Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.83 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH ĐỒNG VANG

QUYỀN CỦA CHỦ SỞ HỮU NHÃN HIỆU
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vũ Thị Hải Yến

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, thông tin nêu
trong Luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn không sao chép
từ bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Đồng Vang




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………..

2

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài………………………………………….

3

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài……………………………………

3

5. Mục đích nghiên cứu……………………………………………….

3

6. Cơ cấu của luận văn………………………………………………..

4

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ QUYỀN CỦA CHỦ
SỞ HỮU NHÃN HIỆU
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu…………………………………...

5

1.1.1. Khái niệm và điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu……………

5

1.1.2. Các loại nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam…………………

6

1.1.3. Chức năng cơ bản của nhãn hiệu……………………………...

7

1.2. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu…………………………………………………………………….

8

1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu……

10

1.2.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu……..

11


1.2.3. Cơ chế xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu……………………………………………………………………..

12

1.2.3.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ
sở đăng ký……………………………………………………………..

12

1.2.3.2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên cơ sở thực tiễn sử
dụng……………………………………………………………………

16

1.2.4. Chủ sở hữu nhãn hiệu…............................................................

17


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ
TUỆ VIỆT NAM VỀ QUYỀN CỦA CHỦ SỞ HỮU NHÃN HIỆU
2.1. Quy định của pháp luật về quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu

18

2.1.1. Quyền sử dụng nhãn hiệu...........................................................


19

2.1.2. Quyền cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu......................

20

2.1.3. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu.....................

23

2.1.4. Quyền định đoạt nhãn hiệu.......................................................

33

2.2. Quy định của pháp luật về giới hạn quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu...............................................................................................

34

2.2.1. Nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu.....................................................

34

2.2.2. Hành vi sử dụng nhãn hiệu một cách trung thực không bị
coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu…………………………...

37

2.2.3. Hết quyền đối với nhãn hiệu…………………………………..


40

2.2.3.1. Điều kiện dẫn đến hết quyền đối với nhãn hiệu……………..

40

2.2.3.2. Hệ quả pháp lý của hết quyền đối với nhãn hiệu……………

43

2.2.3.3. Cơ chế hết quyền và nhập khẩu song song………………….

44

2.2.3.4. Hết quyền đối với nhãn hiệu trong trường hợp sửa chữa
hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ..............................................

46

CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VỀ QUYỀN CỦA CHỦ SỞ HỮU
NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về quyền của
chủ sở hữu nhãn hiệu………………………………………………….
3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền và giới hạn
quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu……………………………………..

48
48



3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu................................................................................................

55

3.1.2.1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu...............................................................................................

56

3.1.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các biện pháp bảo vệ quyền
của chủ sở hữu nhãn hiệu…………………………………………….

59

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định pháp luật về quyền
của chủ sở hữu nhãn hiệu......................................................................

65

3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu..........................................................

65

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
pháp luật về quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu...................................


68

KẾT LUẬN

72


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế ấy, các doanh nghiệp Việt Nam
phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã lớn mạnh và phát triển
bền vững. Sức mạnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện nay không chỉ được quyết
định bởi các yếu tố mang tính truyền thống như vốn, kinh nghiệm quản lý,…mà nó còn
thể hiện ở rất nhiều các yếu tố khác như uy tín, tên tuổi của doanh nghiệp trên thị trường.
Để có được những yếu tố này, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Có thể nói, một doanh nghiệp hiện nay có được người tiêu dùng biết đến hay
không chính là thông qua nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp và
như vậy, nhãn hiệu chính là yếu tố quyết định chỗ đứng của một doanh nghiệp trên thị
trường.
Về vấn đề này, có thể khẳng định rằng, hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt
Nam, từ các doanh nghiệp lớn cho tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí ngay cả đối
với các cơ sở sản xuất thủ công ở trong những làng nghề truyền thống đều đã bắt đầu ý
thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đã
bắt đầu quan tâm đến việc tạo ra cho hàng hóa, dịch vụ của mình một nhãn hiệu và cũng
quan tâm đến việc đăng ký xác lập quyền đối với các nhãn hiệu đó. Điều này đã được
minh chứng cụ thể thông qua số đơn đăng ký xác lập quyền đối với nhãn hiệu tại Cục sở

hữu trí tuệ rất lớn và không ngừng tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, cần phải
nhìn nhận một thực tế rằng, mặc dù các doanh nghiệp của chúng ta đã bắt đầu quan tâm
đến các vấn đề về sở hữu trí tuệ mà cụ thể là các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu, song,
kiến thức và sự hiểu biết của họ liên quan đến quyền sở hữu nhãn hiệu còn vô cùng hạn
chế. Hầu hết các doanh nghiệp chưa hiểu hết được rằng việc Nhà nước ghi nhận quyền sở
hữu đối với nhãn hiệu sẽ đồng nghĩa với việc họ được trao những quyền năng gì? Phạm
vi từng quyền năng cụ thể của họ đến đâu và họ có quyền làm gì để bảo vệ những quyền
năng đó của mình? Chính sự thiếu hiểu biết này dẫn đến việc nhiều chủ thể dù nắm quyền


