Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực hành quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp nhìn nhận từ thực tiễn của viện kiểm sát nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HOÀNG MINH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU KIỆN
MỞ RỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƯ PHÁP – NHÌN NHẬN TỪ THỰC TIỄN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Lý luận về Lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: DƯƠNG THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2013





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA .............................. 8
1.1.



KHÁI NIỆM QUYỀN CÔNG TỐ ................................................. 8

1.2.

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH

SỰ

....................................................................................................... 13

1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố............................................. 13
1.2.2. Tổ chức thực hiện quyền công tố ................................................... 15
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố................................................ 16
1.3.

NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA ................... 19

1.3.1.

Khái niệm nguyên tắc tranh tụng ............................................. 19

1.3.2.

Những đặc điểm của nguyên tắc tranh tụng ............................ 22

1.3.3.

Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa ......................................... 25


1.3.4.

Đặc điểm phiên tòa trong tố tụng tranh tụng .......................... 26

1.3.5.

Chủ thể tranh tụng tại phiên tòa .............................................. 28

1.3.6.

Điều kiện để tranh tụng tại phiên tòa ....................................... 30

1.4.

CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG

TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP..................................................... 33
1.5. YÊU CẦU XÂY DỰNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TẠI
PHIÊN TÒA ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO
CẢI CÁCH TƯ PHÁP ............................................................................. 39
1.5.1. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta và pháp luật trong thời gian tới .......................................................... 39
1.5.2. Yêu cầu cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, thể chế hóa kịp thời các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước...................................... 41
Tiểu kết chương I ..................................................................................... 44


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG ĐIỀU KIỆN MỞ RỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH – NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP ............................................................................................................ 45
2.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HÒA BÌNH.............................................. 45
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ............................................... 45
2.1.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình .. 47
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU
KIỆN MỞ RỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH ............................ 48
2.2.1. Những kết quả đã đạt được ........................................................... 48
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân tồn tại ......................................... 54
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU KIỆN MỞ RỘNG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA ..................................................................................... 60
2.3.1. Sửa đổi Hiến pháp ......................................................................... 60
2.3.2. Tranh tụng phải được đưa lên thành một nguyên tắc trong hoạt
động xét xử ............................................................................................... 62
2.3.3. Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ .................................. 63
2.3.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa .................................................................. 64
2.3.5. Xây dựng cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên
tòa ............................................................................................................. 66
Tiểu kết chương II ................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................. 70


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay, về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ
trương phải thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách
pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những vấn đề rất quan trọng đã và đang
được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của các ngành, các cấp.
Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, nhưng
nhìn chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải
cách hành chính thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà
nước Pháp quyền và cũng là nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp.
Ngày 2/1/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết chỉ rõ: “...Nâng cao
chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với
luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”.
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định: “Nâng cao chất
lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp”.
Thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước trên đây, những năm qua vấn đề tranh tụng, thực hành quyền công tố để
đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa luôn được sự quan tâm nghiên cứu
của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Đồng thời đã thực sự trở
thành vấn đề thời sự nóng hổi, không chỉ được tranh luận tại các Hội nghị khoa
học và các Hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong
hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn. Tuy vậy,
cho đến nay, nhiều vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, về tranh tụng và


2
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa chưa được làm sáng tỏ. Đáng chú ý là
những vấn đề về lý luận và pháp lý liên quan đến các bên tranh tụng tại phiên

tòa còn nhiều khoảng trống.
Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Thực hành quyền
công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải
cách tư pháp - nhìn từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa
Bình" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhằm hiện thực hoá chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện kiểm
sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã có một
số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm hiểu các tài
liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo
những khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu chung về đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân:
Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình
như: Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb Khoa
học xã hội), Hà Nội, 2001; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng
kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu
và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa học cấp bộ),
Hà Nội, 2004; La Thị Sức: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 1998;
Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Luận văn thạc sỹ luật học),
Hà Nội, 2006; Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
thời kỳ đổi mới (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ


