháp cũng chỉ là hình thức nếu
không được thực hiện trên thực tế. Bảo vệ quyền con người là mục tiêu và
nhiệm vụ trọng tâm của các thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Bảo
đảm thực hiện có hiệu quả các quyền công dân đã được pháp luật quy định là
tiêu chí để đánh giá sự văn minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Bảo đảm
quyền của bị cáo là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong các bản
hiến pháp của nước ta cũng như được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật
tố tụng hình sự.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy
mặc dù pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng quyền
của bị cáo chưa thực sự được tôn trọng và thực hiện một cách triệt để và
trong một số trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chưa tạo điều kiện để bị

cáo thực hiện quyền của họ. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị
cáo, dẫn đến xử oan người vô tội, xét xử sai …vẫn còn xảy ra là hậu quả của


2

việc chưa nhận thức đúng đắn ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện
quyền của bị cáo. Điều này làm mất lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước
và pháp luật. Việc thực hiện quyền của bị cáo giờ đây không chỉ là mối quan
tâm của riêng bị cáo hay gia đình họ và những người làm công tác bảo vệ
pháp luật mà còn là sự quan tâm của toàn xã hội.
Nghiên cứu đề tài quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, hạn chế tình trạng oan sai, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật góp phần vào công cuộc
đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng xét xử không công
minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân.
Trước đòi h i của thực tế và cũng nhằm khắc phục, giải quyết hậu quả
của tình trạng oan, sai do người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra, ngày 17/03/2003

y ban thường vụ quốc hội đã ra Nghị quyết số

388 2003 NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có th m quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Và theo Báo
cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 388 thì: “ au
Nghị quyết này tính đến tháng
đ ny uc u

i thường của


người với s tiền h n

năm thực hiện

, c quan tư pháp các c p đã tiếp nhận
người và đã thư ng lượng,

i thường cho

t đ ng” [1]. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại

chỉ là giải pháp giải quyết hậu quả của sự vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của bị cáo do người tiến hành tố tụng gây ra. Do vậy, để tránh được tình
trạng oan, sai trong tố tụng hình sự, xâm phạm đến tính mạng, sức kh e,
danh dự, nhân ph m của bị cáo thì những người tiến hành tố tụng cũng như
chính bản thân bị cáo phải thực sự hiểu và nắm r quyền của bị cáo. Quyền
của bị cáo trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận tại Điều 50 BLTTHS và
còn được quy định cụ thể hơn trong các điều luật khác nhằm tạo điều kiện
tốt nhất cho bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, việc


3

nghiên cứu tổng thể về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam là
điều rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
T trước tới nay, đa phần các công trình nghiên cứu khoa học cũng
như các bài viết của các tác giả chủ yếu viết về quyền cơ bản của bị cáo là
quyền bào chữa. Chỉ có một số ít bài viết nghiên cứu riêng rẽ về một số

quyền của bị cáo chứ chưa tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể
về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quyền đó.
Hơn nữa, thực tiễn hiện nay cho thấy, ở m i địa phương lại có cách hiểu,
cách giải thích khác nhau dẫn đến việc áp dụng các quy định về quyền bị cáo
nhiều khi không đúng, gây ra tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự. Trong
thời gian qua đã có một số tác giả nghiên cứu các đề tài liên quan đến quyền
bị cáo như: Tác giả Vũ Thị Kim Thùy, Khóa luận tốt nghiệp năm 2011, với
đề tài: Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; tác giả
Nguyễn Thị Mai, Khóa luận tốt nghiệp năm 2011, với đề tài: Đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên; tác giả Bùi
Ngọc Hải, Khóa luận tốt nghiệp năm 2010, với đề tài: Quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố
tụng hình sự. Ngoài ra, còn một số tác giả cũng nghiên cứu về vấn đề này
như: luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải với cuốn sách: Đảm bảo quyền bào
chữa của người bị buộc tội; tác giả Nguyễn Văn Tuân với cuốn sách : Vai trò
của luật sư trong tố tụng hình sự, tác giả Nguyễn Khắc Quang, tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 12 2010 về vấn đề Bất cập về thực hiện một số quyền
và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng; Tác giả Chu Thị Trang Vân, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 18 tháng 09 2009, vấn đề Hoàn thiện các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và
cơ chế đảm bảo thực hiện; tác giả Phạm Văn Thiệu, tạp chí Tòa án nhân dân
số 10 2008, vấn đề về quyền bào chữa của bị cáo… Tuy nhiên, với những đề