2

sở hữu nhãn hiệu trong tay nhưng lại không dám khai thác triệt để quyền năng đó, ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, đánh mất lợi thế cạnh tranh với đối
thủ. Trong khi đó, các chủ thể sản xuất, kinh doanh khác vì thiếu hiểu biết quyền hạn của
chủ thể khác đã vô tình có những hành vi xâm phạm những quyền năng đó dẫn đến việc
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý không đáng có. Còn các cơ quan thực thi pháp luật
không thể tiến hành xử lý hành vi xâm phạm một cách triệt để, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu, cản trở sự phát triển chung của nền kinh tế, xã
hội.
Xuất phát từ những lý do trên, thiết nghĩ việc đi sâu nghiên cứu đề tài “Quyền của
chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” là vấn đề
cấp thiết, nhằm phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành
về những quyền năng pháp luật cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu được tiến hành, phạm vi
giới hạn các quyền năng đó cũng như các biện pháp bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn
hiệu. Thông qua đó, giúp các chủ thể sản xuất, kinh doanh có được cái nhìn rõ hơn về
những vấn đề này, vận dụng chúng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách hợp
pháp và hợp lý, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tránh được những hậu quả
pháp lý đáng tiếc, nâng cao được vị thế, sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời góp
phần tạo ra một thị trường phát triển lành mạnh, bền vững.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến các vấn đề về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, có thể
nói, hiện nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, từ các công trình luận án, luận
văn, khóa luận tốt nghiệp cho đến các tác phẩm sách, báo, các bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu
các vấn đề riêng rẽ như: Trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu, giới hạn quyền sở hữu nhãn hiệu bao gồm nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu và hết quyền
đối với nhãn hiệu, hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu,…Vấn đề nghiên cứu về
nội dung cụ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, và hơn thế nữa nó lại được
đặt trong mối tương quan với bức tranh tổng thể về thực tiễn thực hiện các quy định pháp


3

luật về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu, thực trạng
vấn đề bảo vệ quyền hiện nay thì có thể nói, đây là một trong những công trình đầu tiên.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài này chỉ được nghiên cứu trong phạm vi giới hạn các quy định của pháp luật
sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về nội dung, giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Một số quy
định của các Điều ước quốc tế hoặc pháp luật các quốc gia, liên minh khác về các vấn đề
liên quan chỉ được đưa ra nhằm mục đích đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp
luật trong nước chứ không nhằm mục đích nghiên cứu chuyên sâu. Các số liệu thực tiễn
được đưa ra cũng chỉ giới hạn trong phạm vi kết quả thực tiễn thực hiện các quy định
pháp luật liên quan của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, bình luận các
quy định của pháp luật, so sánh pháp luật trong nước với một số quy định trong các Điều
ước quốc tế và pháp luật các quốc gia khác. Đồng thời, để có được cái nhìn tổng quát về
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan, tác giả đã sử dụng phương

pháp sưu tầm, phân tích, đánh giá số liệu, nghiên cứu, tìm hiểu thực tế và từ đó rút ra các
nhận xét, đánh giá.
5. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả nhằm mục đích:
- Giúp cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là các chủ thể quyền sở hữu nhãn
hiệu có được cái nhìn tổng quát và rõ ràng về nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, phạm vi giới hạn quyền
mà các chủ thể được phép tiến hành cũng như các biện pháp pháp lý pháp luật quy định
để bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu.
- Có được cái nhìn tổng quan về thực trạng các quy định của pháp luật điểu chỉnh
các vấn đề liên quan đến quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu, bức tranh tổng thể về việc thực
hiện các quy định của pháp luật của các chủ thể quyền cũng như thực trạng việc xâm


4

phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam hiện nay và công tác bảo
vệ các quyền năng đó.
- Đề ra một số giải pháp mang tính định hướng chung nhằm nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng các quy định pháp luật về quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu. Cần lưu ý rằng
đây chỉ là những kiến nghị mang tính định hướng. Các giải pháp cụ thể cho từng vấn đề
thiết nghĩ cần phải có sự nghiên cứu, góp ý kỹ càng từ các bên liên quan mới mong đề ra
được những giải pháp mang tính thiết thực.
6. Cơ cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm
3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về nhãn hiệu và quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
- Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về quyền
của chủ sở hữu nhãn hiệu
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền

của chủ sở hữu nhãn hiệu tại Việt Nam và một số kiến nghị


5

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ QUYỀN CỦA CHỦ SỞ HỮU
NHÃN HIỆU
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu
1.1.1. Khái niệm và điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu
Khái niệm nhãn hiệu theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 được quy định
cụ thể tại Khoản 16 Điều 4 phần giải thích từ ngữ như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng
để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Đây là một quy
định đã mang tính khái quát hơn rất nhiều so với quy định của Bộ luật dân sự 1995 khi sử
dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” thay cho “nhãn hiệu hàng hóa” và không hề giới hạn các dấu
hiệu có thể được đăng ký làm nhãn hiệu. Quy định này cho phép các doanh nghiệp có thể
hiểu được một cách mở rộng là “bất kỳ dấu hiệu nào” chỉ cần có khả năng phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của ḿnh với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác là có thể được đăng
ký làm nhãn hiệu. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc tạo ra
một dấu ấn cho hàng hóa, dịch vụ của mình. Việc sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” thay thế
cho thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” trong hệ thống pháp luật hiện hành đã tránh được
tình trạng dễ gây sự hiểu lầm là thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” chỉ được sử dụng cho
hàng hóa mà không bao gồm nhãn hiệu được sử dụng trong dịch vụ của người áp dụng
(trong Nghị định 63/CP đã phải có giải thích “nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là bao gồm
cả nhãn hiệu dịch vụ”). Đồng thời, việc sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” còn phù hợp với
các thuật ngữ được sử dụng cho các loại nhãn hiệu khác như “nhãn hiệu tập thể”, “nhãn
hiệu liên kết”, “nhãn hiệu nổi tiếng”
Tuy nhiên, khái niệm này không quy định rõ các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu,
theo đó không hạn chế các loại dấu hiệu có thể được sử dụng làm nhãn hiệu. Điều này sẽ
gây không ít khó khăn cho các nhà sản xuất, kinh doanh khi có nhu cầu đăng ký nhãn

hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Với khái niệm nêu trên, rất nhiều các chủ thể hiểu
rằng họ có thể tùy nghi đăng ký những dấu hiệu bất kỳ theo ý chí của họ. Điều này tạo
nên áp lực và khó khăn cho các cơ quan đăng ký khi phải xem xét, tra cứu, đánh giá