3

chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội,
2006; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006… Những công
trình nghiên cứu trên đã làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn hệ thống tư pháp
ở Việt Nam, đặc biệt làm rõ các vấn đề về thẩm quyền, mô hình tổ chức và
chức năng của VKSND trong giai đoạn hiện nay, các yêu cầu đổi mới và hoàn
thiện hệ thống tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
- Nhóm nghiên cứu về quyền công tố:
Những công trình là đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo, các bài viết liên quan đến quyền
công tố: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ
luật học), Hà Nội, 2002; Lê Hữu Thể: Bàn về khái niệm quyền công tố, (Tạp
chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000; Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền công tố (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000... Những công trình
nghiên cứu trên đã đưa ra những quan điểm về khái niệm, nội dung và phạm vi
quyền công tố, thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, tuy nhiên vẫn
chưa được rõ ràng, còn nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy việc tiếp tục nghiên
cứu vấn đề thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
- Nhóm nghiên cứu về nguyên tắc tranh tụng:
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong tố
tụng hình sự” – năm 1996; Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long
về “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự
sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” - năm 2005; Luận văn Thạc sỹ luật học của



4
Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay” – năm 2007;
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố
ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” – năm 1999; Đề tài khoa học cấp Bộ của
Trường đào tạo các chức danh Tư pháp - Bộ Tư pháp “Tranh tụng tại phiên
tòa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” - năm 2003; Đề tài khoa học cấp Bộ
của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi
mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” – năm 2004; “Tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp, năm 2007; Luận văn tiến
sĩ luật học của Nguyễn Văn Hiển “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - năm 2010; Bài đăng tải trong
Tạp chí Kiểm sát số 12 năm 2005 của Lê Hữu Thể: “Vai trò của Kiểm sát viên
trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa”; Bài đăng trong Tạp chí Kiểm sát số
8 năm 2006 của Phạm Hồng Hải về: “Thực trạng tranh tụng trong phiên tòa
hình sự của Kiểm sát viên dưới góc độ luật sư”... Các công trình nghiên cứu
trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh lý luận khác nhau của nguyên tắc tranh tụng
cũng như thực tiễn vận dụng nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật và tổ
chức thi hành pháp luật TTHS Việt Nam.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung; đồng thời
đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về quyền công tố, thực hành
quyền công tố, nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa trên một số lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện và chuyên sâu về thực hành quyền công tố trong điều kiện mở
rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp ở góc độ của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện đặc biệt lại là một huyện lị thuộc tỉnh miền núi
như Hòa Bình. Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là

những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thực hành quyền
công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách
tư pháp từ góc độ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình. Từ đó, luận
văn nêu ra một số quan điểm, phương hướng và giải pháp về nâng cao hiệu quả
thực hành quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo
yêu cầu cải cách tư pháp từ góc độ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa
Bình hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố trong điều kiện mở
rộng tranh tụng tại phiên tòa.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật thực hành quyền công tố
trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền
công tố và nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, không đặt vấn đề tranh tụng
trong lĩnh vực tố tụng dân sự, luận văn cũng không đề cập đến hoạt động tranh
tụng của các cơ quan kiểm sát quân sự.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật và thực tiễn thực hành
quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hòa Bình, tập trung chủ yếu từ khi ban hành Nghị

quyết số 08-NQ/TW đến nay.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói
chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Điểm mới khoa học của luận văn
Luận văn là tài liệu chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn
diện và hệ thống về thực hành quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh
tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp – nhìn từ thực tiễn của Viện
kiêm sát nhân dân thành phố Hòa Bình .Vì vậy có một số điểm mới sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố; nguyên tắc
tranh tụng, khái niệm, các tiêu chí hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công
tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa.
- Góp phần làm rõ hơn vai trò đột phá của khâu mở rộng tranh tụng tại
phiên tòa trong yêu cầu cải cách tư pháp.
- Chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của thực hành
quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú
thêm lý luận và thực tiễn về pháp luật nói chung và lý luận hoàn thiện pháp

luật thực hành quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa
nói riêng.