4

tài trên các tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định có liên quan đến
quyền của bị cáo. Do đó có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về
việc thực hiện quyền của bị cáo trong TTHS Việt Nam và luận văn này

không trùng lặp với bất cứ một công trình nào khác .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về quyền của
bị cáo trong tố tụng hình sự, những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam hiện hành về quyền của bị cáo và thực trạng thực hiện quyền của
bị cáo trong tố tụng hình sự những năm gần đây.
Do giới hạn của luận văn thạc sỹ nên việc nghiên cứu đề tài chỉ tập
trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền của bị cáo như khái niệm bị
cáo và quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự, ý nghĩa của việc quy định
quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự, sơ lược lịch sử lập pháp về quyền
của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; quy định của pháp luật hình sự
hiện hành và thực trạng thực hiện quyền của bị cáo, nguyên nhân của những
hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị cáo t đó đưa ra một
số kiến nghị nhằm nâng cao và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
Triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
đồng thời sử dụng phương pháp phân tích, so sánh dựa trên các quy phạm
pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo, bài viết, công trình nghiên cứu
khoa học của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với đánh giá thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự để hoàn thành luận văn có chất lượng.


5

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm r một số vấn đề lý luận
về quyền của của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự, sơ lược lịch sử lập
pháp về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; Những quy định
của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Mặt khác, qua việc nghiên cứu cũng nhận diện, phát hiện những hạn chế,
vướng mắc trong việc thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
quyền của bị cáo. Thực tiễn thực hiện quyền này, t đó tìm ra nguyên nhân
của những hạn chế, vướng mắc trong quy định cũng như thực hiện quyền của
bị cáo và đề xuất một số kiến nghị.
Xuất phát t mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, đề tài có
nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của bị cáo trong tố tụng
hình sự, những quy định của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam và thực trạng thi hành quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về
quyền của bị cáo giúp các độc giả, đặc biệt là những người đang làm công
tác thực tiễn nhận thức r về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự. Những
điểm mới về khoa học của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Làm r khái niệm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.
- Tìm ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về quyền của bị cáo.
- Tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong quy định và
thực hiện quy định về quyền của bị cáo.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền


6

của bị cáo trong tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận
Kết cấu của luận văn bao gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung và quy định của pháp luật hiện hành

về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của bị cáo trong tố tụng hình
sự về quyền của bị cáo và một số kiến nghị.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm bị cáo và quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.
“ Bị cáo” là thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá nhiều trong hoạt động tư
pháp. Ngay trong các sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư pháp do Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ký t năm 1945 đã sử dụng rất phổ biến thuật ngữ
này. Tuy nhiên, mãi đến năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ
th m về hình sự kèm theo thông tư số 16 TANDTC ngày 27 9 1974 của
TANDTC mới đưa ra định nghĩa về bị cáo. Theo đó, “ Bị cáo là người ị truy
cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân.
Trong giai đoạn xét xử TAND chỉ được đưa một người ra xét xử với tư
cách là ị cáo nếu VK ND đã truy t người đó trước TAND, nếu VK không truy
t thì TAND không được xét xử một người với tư cách là ị cáo trừ những người
mà TAND xét xử về việc hình sự nhẹ”.
Sau này, BLTTHS năm 1988 ra đời đã thay đổi khái niệm bị cáo tại Điều
34 và tại Điều 50 BLTTHS hiện hành quy định “ Bị cáo là người đã ị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử”. Như vậy, kể t thời điểm Th m phán được phân công
chủ tọa phiên toà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo và
tư cách này tồn tại suốt giai đoạn xét xử sơ th m, phúc th m và chỉ chấm dứt khi
vụ án bị đình chỉ hoặc khi bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.
Cũng như những chủ thể khác trong TTHS, bên cạnh các quyền chung bị

cáo cũng có những quyền độc lập của mình. Việc xác định một người có tư cách
bị cáo t khi nào là điều rất quan trọng. Bởi vì, khi trở thành bị cáo thì người này
sẽ được hưởng những quyền nhất định được quy định trong pháp luật tố tụng
hình sự, khi đó quyền của bị cáo trong tố tụng sẽ thay đổi so với thời điểm họ
được gọi là bị can. Vậy “ quyền” của bị cáo được hiểu như thế nào?
“ Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng,


8

được làm, được đòi hỏi” [2], như quyền công dân, quyền bầu cử và ứng cử,
quyền sống của con người… Tuy nhiên, cũng có khái niệm cho rằng: “ Quyền là
thể, sức mạnh, lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận hoặc do địa vị đem
lại” [3].
Theo T điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp thì: “
quyền là một khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật
công nhận và đảm ảo thực hiện đ i với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân
được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế”.
Theo đó thì thuật ngữ “ quyền” có hai dấu hiệu đặc trưng đó là:
Thứ nh t, quyền phải có sự th a nhận về mặt pháp lý và được đảm bảo
thực hiện bởi các qui định của pháp luật.
Thứ hai, quyền phải có sự th a nhận về mặt xã hội, gắn liền với các chủ
thể cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ
xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng nhất định.
Quyền của một cá nhân được phát sinh, tăng hay giảm tùy theo t ng thời
điểm của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Các quyền cơ bản của cá nhân
phát sinh khi cá nhân sinh ra và có những quyền cụ thể khác chỉ phát sinh và
được ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất định, tham gia
những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định. Ngoài ra, quyền của
cá nhân có thể được phát sinh do người khác ủy quyền. Tuy nhiên, quyền của cá