6

những dấu hiệu đó có khả năng được đăng ký làm nhãn hiệu hay không. Do đó, việc quy
định điều kiện để một nhãn hiệu được bảo hộ là vô cùng cần thiết và quan trọng. Điều 72
Luật sở hữu trí tuệ đã quy định cụ thể về vấn đề này. Theo đó: “Nhãn hiệu được bảo hộ
nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả
hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.
Như vậy, Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ đã xác định cụ thể các điều kiện để một dấu
hiệu có thể được bảo hộ là nhãn hiệu. Đây là hành lang pháp lý để các nhà sản xuất, kinh
doanh tạo lập cho mình một nhãn hiệu phù hợp. Theo đó, không phải bất kỳ các dấu hiệu
nào cũng có thể được sử dụng và bảo hộ là nhãn hiệu mà pháp luật đặt ra những yêu cầu
cụ thể đối với chúng. Cụ thể, để được bảo hộ là nhãn hiệu thì trước tiên đó phải là dấu
hiệu nhìn thấy được. Điều này có nghĩa pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ những nhãn hiệu
có thể nhận biết được bằng thị giác. Tiếp đó, nó phải có khả năng phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau.
1.1.2. Các loại nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005, có thể thấy hiện nay, pháp luật Việt
Nam thừa nhận có những loại nhãn hiệu sau đây:
- Nhãn hiệu hàng hóa: là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của những người sản xuất
khác nhau.
- Nhãn hiệu dịch vụ: là dấu hiệu để phân biệt dịch vụ do các chủ thể kinh doanh
khác nhau cung cấp.

- Nhãn hiệu tập thể: là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân không phải là thành viên tổ chức đó. (Khoản 17 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ).
- Nhãn hiệu chứng nhận: là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các


7

đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung
cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa,
dịch vụ mang nhãn hiệu. (Khoản 18 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ).
- Nhãn hiệu liên kết: là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên
quan đến nhau. (Khoản 19 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ).
- Nhãn hiệu nổi tiếng: là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. (Khoản 20 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ).
1.1.3. Chức năng cơ bản của nhãn hiệu
* Chức năng phân biệt
Chức năng phân biệt của nhãn hiệu được hiểu là nhãn hiệu giúp phân biệt hàng
hóa dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Có thể nói đây là
chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nhãn hiệu. Ngay từ khi hình thành, nhãn hiệu đã
được coi như một hình thức cô đọng và khái quát truyền đạt các thông tin về hàng hóa,
dịch vụ; là dấu hiệu đầu tiên và dễ dàng nhất để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở
kinh doanh khác nhau. Ngày nay với sự đa dạng của các loại hàng hóa, dịch vụ, chức
năng ấy càng được thể hiện rõ nét và trở nên quan trọng hơn. Nhãn hiệu được coi là con
đường ngắn nhất để khách hàng nhớ tới doanh nghiệp cũng như sản phẩm của họ. Ngoài
ra, mặc dù mục đích ban đầu của việc sử dụng nhãn hiệu là để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ, tuy nhiên, khi sản phẩm đã chiếm được thị trường, nhãn hiệu trở thành biểu tượng của
uy tín, chất lượng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đó. Lẽ dĩ nhiên, nhãn hiệu càng uy

tín, càng dễ bị người khác lợi dụng để sản xuất hàng giả, hàng nhái. Vì thế nhãn hiệu
không chỉ giúp phân biệt hàng hóa dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau mà còn
giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó với hàng giả
hàng nhái.
* Chức năng quảng cáo hoặc tiếp thị
Như đã trình bày ở phần chức năng phân biệt của nhãn hiệu, ngay từ khi hình
thành, nhãn hiệu đã được coi như một hình thức cô đọng và khái quát truyền đạt các


8

thông tin về hàng hóa, dịch vụ, chính bởi vậy, nhãn hiệu được coi như một công cụ
makerting quan trọng truyền đạt đến người tiêu dùng uy tín của hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu. Nhãn hiệu truyền tải một thông điệp về hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất tới
người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng giảm chi phí tìm kiếm. Thông thường, nếu không
có những thông tin mà nhãn hiệu mang đến, người tiêu dùng sẽ phải bỏ ra chi phí cao hơn
để tìm kiếm hàng hóa, dịch vụ theo mong muốn. Song, với nhãn hiệu, người tiêu dùng
hoàn toàn có thể biết được hàng hóa, dịch vụ đó do doanh nghiệp nào cung cấp, chất
lượng ra sao,…mà không cần phải bỏ chi phí cho việc tìm kiếm thông tin cũng như công
sức để tìm hiểu những thông tin đó. Chính thông qua sự phổ biến của nhãn hiệu mà hàng
hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu sẽ ngày càng được quảng bá rộng rãi.
* Chức năng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ
Do người tiêu dùng có xu hướng sử dụng nhãn hiệu để nhận biết loại hàng hóa,
dịch vụ sẽ thỏa mãn nhu cầu của họ nên đã tạo ra động lực cho các nhà sản xuất và phân
phối nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người tiêu dùng về chất lượng sản
phẩm. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, cách thức cổ điển, an toàn và phổ
biến nhất để giành được sự trung thành của người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu cụ thể
thông qua việc duy trì chất lượng ổn định của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Do đó,
việc sử dụng nhãn hiệu có khuynh hướng khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất
lượng ổn định cho hàng hóa và dịch vụ được chào bán dưới nhãn hiệu của họ. Nhãn hiệu