7
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu và hoàn thiện
pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các nhà hoạch định chính sách,
xây dựng luật và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 8 tiết.


8
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
1.1.

KHÁI NIỆM QUYỀN CÔNG TỐ
Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa

học pháp lý nói chung, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố.
Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được thực hiện ở
cơ quan Công tố với bước đầu là bộ phận nằm trong hệ thống Tòa án nhưng
hoạt động độc lập, không lệ thuộc vào Chánh án mà trực thuộc Bộ tư pháp từ
năm 1945; và từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tuy
nhiên, hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung của nó
là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan điểm thống nhất chung.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm liên quan đến quyền công tố nhưng vấn

đề quyền công tố vẫn chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng và vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau. Nổi bật lên là các quan điểm chính sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả cả hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực TTHS đều là thực hành quyền công tố. Từ đó họ
đưa ra khái niệm về quyền công tố là:
Quyền nhân danh nhà nước thực hiện các chức năng do luật TTHS quy
định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, để truy tố và để
buộc tội người phạm tội trước Tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử đúng
người đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm các quyền tự do của con
người, cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước.
Những người theo quan điểm này coi quyền công tố chỉ là một quyền
năng, một hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm thì khi ấy và ở đó mới có thể
nói đến sự buộc tội nhân danh nhà nước. Có thể thấy chức năng công tố và
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là một, mà chúng hoàn


9
toàn độc lập với nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với
nhau. Tuy nhiên, không phải trong mọi công tác thực hiện chức năng của VKS,
trong mọi hoạt động của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng ấy. Có
hoạt động chỉ là thực hiện chức năng công tố và ngược lại, có hoạt động chỉ
nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mặc dù chúng đều
do một Kiểm sát viên thực hiện trong cùng một thời gian.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực
TTHS, bởi vì quyền công tố như bất cứ quyền nào mà VKS thực hiện luôn
luôn phải được xem xét trong mối liên hệ với tính đặc thù ở một lĩnh vực pháp
luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể xem xét trong lĩnh vực pháp luật mà cội
nguồn lịch sử của nó đã gắn liền và không thể tách rời với việc nhân danh nhà
nước (nhân danh công quyền) chống lại hành vi vi phạm pháp luật nghiêm

trọng nhất đó là tội phạm. Từ những nội dung đó họ đưa ra khái niệm về quyền
công tố là:
Quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, quyền này giao cho cơ quan công tố thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS).
Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập
tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở đó truy tố bị can ra Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.
Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền
công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong
tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của các ngành luật, quyền
công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Theo quan
điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc
trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt
động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và


10
các lĩnh vực tư pháp khác, nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành
vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất.
Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các
văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của ngành
Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xoá nhòa ranh
giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác; đồng
nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình
giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động.

Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho VKS mà trực tiếp là Kiểm sát viên thay mặt Nhà nước thực hiện việc buộc
tội tại phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những cá
nhân cụ thể trong bản cáo trạng và hoạt động chứng minh tính có căn cứ và
tính hợp pháp của cáo trạng đó tại phiên tòa sơ thẩm. Những người theo quan
điểm này cho rằng cách hiểu về quyền công tố như vậy mới đem lại ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cho hoạt động của VKSND ở Việt Nam vì quyền công tố đã
có nội dung cụ thể, giới hạn được xác định rõ ràng nên không còn là những
ngôn từ chung nữa.
Quan điểm thứ năm cho rằng: Quyền công tố là sự cáo buộc của nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành
chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của nhà
nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm này, công tố là quyền chỉ
thuộc về nhà nước, nhà nước thực hiện quyền công tố là một nhu cầu tất yếu
khách quan, nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính nhà
nước là người ban hành pháp luật, nên nhà nước phải có nhiệm vụ bảo vệ trật
tự pháp luật. Quyền công tố của nhà nước không chỉ được thực hiện trong tố
tụng hình mà còn được thực hiện cả trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và
hành chính. Biểu hiện của quyền công tố trong các hoạt động tố tụng này là ở