nhân cũng phải chịu sự chi phối của phạm vi quyền, gắn với các nghĩa vụ của cá
nhân cũng như chịu sự tác động trong phạm vi giới hạn của pháp luật quốc gia
cũng như trên vùng lãnh thổ nhất định. Quyền của cá nhân cũng chỉ có thể bị
tước b bởi pháp luật và trong đời sống xã hội, quyền của cá nhân luôn là vấn đề
trung tâm. Theo sự phát triển ngày càng tiến bộ của xã hội, phạm vi các quyền
của cá nhân ngày càng được phát triển mở rộng theo hướng đa dạng hóa.
Đồng thời, theo qui luật tất yếu của cuộc sống, quyền luôn gắn liền với
nghĩa vụ, người thực hiện nghĩa vụ thì phải được hưởng quyền và những người
được trao cho những quyền nhất định thì cũng đồng thời phải thực hiện các
nghĩa vụ tương ứng với những quyền được trao. Quyền của người này có thể là


9

nghĩa vụ của người khác và một người chỉ có thể thực hiện được các quyền năng
của mình khi người khác phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ của họ đối
với chủ thể có quyền.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra định nghĩa về quyền của bị
cáo. Sau quá trình tìm hiểu và nghiên cứu một số tài liệu, theo cách hiểu của
chúng tôi thì “ Quyền của ị cáo là tổng thể các điều mà pháp luật quy định cho
họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi từ khi có quyết định của Thẩm phán đưa
vụ án ra xét xử đến khi ản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp
luật”.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự.
Quyền của một chủ thể giúp phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể
pháp luật khác, đồng thời quyền của chủ thể đó cũng có thể xác định vị trí và tầm
quan trọng của chủ thể đó trong mối quan hệ pháp luật. Chính vì vậy, việc quy
định quyền cho một chủ thể trong quan hệ pháp luật là một điều cần thiết không
chỉ đối với chính chủ thể đó mà còn có ý nghĩa với chủ thể khác. Có như vậy,
m i chủ thể trong quan hệ pháp luật mới không xâm phạm quyền và thực hiện

chồng lấn nghĩa vụ của nhau. Theo đó, việc quy định quyền của bị cáo có nhiều
ý nghĩa quan trọng.
* Ý nghĩa chính trị
Việc quy định quyền của bị cáo góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của
công dân. Quyền con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quyền con người
luôn là vấn đề được các nước trên thế giới quan tâm, đề cập trong các văn kiện
pháp lý quốc tế và quốc gia. Ở Việt Nam quyền con người được ghi nhận tại
Hiến pháp và các văn bản dưới luật khác. Việc ghi nhận quyền của bị cáo tại
BLTTHS năm 2003 đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng giúp bị cáo thực
hiện đầy đủ các quyền tố tụng của mình, đồng thời là bảo đảm pháp lý cho việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trước sự xâm phạm của những chủ
thể khác.
* Ý nghĩa xã hội
Trước đây, trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự, quyền của bị cáo chưa


10

được xác định r ràng nên họ thường bị coi là có tội. Dưới con mắt của nhiều
người thì bị cáo chính là người phạm tội mặc dù chưa có bản án kết tội của Tòa
án. Họ luôn có sự thành kiến phân biệt đối xử với bị cáo. Việc BLTTHS đã quy
định chi tiết r ràng các quyền của bị cáo giúp họ ý thức được quyền của họ
trong các quan hệ pháp luật nói riêng và trong mối quan hệ trong xã hội nói
chung. Bên cạnh đó, làm sáng t sự nghi ngờ của mọi người xung quanh đối với
người đã bị Tòa án đưa ra xét xử. Đồng thời, tránh sự vi phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của bị cáo trước những chủ thể khác.
Ngoài ra, việc quy định quyền của bị cáo còn giúp họ thực hiện quyền của
mình trong khuôn khổ mà pháp luật quy định. Như vậy, có thể thấy việc nắm
vững quyền của bị cáo có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự,
đảm bảo xét xử đúng người đúng tội. Trước khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực,