ngày càng lớn mạnh chính là sự thể hiện chất lượng của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn
hiệu ngày càng tốt hơn. Sử dụng một sản phẩm có nhãn hiệu, khách hàng có thể yên tâm
về xuất xứ, nguồn gốc và xác định được chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vi
phạm, tranh chấp.
1.2. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Trước khi đi tìm hiểu những nét khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu, cần phải làm rõ một vấn đề đó là: mặc dù tên tiêu đề của đề tài nghiên cứu
là “Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam”, song tại tiểu mục này của đề tài nghiên cứu, tác giả lại đề cập nghiên cứu những


9

vấn đề khái quát chung về “quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu” là bởi theo tìm
hiểu của tác giả, với cách hiểu thông thường hiện nay, khi nhắc tới quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu, người ta mặc nhiên hiểu rằng đó chính là quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu. Sở dĩ có điều này là bởi như chúng ta đều biết, nhãn hiệu là một trong những
đối tượng quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp. Điều này đã được thừa nhận một
cách rộng rãi trong cộng đồng quốc tế và với Việt Nam, nó cũng đã được ghi nhận ngay
tại khoản 2 Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành, theo đó: “Đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý”. Cũng giống như những
đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu là một loại tài sản đặc biệt. Nó
đặc biệt ở chỗ, mặc dù bản thân nhãn hiệu là những dấu hiệu hữu hình (điều kiện để được
bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam phải là dấu hiệu nhìn
thấy được), thế nhưng nó lại không phải là một thứ vật chất cụ thể mà chủ thể sở hữu nó
có thể chiếm hữu được. Nhãn hiệu một khi đã được bộc lộ thì bất cứ ai biết đến nó đều có
thể chiếm giữ. Hay nói một cách khác, giá trị của một nhãn hiệu không nằm ở khả năng
chiếm giữ nhãn hiệu đó mà nó được thể hiện ở khía cạnh quyền khai thác công dụng của
nó. Chính bởi vậy, quyền sở hữu đối với nhãn hiệu nói riêng và đối với các đối tượng sở

hữu công nghiệp nói chung không giống như quyền sở hữu đối với những tài sản hữu
hình khác và điều này đã khiến cho quyền sở hữu đối với các đối tượng này mang một
tên gọi riêng, đó là quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời nó cũng đòi hỏi cần có những
chế định pháp lý riêng điều chỉnh. Hơn thế nữa, bản thân cách quy định của Luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam hiện hành cũng đã nói lên một điều rằng, quan điểm của các nhà lập
pháp Việt Nam thừa nhận khi nhắc đến quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu là nhắc đến
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Cụ thể, Điều 123 của Luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam có tiêu đề “Quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp”. Điều này lại
được kết cấu nằm trong Chương IX của Luật có tiêu đề “Chủ sở hữu, nội dung và giới
hạn quyền sở hữu công nghiệp”.
Chính vì những lý do trên đây, trong phạm vi bài nghiên cứu này, thuật ngữ “quyền


10

của chủ sở hữu nhãn hiệu” được hiểu là “quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
của chủ sở hữu nhãn hiệu”.
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Để hiểu được khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trước hết
phải xuất phát từ khái niệm quyền sở hữu công nghiệp nói chung. Hiện nay, khái niệm
quyền sở hữu công nghiệp có thể được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau và ở mỗi góc
độ lại cho chúng ta một cách hiểu riêng. Cụ thể:
- Hiểu theo nghĩa khách quan: Quyền sở hữu công nghiệp là một chế định pháp
luật bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tạo, sử dụng,
định đoạt các sản phẩm do lao động trí tuệ làm ra trong lĩnh vực công nghiệp. Có thể
thấy, cách hiểu này chủ yếu đề cập và nhấn mạnh đến khía cạnh pháp lý của quyền sở
hữu công nghiệp chứ không quan tâm đề cập đến khía cạnh bản chất hành vi của chủ thể
quyền quyền này.
- Hiểu theo nghĩa chủ quan: Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền dân sự cụ thể

của chủ thể đối với các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp. Cách hiểu này hiện nay là
phổ biến bởi nó phản ảnh bản chất hành vi của chủ thể quyền. Theo cách hiểu này, khoản
4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp
là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Với cách định nghĩa như trên của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về
“Quyền sở hữu công nghiệp” nói chung, chúng ta có thể rút ra khái niệm về “Quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu” như sau: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với nhãn hiệu do mình sở hữu”.
Tuy nhiên, với cách định nghĩa như trên, nó mới chỉ nêu ra được phạm vi chủ thể
của quyền đó chính là cá nhân, tổ chức và đối tượng của quyền là nhãn hiệu. Cách định
nghĩa như vậy, nếu không đưa ra giải thích gì thêm sẽ khiến mọi người hiểu rằng quyền