11
các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (hình sự, dân sự, hành
chính, lao động), quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào, quyền yêu
cầu tòa án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong
vụ án… Quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng khác nhau thì không giống
nhau về nội dung cũng như hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực
hiện quyền công tố có nghĩa là nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với người
phạm tội cụ thể, trong các hình thức tố tụng khác, thực hành quyền công tố
được hiểu là việc nhà nước trực tiếp hay gián tiếp (bằng văn bản) quy lỗi cho

một người hay một pháp nhân nào đó trong việc thực hiện một hay nhiều hành
vi vi phạm pháp luật tương ứng.
Quan điểm thứ sáu cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa
các việc làm vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra Toà để xét xử, vì
Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp
của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung
đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng
ra điều hoà; đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là quyền Nhà
nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có
hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, nhằm mục đích duy trì trật tự
của cộng đồng, trật tự pháp luật, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội. Như
vậy quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực hình sự, mà còn có cả trong dân
sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Giáo sư Lê Văn Cảm trên cơ sở phân tích luật thực định khẳng định
quyền công tố hiểu theo nghĩa rộng bao gồm điều tra tội phạm, truy tố, buộc
tội trước tòa và cả quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng nằm trong
quyền công tố .
Có thể nhất trí với các quan điểm trên về khái niệm quyền công tố ở các
khía cạnh sau:


12
- Công tố dứt khoát chỉ là sự buộc tội nhân danh nhà nước (hay thuộc về
xã hội nhưng giao cho nhà nước thực hiện như quan điểm của các luật gia Sài
Gòn trước 1975).
- Thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt động (hành vi): khởi tố,
điều tra, truy tố và bảo vệ sự buộc tội trước tòa.
Nội dung của quyền công tố đó chính là sự buộc tội. Sự buộc tội khác
với kết tội. Buộc tội của bên công tố cho là đã phạm một tội quy định trong
BLHS. Còn kết tội là trên cơ sở lý lẽ, chứng cứ của bên buộc tội và chứng cứ,

lý lẽ của bên gỡ tội tòa án đã khẳng định: Một người đã phạm một tội quy định
trong BLHS. Như vậy, buộc tội của bên công tố là một trong những cơ sở để
tòa án kết tội.
Có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có nhiều quan điểm khác nhau,
mỗi quan điểm trong đó có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng bộc lộ
những bất cập nhất định. Do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm
vi của quyền công tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật, nên các
quan điểm trên hoặc là thu hẹp phạm vi quyền công tố hoặc là mở rộng phạm
vi quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự, hoặc là đánh
đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật, coi quyền công tố
chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
nên dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố là một hoạt động độc lập
nhân danh quyền lực công.
Như vậy, có thể hiểu:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước,
được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện
kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công
tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác


13
định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra
trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà.[45]
Quan niệm này đã lột tả được bản chất của quyền công tố, đó là quyền
năng đặc biệt của Nhà nước trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội.
Từ những ý kiến phân tích như trên có thể đi đến kết luận: Quyền công tố
ở Việt nam là quyền của nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các quyền

năng theo quy định của pháp luật để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội trước phiên tòa.
Từ cách hiểu trên về quyền công tố, đặt trong mối liên hệ với tính đặc thù
của một lĩnh vực pháp luật cụ thể để thấy được bản chất của nó. “Quyền công tố
chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn
lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân
danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm),
đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [46, tr.37]. Trong ba nhánh quyền lực nhà nước,
lập pháp có chức năng đưa ra những quy tắc xử sự chung điều chỉnh các mối
quan hệ trong xã hội, và cơ quan hành pháp là nhóm quyền lực đại diện cho
Nhà nước tổ chức thi hành những quy tắc xử sự chung đó vào thực tế, cụ thể là
thi hành vào các cơ quan nhà nước, các mối quan hệ xã hội. Và khi đi vào thực
tế xảy ra các vi phạm thì cơ quan tư pháp mà đại diện là Tòa án sẽ giải quyết
các vi phạm đó. Như vậy, về bản chất quyền công tố thuộc nhánh quyền lực
hành pháp đại diện cho Nhà nước thực hiện các quyền năng theo qui định của
pháp luật.
1.2.