BLTTHS năm 1988 và một số văn bản pháp luật trước đó đã ghi nhận khái niệm
bị cáo và cơ bản đã quy định quyền của bị cáo. Với sự hoàn thiện hơn nữa tại
BLTTHS năm 2003 đã đảm bảo cho bị cáo có quyền tốt nhất khi tham gia vào
các quan hệ tố tụng hình sự.
1.1.3. Sơ lược lịch sử lập pháp về quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt
Nam
Trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời thì pháp luật TTHS Việt Nam chưa
hề có một qui định thống nhất về quyền của bị cáo mà đơn thuần chỉ là những
qui định gián tiếp, riêng lẻ nằm tản mạn trong các văn bản pháp luật khác nhau.
Qua m i thời kì các qui định về quyền của bị cáo ngày càng được quan tâm xây
dựng một cách hoàn thiện hơn. Cho đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời thì pháp
luật TTHS Việt Nam đã thực sự có được những qui định cụ thể và toàn diện nhất
về quyền của bị cáo.
Thời kì thực dân Pháp xâm lược ở Việt Nam có tới 3 BLTTHS khác nhau
được áp dụng tại Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì. Trong đó, theo BLTTHS được áp
dụng ở Bắc Kì thì người tham gia tố tụng được phân loại thành: Bị can, bị cáo;
người làm chứng và người bị hại. Khái niệm bị can, bị cáo vẫn được đồng nhất
và chưa có sự phân biệt r ràng trong thời kì này. Ở một số qui định của bộ luật


11

này đã đề cập đến vấn đề quyền của bị can. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng
dù đã có được những qui định ban đầu về quyền của bị can nhưng trong bộ luật
này vẫn chưa thực sự xác định được ranh giới giữa hai khái niệm bị can, bị cáo.
Trong một số quy định của bộ luật này cho thấy rằng hai khái niệm này dường
như đã bị trộn lẫn khi mà ngay trong giai đoạn xét xử thì tư cách tố tụng của
người bị buộc tội vẫn là bị can. Cụ thể:
Bộ luật TTHS Bắc Kì có quy định về quyền được tham gia phiên tòa,
quyền được tranh luận tại phiên tòa cũng như quyền kháng cáo của ị can: “ Ở

trước phi n tòa, quan chánh thẩm phán tòa tỉnh phải thân hành củ v n và đ i
ch t với các ị can…” ( Điều 4 ); “ Người đư ng sự có quyền năng kháng cáo
là người ị can về tội vi cảnh hoặc ị can về khinh tội, trọng tội… hoặc người
đại iểu đúng phép hoặc người thừa kế của các người y” ( Điều 51).
Sau khi nước ta đã giành được độc lập năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các vấn đề
về tố tụng hình sự nói chung và điều chỉnh về quyền của bị can nói riêng. Mặc
dù đã có những qui định mở rộng hơn về quyền của bị can nhưng một điều hạn
chế cơ bản mà những qui định của các Sắc lệnh thời điểm này chưa khắc phục
được, đó là vẫn chưa có qui định r ràng về việc khi nào người có nguy cơ bị
buộc tội mang tư cách bị can, khi nào người đó có tư cách bị cáo.
Cụ thể là Sắc lệnh số 69 SL do Chủ tịch nước ban hành ngày 18 6 1949 đã
có qui định về quyền bào chữa của bị can. Theo qui định tại Điều 1 Sắc lệnh thì:
“Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các tòa án thường và tòa án đặc iệt
xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án inh tại mặt trận, ị can có thể nhờ một
công dân không phải là luật sư ào chữa cho. Công dân do ị can đã tự chọn để
nh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận”. Điều 2 của Sắc lệnh cũng
đã qui định rằng: “ Nếu ị can không có ai

nh vực, ông Chánh án có thể tự

mình hay theo lời y u c u của ị can, cử một người ra ào chữa cho ị can”.
Qua các qui định trên của Sắc lệnh có thể thấy trong thời kì này quyền bào chữa
của bị can đã được mở rộng hơn so với thời kì trước. Bị can không chỉ có quyền
tự bào chữa hay mời luật sư bào chữa mà còn có quyền nhờ một công dân không