11

sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng giống như quyền sở hữu bất cứ một tài sản
hữu hình nào khác. Trong khi đó, rõ ràng, như đã phân tích ở trên, nhãn hiệu với tư cách
là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản đặc biệt. Nó là một
loại tài sản trí tuệ, do đó, quyền năng chiếm hữu của chủ sở hữu đối với loại tài sản này
rất khó, hay hầu như không thực hiện được. Giá trị của nhãn hiệu nằm ở khả năng khai
thác công dụng của nhãn hiệu, hay nói cách khác chính là khả năng sử dụng nhãn hiệu
một cách độc quyền. Đương nhiên, bởi nhãn hiệu là một loại tài sản thuộc sở hữu của chủ
thể nhất định nên quyền năng về định đoạt nhãn hiệu vẫn được ghi nhận và có khả năng
thực hiện trên thực tế. Hơn thế nữa, xuất phát bởi lý do nhãn hiệu là một loại tài sản vô
hình và khả năng chiếm giữ nhãn nhãn hiệu là bất khả thi của chủ thể sở hữu nó, do đó,
khả năng chủ thể tự xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thông qua việc thực tế chiếm
giữ và quản lý nhãn hiệu là không thể. Trái lại, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu chỉ phát sinh và được bảo vệ bởi Nhà nước thông qua thủ tục ghi nhận của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền về quyền sở hữu công nghiệp.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra một cách hiểu chi tiết hơn về
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu như sau: “Quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với nhãn hiệu, được xác lập theo những
căn cứ nhất định do pháp luật quy định và được đặc trưng bởi quyền độc quyền sử dụng
và quyền định đoạt đối với nhãn hiệu”.
1.2.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có một số đặc điểm như sau:
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chủ yếu hướng tới việc bảo hộ các
quyền tài sản. Việc khai thác giá trị quyền được thực hiện thông qua hành vi độc quyền
sử dụng nhãn hiệu cũng như ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu. Đây được coi là
quyền năng cơ bản nhất của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Bản thân nhãn
hiệu không tạo ra giá trị mà chúng phải được gắn vào những loại hàng hóa, dịch vụ,
phương tiện hữu hình cụ thể và phát sinh qua quá trình sử dụng, khái thác thương mại các
đối tượng hữu hình này.


12

- Để được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, bản thân nhãn hiệu
với tư cách là đối tượng quyền cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ nhất định. Không
phải bất cứ dấu hiệu nào doanh nghiệp sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ của mình đều là
nhãn hiệu. Trái lại, để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận bảo hộ như một
nhãn hiệu, dấu hiệu đó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Điều 72 Luật sở hữu trí
tuệ hiện hành đã làm rõ về các dấu hiệu có thể được bảo hộ là nhãn hiệu.
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu phát sinh trên những cơ sở nhất
định và hiệu lực của nó được giới hạn trong một khoảng không gian, thời gian nhất định.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông thường phát sinh trên cơ sở đăng ký.
Quyền này chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của nước nơi văn bằng bảo hộ được cơ
quan có thẩm quyền của nước đó cấp. Thời hạn hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp

đối với nhãn hiệu loại này phụ thuộc vào thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ, cụ
thể, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được bảo hộ trong thời hạn văn bằng
bảo hộ có hiệu lực và có thể được gia hạn theo quy định của pháp luật (Hiện nay, theo
quy định của pháp luật, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến
hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm1;
đăng ký nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế có hiệu lực trong vòng 20 năm2 và bất cứ nhãn
hiệu nào cũng có thể gia hạn thêm 20 năm kể từ khi hết hạn thời hạn trước đó3). Quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng phát sịnh trên cơ sở thực tiễn sử dụng và
được bảo hộ không xác định thời hạn (tức là chừng nào nhãn hiệu còn đáp ứng các tiêu
chí để được coi là nhãn hiệu nổi tiếng thì chừng đó, nhãn hiệu còn được bảo hộ).
1.2.3. Cơ chế xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.2.3.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở đăng ký
Hình thức xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở đăng ký
là hình thức chủ yếu nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Xác lập
1

Khoản 6, Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ

2

Điều 6 Thỏa ước Madrid

3

Điều 7 Thỏa ước Madrid


13

quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trên cơ sở đăng ký được chia thành hai

trường hợp: (i) Đăng ký nhãn hiệu trong nước và (ii) Đăng ký quốc tế nhãn hiệu.
a, Đăng ký nhãn hiệu trong nước:
Khi nghiên cứu về hình thức xác lập quyền này, những vấn đề cần phải quan tâm
làm rõ đó là: (i) Quyền đăng ký nhãn hiệu; (ii) Cách thức nộp đơn đăng ký xác lập quyền;
(iii) Các nguyên tắc được áp dụng trong thủ tục xác lập quyền; (iv) Thủ tục xử lý đơn
đăng ký xác lập quyền.
* Thứ nhất, về quyền đăng ký nhãn hiệu: Điều 87 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành đã
liệt kê rất rõ các chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu, theo đó, không phải mọi chủ thể
đều có quyền đăng ký nhãn hiệu. Chỉ những tổ chức, cá nhân được quy định trong Điều
87 Luật sở hữu trí tuệ mới có quyền đăng ký nhãn hiệu. Ngoài việc liệt kê các chủ thể có
quyền đăng ký nhãn hiệu, Điều 87 cũng quy định rõ các điều kiện để hai hay nhiều cá
nhân, tổ chức có thể cùng đăng ký để trở thành đồng chủ sở hữu nhãn hiệu, quyền chuyển
giao quyền đăng ký của các chủ thể quyền cũng như điều kiện đối với các cá nhân, tổ
chức nhận chuyển giao quyền đăng ký.
* Thứ hai, về cách thức nộp đơn đăng ký nhãn hiệu
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam, tổ
chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam có thể nộp đơn
đăng ký nhãn hiệu trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam4.
- Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài
không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký nhãn hiệu thông qua
đại diện hợp pháp tại Việt Nam5.
* Thứ ba, các nguyên tắc được áp dụng trong thủ tục xác lập quyền sở hữu nhãn
hiệu
- Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên: Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người
khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau
4