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Cũng như khái niệm về “quyền công tố”, ở Việt Nam, khái niệm “thực

hành quyền công tố” cũng như nội dung, phạm vi của nó còn ít được đề cập
đến và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài ngành kiểm sát
nhân dân thời gian qua cho thấy, khi đề cập đến thực hành quyền công tố thì


14
hoặc mới chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình

sự, kiểm sát thi hành án…; hoặc gắn việc thực hành quyền công tố với việc
thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên trong TTHS; hoặc lại mở
rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn TTHS bao
gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hoặc chỉ nêu ra một số biện
pháp pháp lý như: lập cáo trạng và luận tội trước phiên toà sơ thẩm hình sự và
coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí còn cho rằng, thực hành quyền
công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên toà sơ thẩm.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực
công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên
thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo
quy định của pháp luật TTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội,
đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tuy vậy,
xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được
pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc truy
cứu TNHS đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố. Do vậy, thực
hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
Với mục tiêu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo
pháp luật của TTHS, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi
quyền công tố phải được phát động. Khi quyền công tố được phát động thì
đồng nghĩa với hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai và khi
quyền công tố không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng được kết
thúc. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi khởi tố vụ
án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị,
hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.


15
Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã

quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người
đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động
tố tụng này chính là nội dung của thực hành quyền công tố.
1.2.2. Tổ chức thực hiện quyền công tố
Trong quá trình tổ chức quản lý nhà nước, trên mỗi lĩnh vực cụ thể, Nhà
nước thường tổ chức ra một hệ thống các cơ quan nhất định để thực hiện quyền
lực đó. Hệ thống các cơ quan nhà nước này đóng vai trò chính trong sự phối
hợp cùng các cơ quan nhà nước khác để thực hiện quyền lực đã được xác định.
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm
thì Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng đó, Nhà nước
giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan
có trách nhiệm thực hành quyền công tố hoặc cơ quan công tố.
Các quy định pháp luật và thực tế tổ chức thực hiện quản lý nhà nước
của các nước trên thế giới cho thấy, dù có tên gọi hoặc vị trí trong cơ cấu bộ
máy nhà nước có khác nhau, nhưng mỗi nước chỉ có một cơ quan được giao
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Căn cứ vào vị trí trong bộ máy
nhà nước có thể thấy được sự đa dạng về việc tổ chức thực hiện quyền công tố
của các nước trên thế giới. Có những nước mà ở đó Cơ quan công tố - VKS
nằm trong cơ cấu của Bộ Tư pháp (Hoa Kỳ, Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Ba Lan, Ruma-ni, Hà Lan, Đan Mạch…); có những nước mà ở đó Cơ quan công tố - VKS
nằm trong thành phần của hệ thống tư pháp được đặt tại các Tòa án, nhưng độc
lập với Tòa án về chức năng (Tây Ban Nha, Columbia, Bun-ga-ri…); hoặc có
những nước mà ở đó Cơ quan công tố - VKS là một hệ thống riêng biệt, hoặc
trực thuộc Quốc hội, hoặc trực thuộc Nguyên thủ quốc gia (Trung Quốc, Triều