12

phải là luật sư bào chữa cho mình mà chỉ cần đáp ứng được một điều kiện duy

nhất, đó là phải được Chánh án công nhận. Ngoài ra, đối với trường hợp bị can
không có ai bênh vực thì ông Chánh án còn có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của
bị can mà cử một người ra bào chữa cho bị can.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam t năm 1954 đến trước khi BLTTHS
năm 1988 có hiệu lực pháp luật đã có những qui định khá r ràng về quyền của
bị cáo. Bị cáo có những quyền cơ bản như: Quyền bào chữa, quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, quyền được nhận các quyết định tố tụng, quyền
kháng cáo. Tại Thông tư số 19 TATC ngày 02 10 1974 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc th m về hình sự có ghi nhận những người
có quyền kháng cáo là bị cáo, người bào chữa nếu được bị cáo ủy nhiệm hay
đồng ý.
Qua các thời kì phát triển của luật TTHS các qui định về quyền của bị cáo
đã ngày càng được hoàn thiện hơn nhưng cũng phải đến khi BLTTHS năm 1988
chính thức được Quốc hội thông qua vào ngày 28 6 1988 thì mới thực sự có
được những qui định cụ thể về quyền của bị cáo. Bị cáo đã chính thức được pháp
luật TTHS trao cho những quyền cơ bản như: quyền được nhận các quyết định tố
tụng, quyền bào chữa, quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu… Tuy nhiên, một số
quyền quan trọng của bị cáo vẫn chưa được đề cập đến trong BLTTHS năm
1988 mà phải đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời thì mới được đưa vào trong quy
định của Bộ luật này.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo trong tố tụng
hình sự.
Trong suốt quá trình phát triển của luật TTHS Việt Nam trước đây, quyền
của bị cáo chưa được xác định r ràng nên họ thường bị coi là có tội. Do đó, họ
mặc nhiên bị tước đi phần lớn các quyền của công dân. Còn trong luật TTHS
hiện nay, với các nguyên tắc tố tụng xác định bị cáo là người chưa bị coi là có tội
nên pháp luật TTHS đã dành cho họ nhiều quyền hơn trong suốt các giai đoạn tố
tụng. Nếu như BLTTHS năm 1988 đã dành riêng Chương III để qui định về



13

những người tham gia tố tụng, về quyền và nghĩa vụ của họ và trong đó có bị cáo
thì BLTTHS năm 2003 đã kế th a hầu hết các qui định đó của BLTTHS năm
1988. Mặt khác, xuất phát t yêu cầu của cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 01/12/2002 của Bộ Chính trị xác định r hơn quyền của
những người tham gia tố tụng, tạo điều kiện để người bào chữa tham gia vào quá
trình tố tụng như tham gia h i cung bị can, tranh luận dân chủ tại phiên tòa để
đảm bảo thực hiện đầy đủ hơn các quyền của họ trong TTHS, góp phần nâng cao
trách nhiệm của các CQTHTT. BLTTHS năm 2003 đã bổ sung đầy đủ và thể
hiện một cách r ràng, cụ thể các quyền của bị cáo và quyền của bị cáo được qui
định tại khoản 2 Điều 50 BLTTHS được bảo đảm thực hiện bằng các quy định
khác của Bộ luật này, cụ thể bị cáo có các quyền như sau:
1.2.1 Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ vụ án;
bản án, quyết định của Toà án và các quyết định tố tụng khác có liên quan
Các quyền này của bị cáo được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 50
BLTTHS và được bảo đảm thực hiện tại một số điều luật khác, bao gồm:
Thứ nh t, quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo là
người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, xét về lô gic thì quyết định
đầu tiên mà bị cáo được nhận chính là quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do đó,
thời điểm bị cáo nhận được quyết định này là trước phiên tòa sơ th m xét xử vụ
án hình sự. Quyết định đưa vụ án ra xét xử có tính chất pháp lý quan trọng, kể t
thời điểm có quyết định này thì tư cách bị can của người bị buộc tội sẽ chấm dứt
và chuyển sang tư cách bị cáo. Và đây cũng chính là căn cứ để các CQTHTT áp
dụng các biện pháp tố tụng đúng với tư cách của bị cáo.
Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo nhận được phải ghi r và
đầy đủ các thông tin về bị cáo theo quy định tại Điều 178 BLTTHS năm 2003
gồm: họ, tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo;



14

tội danh và điều khoản của BLHS mà VKS áp dụng đối với hành vi của bị cáo;
thời gian, địa điểm mở phiên tòa; họ tên NTHTT: Th m phán, Thư ký Tòa án và
Hội th m ( th m phán dự khuyết, hội th m dự khuyết), KSV tham gia ( KSV dự
khuyết), NBC và những NTGTT: NBC, người phiên dịch, những người được
triệu tập, xét h i và vật chứng cần xem xét tại Tòa.
Theo quy định tại Điều 182 BLTTHS quyết định đưa vụ án ra xét xử
phải được giao cho bị cáo, NBC hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo chậm
nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị
cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo trạng được giao cho NBC hoặc
người đại diện hợp pháp của bị cáo. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể t ngày
có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên toà; trong trường hợp
có lý do chính đáng thì Tòa án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở để bị cáo thực hiện những quyền
tố tụng tiếp theo: quyền được tham gia phiên tòa; quyền đề nghị thay đổi
NTHTT, người giám định, người phiên dịch; quyền đưa ra những tài liệu, đồ
vật, yêu cầu, đặc biệt là xem xét những vật chứng mới, có ý nghĩa với việc xác
minh sự thật vụ án và quan trọng nhất là quyền bào chữa. Nếu có căn cứ pháp
luật chứng minh rằng CQTHTT, NTHTT đã không tạo điều kiện để đảm bảo
cho bị cáo có thể nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, gây ảnh hưởng đến
quyền lợi của mình thì bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa theo quy định tại
Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, quyền được nhận quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy b biện
pháp ngăn chặn.
Trong quá trình xét xử, khi có căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết hoặc
không cần thiết áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì CQTHTT hoặc NTHTT có