Khoản 1 Điều 89 Luật sở hữu trí tuệ

5


Khoản 2 Điều 89 Luật sở hữu trí tuệ


14

cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ
được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất
trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp
văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo
hộ chỉ được cấp cho đối tượng của một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo thoả thuận
của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận được thì các đối tượng tương ứng
của các đơn đó bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ6.
- Nguyên tắc ưu tiên: Nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn
muốn nhận được sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của mình tại nhiều quốc gia khác
nhau khi họ có thể dựa vào đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ đã nộp trong thời hạn trước
đó tại quốc gia khác. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên có một số đặng trưng sau:
+ Đơn nộp sau được hưởng quyền ưu tiên của đơn nộp trước (đơn đầu tiên) cho
cùng một đối tượng; đơn đầu tiên nộp tại Việt Nam hoặc tại nước là thành viên của Điều
ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên. Hiện nay, quyền ưu tiên được áp dụng tại quốc
gia là thành viên của Công ước Paris hoặc Hiệp định TRIPS.
+ Người nộp đơn là công dân Việt Nam; công dân nước thành viên Điều ước quốc
tế có quy định về quyền ưu tiên; hoặc cư trú hoặc có cơ sở sản xuất kinh doanh tại Việt
Nam hoặc nước kể trên.
+ Ngày ưu tiên là ngày nộp đơn đầu tiên; đơn xin hưởng quyền ưu tiên phải được
nộp trong thời hạn 6 tháng (đối với nhãn hiệu) kể từ ngày nộp đơn đầu tiên.
* Thứ tư, về thủ tục xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu
Đơn đăng ký nhãn hiệu được Cục sở hữu trí tuệ nhận trực tiếp từ người nộp đơn
(hoặc đại diện của người nộp đơn) hoặc nhận từ bưu điện. Khi tiếp nhận đơn, Cục sở hữu

trí tuệ kiểm tra sơ bộ hồ sơ đơn. Nếu hồ sơ đơn có đủ các tài liệu tối thiểu theo quy định,
Cục sở hữu trí tuệ sẽ đóng dấu nhận đơn vào tờ khai đơn, trong đó ghi số đơn và ngày
nộp đơn.
Sau khi được tiếp nhận, đơn sẽ được thẩm định về mặt hình thức để khẳng định sự
phù hợp hình thức của các tài liệu đơn với các quy định của pháp luật. Thời hạn thẩm

6

Điều 90 Luật sở hữu trí tuệ


15

định về mặt hình thức của đơn là một tháng kể từ ngày đơn được tiếp nhận. Nếu đơn có
thiếu sót, Cục sở hữu trí tuệ sẽ thông báo cho người nộp đơn và trong thời hạn một tháng,
người nộp đơn phải có ý kiến hoặc bổ sung, sửa chữa thiếu sót của đơn. Nếu đơn hợp lệ,
Cục sở hữu trí tuệ sẽ ra thông báo chấp nhận đơn hợp lệ và đơn này sẽ được công bố trên
Công báo sở hữu công nghiệp (do Cục sở hữu trí tuệ phát hành hàng tháng) trong tháng
thứ hai kể từ ngày chấp nhận đơn hợp lệ.
Tất cả các đơn đăng ký nhãn hiệu nếu được công nhận là hợp lệ về mặt hình thức
đều được thẩm định về nội dung. Thời hạn thẩm định đơn nhãn hiệu là chín tháng tính từ
ngày công bố đơn. Căn cứ vào kết quả thẩm định nội dung đơn, nếu nhãn hiệu đáp ứng
điều kiện bảo hộ, Cục sở hữu trí tuệ sẽ cấp văn bằng bảo hộ, ghi nhận vào đăng bạ và
công bố quyết định cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp.
b, Đăng ký quốc tế nhãn hiệu:
Ngoài hình thức xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông qua
hình thức nộp đơn đăng ký trực tiếp tại Cục sở hữu trí tuệ như trên, một chủ thể muốn
được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam còn có thể tiến
hành đăng ký quốc tế nhãn hiệu thông qua hệ thống Madrid.
Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu được áp dụng cho công dân của tất

cả các nước thành viên của Thỏa ước Madrid và/hoặc Nghị định thư Madrid. Để được
đăng ký nhãn hiệu theo Thỏa ước Madrid, nhãn hiệu tương ứng của tổ chức, cá nhân
đăng ký phải đã được bảo hộ tại nước xuất xứ, song, để được đăng ký nhãn hiệu theo
Nghị định thư Madrid, nhãn hiệu tương ứng của tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ cần được
đăng ký tại nước xuất xứ.
Thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam thông
qua đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Madrid khá đơn giản. Tổ chức, cá nhân
muốn đăng ký chỉ cần làm đơn đăng ký quốc tế nộp cho cơ quan nhãn hiệu quốc gia của
nước xuất xứ. Cơ quan nhãn hiệu quốc gia sẽ xác nhận các thông tin cần thiết có liên
quan rồi gửi đến Văn phòng đăng ký quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. Sau khi
được Văn phòng đăng ký quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới thông báo đơn đăng
ký nhãn hiệu có chỉ định Việt Nam, Cục sở hữu trí tuệ sẽ tiến hành thẩm định nội dung
như đối với đơn đăng ký nhãn hiệu nộp theo thể thức quốc gia. Trong thời hạn 12 tháng
kể từ ngày Văn phòng quốc tế ra thông báo, Cục sở hữu trí tuệ đưa ra kết luận về khả


16

năng bảo hộ của nhãn hiệu. Nếu nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ, Cục sở hữu trí tuệ sẽ
ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế và công bố trên Công báo sở
hữu công nghiệp. Nếu chủ sở hữu có yêu cầu thì cơ quan này sẽ cấp giấy chứng nhận
đăng ký quốc tế nhãn hiệu.
1.2.3.2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên cơ sở thực tiễn sử dụng
Theo Điểm a, Khoản 3, Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng và không phụ thuộc
vào thủ tục đăng ký. Cũng theo Khoản 2, Điều 6, Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về
sở hữu công nghiệp thì: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác
lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định tại Điều 75 của Luật
Sở hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.”

Như vậy, nếu như quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông thường được
xác lập trên cơ sở đăng ký thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng lại
được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó. Một nhãn hiệu được coi
là nổi tiếng thì mặc dù không đăng ký nhưng chủ sở hữu vẫn có quyền chống lại người
khác thực hiện các hành vi bị coi là xâm phạm quyền. Thay vì chứng minh nhãn hiệu
đang được bảo hộ tại Việt Nam bằng cách nộp cho Tòa án giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu hoặc quyết định công nhận nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam hay các chứng cứ
khác, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ cung cấp các chứng cứ chứng minh nhãn hiệu của mình là
nổi tiếng.
Để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng, trước hết phải chứng minh nhãn hiệu
đó được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam7. Các tiêu chí để
xem xét một nhãn hiệu nổi tiếng hay không được quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí
tuệ. Một điều cần lưu ý khi xem xét để công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng là: các tiêu chí
được quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ chỉ là căn cứ đánh giá, xem xét và không
giới hạn ở các tiêu chí đó. Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể sử dụng các tiêu chí khác để
chứng minh nhãn hiệu của mình là nổi tiếng. Hơn nữa, một nhãn hiệu không phải đáp
ứng tất cả các tiêu chí quy định tại Điều 75 mới được coi là nổi tiếng. Tùy từng trường

7

Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ


17

hợp, có thể chỉ cần thỏa mãn một tiêu chí trong số đó cũng có thể coi một nhãn hiệu là
nổi tiếng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, việc công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng chỉ được thực
hiện cho từng mục đích và vụ việc cụ thể. Không phải sau khi được công nhận nhãn hiệu
nổi tiếng (để xử lý một vụ việc cụ thể), chủ sở hữu nhãn hiệu có thể sử dụng căn cứ này
cho các mục đích và vụ việc khác.

1.2.4. Chủ sở hữu nhãn hiệu
Việc xác định chủ sở hữu nhãn hiệu có thể dựa trên đặc điểm và trình tự xác lập
quyền đối với nhãn hiệu. Tại Khoản 1, Điều 121 Luật sở hữu trí tuệ và Điều 15 Nghị định
103/2006/NĐ-CP cũng đã quy định khá rõ về chủ thể có quyền sở hữu đối với nhãn hiệu.
Theo đó, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được xác định như sau:
- Đối với nhãn hiệu mà quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở cấp văn
bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá
nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn
hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Trong trường
hợp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được cấp chung cho nhiều tổ chức, cá nhân thì quyền sở
hữu công nghiệp thuộc sở hữu chung của các tổ chức, cá nhân đó. Các chủ sở hữu chung
thực hiện quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự.
- Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, do quyền sở hữu công nghiệp được xác lập tự động
dựa trên cơ sở sử dụng nên chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng là người thực tế đang sử dụng
nhãn hiệu nổi tiếng. Nếu có tranh chấp xảy ra thì chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng phải
chứng minh được quyền hợp pháp của mình trước các đối thủ cạnh tranh.
- Đối với nhãn hiệu mà quyền sở hữu công nghiệp được xác lập thông qua hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc thông qua nhận
di sản thừa kế là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thì chủ sở hữu nhãn hiệu
còn là người được chuyển giao quyền sở hữu.


18

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM
VỀ QUYỀN CỦA CHỦ SỞ HỮU NHÃN HIỆU
2.1. Quy định của pháp luật về quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
Một khi nhãn hiệu đã được đăng ký và được chấp nhận bảo hộ tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được pháp luật trao cho những quyền năng

nhất định liên quan đến nhãn hiệu đó. Về vấn đề nội dung quyền sở hữu công nghiệp nói
chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng, có thể nói, hiện nay,
pháp luật Việt Nam về cơ bản đã có những quy định tương đối đầy đủ và phù hợp với các
quy định của các Điều ước quốc tế. Cụ thể, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành đã
dành cả nội dung Chương IX và Chương X để đề cập các vấn đề liên quan đến nội dung
quyền sở hữu công nghiệp nói chung, trong đó có các vấn đề cụ thể về nội dung quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Khoản 1 Điều 123 Luật sở hữu trí tuệ quy định:
“1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây:
a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy
định tại Điều 124 và Chương X của Luật này;
b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại
Điều 125 của Luật này;
c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Chương X của Luật
này”.
Quy định này chỉ liệt kê ra những quyền tài sản của chủ sở hữu đối tượng sở hữu
công nghiệp nói chung mà không quy định cụ thể những quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Tuy nhiên, nhãn hiệu, với tư cách là một đối tượng sở hữu công nghiệp quan trọng, do
đó, có thể hiểu, chủ sở hữu nhãn hiệu có đầy đủ quyền năng quy định tại khoản 1 Điều
123 Luật sở hữu trí tuệ như đã kể trên. Như vậy, từ quy định này, có thể thấy, chủ sở hữu
nhãn hiệu có những quyền năng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, quyền sử dụng nhãn hiệu;