15

thể ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy b biện pháp ngăn chặn. Theo quy định
tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm
giam, cấm đi kh i nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có ảnh hưởng lớn đến quá trình giải
quyết vụ án hình sự và hiệu quả cuộc đấu tranh p òng, chống tội phạm. Biện
pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc ảnh hưởng đến quyền
tự do cá nhân và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng mục đích cuối cùng vẫn
là đảm bảo việc xác định sự thật vụ án. M i biện pháp ngăn chặn đều có những
cách thức thực hiện riêng, ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau đến quyền lợi
của bị cáo. Do đó, quyết định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải giao
cho bị cáo, VKS cùng cấp hay trại tạm giam nơi bị cáo đang bị tạm giam. Pháp
luật quy định bị cáo có quyền được nhận các quyết định: áp dụng, thay đổi, hủy
b biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi của
bị cáo. Là cơ sở để bị cáo biết được mình bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nào, cách thức thực hiện biện pháp đó. Bên cạnh đó, việc được giao quyết định
áp dụng, thay đổi quyết định hủy b biện pháp ngăn chặn là căn cứ pháp lý để bị
cáo xác định CQTHTT thực hiện đúng quyết định đó hay không?.
Thứ a, quyền được nhận quyết định đình chỉ vụ án.
Trong giai đoạn t khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi
mở phiên tòa sơ th m nếu người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố đối với vụ án
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc VKS rút toàn bộ quyết định truy tố
hoặc có căn cứ khác theo quy định của pháp luật thì Th m phán ra quyết định
đình chỉ vụ án. Bản thân bị cáo cũng có quyền được nhận quyết định này để họ
biết vụ án đã được đình chỉ, họ được trả tự do nếu họ đang bị tạm giam và thực
hiện quyền được bồi thường hoặc khôi phục các quyền lợi khác.
Thứ tư, quyền được nhận nhận bản án, quyết định của Toà án.

Sau khi kết thúc phiên toà, bị cáo có quyền được nhận bản án hay quyết


16

định của Tòa án. Theo quy định tại Điều 229 BLTTHS, trong thời hạn mười
ngày, kể t ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ th m phải “giao” bản án cho bị cáo,
VKS, NBC. Bản án thể hiện kết quả xét xử của Tòa án. Do đó, trong bản án cần
phải ghi r : ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các thành
viên HĐXX và Thư ký tòa án; họ tên của KSV; họ tên, ngày, tháng, năm sinh,
nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, tiền án,
tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp,
nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của NBC; họ
tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ [4].
Bên cạnh đó, trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân
tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác
định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo
điều, khoản nào của BLHS, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án
phải ghi r những căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc
khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngoài ra trong phần cuối
cùng của bản án phải ghi những quyết định của Tòa án và quyền kháng cáo đối
với bản án.
Có thể thấy rằng, theo quy định tại Điều 229 BLTTHS về việc giao bản
án, nhà làm luật dùng t “ giao” bản án chứ không phải “ gửi” bản án như những
trường hợp khác. Bởi lẽ, đây là những chủ thể quan trọng của vụ án hình sự nên
nhà làm luật mới quy định việc nhận bản án là quyền của bị cáo và việc giao bản
án cho bị cáo là nghĩa vụ của Toà án. Giao bản án cho bị cáo, NBC và VKS là

để họ nhận được bản án một cách chắc chắn đúng thời hạn luật quy định, để họ
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị ( đối với VKS) của mình ( đối với người
bào chữa thì trong trường hợp bào chữa quy định tại điểm k khoản 2 Điều 58).


17

Quy định trên đây của nhà làm luật là muốn nâng cao trách nhiệm của Tòa án để
bảo đảm quyền của các chủ thể nêu trên đặc biệt là bị cáo, tránh trường hợp việc
“ gửi” bản án có thể bị thất lạc, hoặc bị chậm do quá trình gửi bản án đến cho
họ. Ví dụ: nếu gửi bản án thì Tòa án phải gửi qua đường bưu điện, trong quá
trình bưu điện chuyển bản án có thể bị thất lạc, hoặc bị chậm thời gian… như
vậy, có thể dẫn đến tình trạng nhiều khi bị cáo nhận được bản án thì đã quá thời
hạn kháng cáo, và gây ra việc kháng cáo quá hạn không cần thiết.
Như vậy, bản án là căn cứ pháp lý xác định bị cáo có phạm tội hay không,
tội danh của bị cáo, các căn cứ pháp lý chứng minh bị cáo phạm tội, hình phạt
và các biện pháp tư pháp sẽ áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo phải được nhận bản
án càng sớm càng có lợi cho họ, để trong thời hạn mười lăm ngày kể t ngày
tuyên án bị cáo có điều kiện biết r hơn nội dung của bản án hoặc quyết định
của Tòa án, giúp họ có thể kháng cáo bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ năm, quyền được nhận các quyết định tố tụng khác.
Các quyết định tố tụng do CQTHTT ban hành ít nhiều đều ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền của bị cáo. Bên cạnh được giao bản án và những quyết định
trên, bị cáo còn được nhận quyết định chuyển vụ án, quyết định về việc bắt giam
hoặc trả tự do cho bị cáo.
Việc pháp luật TTHS quy định bị cáo có quyền được nhận các văn bản,
quyết định tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
và đảm bảo tốt việc thực hiện quyền tố tụng khác của bị cáo. M i một quyết
định có ảnh hưởng nhất định đối với quyền lợi của bị cáo. Quy định bị cáo có
quyền nhận các văn bản, quyết định trên giúp bị cáo nắm được diễn biến quá