19

- Thứ hai, quyền cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu;
- Thứ ba, quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu;
- Thứ tư, quyền định đoạt nhãn hiệu.
2.1.1. Quyền sử dụng nhãn hiệu

Quyền sử dụng nhãn hiệu được hiểu là quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu dùng nhãn
hiệu của mình theo cách thức mà mình muốn để mang lại lợi ích cho mình. Theo quy
định tại khoản 5 Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ thì:
“5. Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh
doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
b) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn
hiệu được bảo hộ;
c) Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.”
Từ quy định này, có thể thấy, các hành vi sử dụng nhãn hiệu có thể được chia
thành hai nhóm quyền cơ bản, dựa trên đối tượng chịu tác động trực tiếp của hành vi sử
dụng. Cụ thể:
- Nhóm thứ nhất: Bao gồm các quyền liên quan trực tiếp đến nhãn hiệu đã được
bảo hộ. Theo đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có độc quyền “gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên
hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao
dịch trong hoạt động kinh doanh”. Đây là những quyền phổ biến nhất và được chủ sở
hữu nhãn hiệu thực hiện thường xuyên nhất. Từ “gắn” ở đây cần phải được hiểu theo một
nghĩa rộng, bao gồm tất cả các biện pháp vật lý, hóa học, cơ học (như in ấn, đính, khắc,
chạm,..) làm sao để nhãn hiệu có thể được thể hiện, đi kèm trên hàng hóa, dịch vụ,
phương tiện kinh doanh, giao dịch. “Hàng hóa, dịch vụ” ở đây được hiểu là những hàng
hóa, dịch vụ nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu được
bảo hộ mà chủ sở hữu nhãn hiệu đang sản xuất, cung cấp, đồng thời “phương tiện kinh
doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch” trong nhóm quyền này cũng phải được
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được bảo hộ của chủ sở
hữu, chẳng hạn: biển hiệu, tờ rơi, danh thiếp, website,...Thông qua việc thực hiện các
quyền này, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng


20


hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Đây là nhóm quyền năng vô cùng quan trọng của chủ sở
hữu nhãn hiệu bởi như chúng ta đều biết, quyền sở hữu công nghiệp nói chung và quyền
sở hữu nhãn hiệu nói riêng có sự khác biệt cơ bản về thuộc tính của đối tượng sở hữu. Do
đặc tính của các sáng tạo trí tuệ là khi chúng được bộc lộ công khai thì không thể kiểm
soát, chi phối, chiếm giữ được nên trên thực tế, quyền chiếm hữu không có ý nghĩa đối
với quyền sở hữu công nghiệp nói chung và quyền sở hữu nhãn hiệu nói riêng. Mặc dù
không thể chiếm hữu như các tài sản thông thường nhưng khi được sử dụng bằng cách
gắn lên các sản phẩm, dịch vụ hay xuất hiện trên các giấy tờ, phương tiện quảng cáo,…nó
luôn mang đến cho người sử dụng một lợi ích kinh tế rất lớn bởi người tiêu dùng sẽ nhận
biết được nguồn gốc, xuất xứ và thậm chí là chất lượng của những hàng hóa, dịch vụ đó.
Những hàng hóa, dịch vụ có gắn nhãn hiệu luôn được đánh giá cao hơn về giá trị so với
hàng hóa, dịch vụ không có nhãn hiệu, đặc biệt là nếu gắn với những nhãn hiệu có uy tín
thì giá trị hàng hóa lại càng được tăng lên. Chính vì vậy, bảo vệ sự độc quyền sử dụng
nhãn hiệu cũng chính là bảo vệ quyền lợi thiết thực nhất của chủ sở hữu nhãn hiệu. Chỉ
có chủ sở hữu mới là người có quyền khai thác hoặc cho phép người khác khai thác tính
năng, công dụng và những giá trị vật chất từ nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của mình.
- Nhóm thứ hai: Bao gồm các quyền liên quan đến các hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu đã được bảo hộ. Theo đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền “Lưu thông, chào
bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ”. Ở đây, có thể thấy, quy định về
nhóm quyền năng này của chủ sở hữu nhãn hiệu đã khá rõ ràng và dễ hiểu. Chúng ta có
thể hiểu một cách khái quát về nhóm quyền năng này của chủ sở hữu nhãn hiệu đó là:
Một khi nhãn hiệu đã được bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ có độc quyền sản xuất, đưa
hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được bảo hộ ra thị trường nội địa, nhập khẩu hàng
hóa mang nhãn hiệu vào thị trường.
2.1.2. Quyền cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu
Đồng thời với việc trao cho chủ sở hữu nhãn hiệu quyền năng được sử dụng nhãn
hiệu như đã đề cập ở trên, pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành còn trao cho họ khả năng có
thể cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu. Xét cho đến cùng, việc cho phép chủ thể

khác sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ cũng là một hình thức sử dụng nhãn hiệu “gián


×