trình giải quyết vụ án, những quyền lợi mà bị cáo được hưởng và nghĩa vụ phải
thực hiện.
Nhằm đảm bảo cho bị cáo nhận được các quyết định của Tòa án, Điều
182 đã quy định CQTHTT “ phải” có trách nhiệm giao các quyết định này cho


18

bị cáo, NBC hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo. Đối với bản án của Tòa
án, BLTTH đã dành riêng Điều 229 quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc
giao bản án cho bị cáo trong thời hạn luật định. Có thể thấy pháp luật TTHS quy
định trách nhiệm của CQTHTT như trên có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo
việc thực hiện quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng của bị cáo.
Bộ luật TTHS quy định bị cáo có quyền được nhận các văn bản, quyết
định tố tụng giúp bị cáo cập nhật được diễn biến quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng của
bị cáo vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Vì rất nhiều lí do và nguyên nhân khác
nhau dẫn đến nhiều trường hợp bị cáo không nhận được các văn bản, quyết định
tố tụng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của họ, đồng thời bị cáo
không thể thực hiện được tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
1.2.2. Quyền tham gia phiên toà
Quyền này được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 50 BLTTHS và cụ thể
hoá tại Điều 187 bộ luật này, là việc bị cáo có quyền có mặt tại phiên toà xét xử
của Tòa án. Điều này thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo sẽ bình đẳng với KSV và những người tham gia tố tụng
khác trong việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ tại tòa.
Việc bị cáo tham gia phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ.
Điều 187 BLTTHS năm 2003 có quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
như sau: “ Bị cáo phải có mặt tại phi n tòa theo gi y triệu tập của Tòa án; nếu
vắng mặt không có lý do chính đáng thì ị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều

của Bộ luật này; nếu ị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn
phiên tòa.
Nếu ị cáo ị ệnh tâm th n hoặc ị ệnh hiểm nghèo khác thì Hội đ ng
xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi ị cáo khỏi ệnh.
Nếu ị cáo tr n tránh thì Hội đ ng xét xử tạm đình chỉ vụ án và y u c u


19

C quan điều tra truy nã ị cáo”.
Theo quy định trên, nếu bị cáo vắng mặt có lí do chính đáng thì phải hoãn
phiên tòa. Trong trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà không có lí do
chính đáng thì sẽ bị áp giải. Trường hợp bị cáo trốn, HĐXX phải tạm đình chỉ vụ
án và yêu cầu CQĐT tiến hành truy nã bị cáo.
Trong trường hợp bị cáo bị bệnh tâm thần, hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác
thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo kh i bệnh. Quy định này thể
hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, khi bị cáo trong tình trạng không thể
dự phiên tòa, thì việc đình chỉ vụ án chờ đến khi họ khôi phục lại tình trạng sức
kh e bình thường là hoàn toàn hợp lí. Nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp
bị cáo lợi dụng quy định này nhằm trốn tránh, kéo dài thời gian bệnh để không
phải dự phiên tòa. Ảnh hưởng đến quá trình xét xử và tìm ra sự thật vụ án. Do
vậy, nhằm đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi, pháp luật TTHS
quy định Tòa án vẫn có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Đó là khi bị cáo
trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài không thể
triệu tập đến phiên tòa, hoặc nếu bị cáo vắng mặt và sự vắng mặt không trở ngại
đến việc xét xử và bị cáo đã được giao quyết định triệu tập một cách hợp lệ theo
quy định tại khoản 2 Điều 187 BLTTHS năm 2003.
Tòa án xét xử sơ th m là để xác định bị cáo có tội hay không có tội, có
phải chịu hình phạt hay không, mức độ phạm tội đến đâu. Còn xét xử phúc th m
trong trường hợp bị cáo có kháng cáo là để đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo.

Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về sự có mặt của bị cáo tại phiên toà
phúc th m. Vì vậy, để áp dụng pháp luật thống nhất khi cùng quy định một vấn
đề, BLTTHS cần bổ sung thêm những quy định cụ thể về sự có mặt của bị cáo
tại phiên tòa phúc th m để quyền tham gia phiên tòa của bị cáo được đảm bảo.
1.2.3. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ
Trong quan hệ tố tụng, m i chủ thể khác nhau có quyền và nghĩa vụ khác


20

nhau. Do vậy, việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho những chủ thể khác nhau
khi tham gia tố tụng là điều rất cần thiết. Việc xét xử vụ án hình sự tại Tòa án có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của bị cáo, chính vì vậy, việc giải thích
quyền và nghĩa vụ cho bị cáo là trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng. Khi
biết được quyền và nghĩa vụ của mình, bị cáo sẽ chủ động thực hiện tốt hơn, đặc
biệt là quyền tự bào chữa; quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và quyền kháng
cáo.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc giải thích quyền và nghĩa vụ
cho bị cáo thuộc trách nhiệm của chủ tọa phiên tòa trong thủ tục bắt đầu phiên
tòa. Tức là chỉ khi mở phiên tòa xét xử sơ th m thì bị cáo mới biết được quyền
của mình t phía Tòa án. Có ý kiến cho rằng, đến khi mở phiên tòa sơ th m mới
giải thích cho bị cáo quyền và nghĩa vụ của họ là muộn và chỉ mang tính hình
thức. Vì quyền và nghĩa vụ của bị cáo đã xuất hiện t khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử của Tòa án. Nếu chờ đến khi phiên tòa xét xử diễn ra bị cáo mới
được giải thích r quyền và nghĩa vụ của mình thì điều này ảnh hưởng đến việc
thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ của bị cáo. Bởi số bị cáo hiểu biết quy định
của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của họ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hơn nữa
họ cũng ít có điều kiện tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của mình trước khi phiên tòa
diễn ra. Do không biết trước nên bị cáo thường không có sự chu n bị cho mình
để thực hiện các quyền một cách tốt nhất. Đặc biệt là các quyền quan trọng như

quyền tham gia phiên tòa. Nhiều trường hợp, bị cáo không có sự chu n bị để đưa
ra những tài liệu đồ vật hay yêu cầu có ý nghĩa đối với việc gỡ tội cho bị cáo hay
xác minh sự thật vụ án.
Theo quan điểm cá nhân, chúng tôi đồng ý với ý kiến trên, nhất trí cho
rằng thời điểm giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo cần sớm hơn. Thời điểm
người có nguy cơ bị buộc tội trở thành bị cáo cũng sẽ là thời điểm họ được biết
về quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, khi giao quyết định đưa vụ án ra xét xử
cho bị cáo cần giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo để họ có thời gian chu n


21

bị và thực hiện tốt hơn.
1.2.4. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch
Quyền đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của
bị cáo được quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 50 và ghi nhận việc thực hiện tại
Điều 42 và tại Điều 43 BLTTHS năm 2003. Đây là quyền tố tụng của bị cáo thể
hiện r ràng nguyên tắc “ Đảm ảo sự vô tư của những người tiến hành t tụng”
quy định tại Điều 14 BLTTHS năm 2003.
Thứ nh t, quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng
Nhiệm vụ của chủ thể tiến hành tố tụng là tìm ra sự thật vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ, trong đó yêu cầu khách quan được đặt lên hàng
đầu. M i chủ thể khi tiến hành tố tụng có những vai trò nhất định trong việc giải
quyết vụ án hình sự. Tại phiên tòa, KSV sẽ phải chứng minh hành vi phạm tội
có phải do bị cáo thực hiện hay không, nếu có thì phạm tội gì và cần áp dụng
khung hình phạt nào. Nếu KSV thực hiện việc chứng minh hành vi phạm tội của
bị cáo không đúng quy định của pháp luật dẫn đến áp dụng sai khung hình phạt
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, uy tín và quyền lợi khác của bị cáo. Việc
xét xử do HĐXX tiến hành có ảnh hưởng rất lớn đến quyền của bị cáo. Xét xử

không được tiến hành công khai hoặc xét xử theo ý kiến chủ quan của HĐXX sẽ
ảnh hưởng không nh đến quyền lợi của bị cáo. Thư ký toà án có trách nhiệm
phổ biến nội quy phiên tòa, báo cáo với HĐXX những người được triệu tập đến
phiên tòa và ghi biên bản phiên tòa. Nếu thư ký toà án không phổ biến nội quy
phiên tòa hoặc phổ biến không đúng sẽ làm cho trật tự phiên tòa không được
đảm bảo. Việc ghi biên bản phiên tòa không chính xác sẽ dẫn đến việc xem xét
tội danh và quyết định trách nhiệm hình sự của bị cáo không khách quan. Như
vậy, khi tiến hành tố tụng nếu vì một lí do nào đó mà NTHTT không khách quan
thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bị cáo. Vì sự không khách quan của


×