16

Tiên, Cu Ba, Việt Nam, Lào…). Tuy về cơ cấu tổ chức, dù cơ quan được giao
thực hiện nhiệm vụ công tố nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp, tư pháp
hoặc lập pháp… nhưng về chức năng thì hoàn toàn độc lập.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định pháp luật từ năm 1960 đến nay,
thì VKSND chính thức là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền
công tố. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử
dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc VKS phải trông nom,
bảo đảm cho tốt.
Như vậy, ở nước ta, những hoạt động trên đây của VKS hoàn toàn mang
tính độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Duy nhất chỉ có VKS
được giao thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với bị can,
bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố của mình.
Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm đều phải được phát
hiện và xử lý kịp thời theo pháp luật. Về lý luận, cứ có tội phạm xảy ra là phải
có sự phát động của quyền công tố. Tuy nhiên trong thực tế, không phải tất cả
tội phạm đều được phát hiện, xử lý triệt để; tức là việc khởi tố vụ án hình sự
của các cơ quan chức năng không thể bao trùm hết được số vụ án hình sự đã
xảy ra trên thực tế. Quyền công tố xuất hiện đồng thời với việc xuất hiện tội
phạm và kết thúc khi tội phạm ấy đã bị xử lý bởi Toà án; trong khi đó, hoạt
động thực hành quyền công tố thì chỉ xuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án
hình sự và kết thúc khi tội phạm ấy đã bị xử lý bởi Toà án hoặc được đình chỉ
theo quy định của pháp luật.
Do đó, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án
hình sự đến khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được đình chỉ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố
Nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng
hợp các quyền năng tố tụng độc lập để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với



17
người phạm tội nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật và được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án có hiệu lực
pháp luật. Theo đó, nội dung thực hành quyền công tố bao gồm:
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là những biện pháp phát động quyền công
tố, mở đầu quá trình điều tra xử lý trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác là việc nhà nước chính
thức công khai trước toàn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các
hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực
hiện tội phạm đó. Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án bao gồm: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
cảnh sát biển… Thực tế, việc khởi tố vụ án, bị can chủ yếu do cơ quan điều tra
các cấp tiến hành, số vụ án Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố không đáng kể. Tuy
vậy, Viện kiểm sát vẫn là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ án hình sự
một cách độc lập, không chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng của bất kỳ cơ
quan nhà nước nào. Điều đó có nghĩa là, xét đến cùng, việc khởi tố hay không
khởi tố vụ án là do cơ quan thực hành quyền công tố quyết định. Nếu các quyết
định khởi tố vụ án không có căn cứ, không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm
hình sự thì Viện kiểm sát với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố, có
quyền và có trách nhiệm phải hủy bỏ. Trong trường hợp phát hiện tội phạm mà
các cơ quan được giao quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án
thì Viện kiểm sát có quyền và có trách nhiệm hủy bỏ quyết định không khởi tố
vụ án đó và ra quyết định khởi tố vụ án. Theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định vụ án, bị can để xử lý trước pháp luật, có quyền
hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan
điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động



18
điều tra. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng có quyền kháng nghị đối với quyết
định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ của Tòa án các cấp.
Quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu
tội phạm và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003, thì quyết định này phải được gửi ngay cho Viện
kiểm sát để xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết
định khởi tố vụ án. Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định
khởi tố nếu quyết định đó không có căn cứ và trái pháp luật trong thời hạn 3
ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan
đến việc khởi tố.
Những hoạt động như đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên
quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị
cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và với những người tham
gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Như vậy, có thể thấy những hoạt động trên đây của Viện kiểm sát là
hoàn toàn mang tính độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Ở đây,
Viện kiểm sát thực hiện việc buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố của mình, không hề có hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Hiện nay trong lý luận cũng như thực tiễn vẫn còn nhầm lẫn giữa chức
năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát. Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát tự quyết định
có liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc

nội dung thực hành quyền công tố. Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm
sát sử dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý những vi phạm pháp luật của cơ


19
quan, người tiến hành tố tụng là những quyền thuộc chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Tuy nhiên giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt tư pháp luôn đan xen lẫn nhau, quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, có
tác dụng hỗ trợ cho nhau trong suốt quá tŕnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình. Mối quan hệ này song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội
phạm được phát hiện khởi tố, điều tra cho đến khi cơ quan điều tra ra kết luận
về quá trình điều tra. Trong mối quan hệ này đều nhằm đến mục đích chung là
bảo đảm việc giải quyết chính xác, đúng đắn vụ án hình sự. Hoạt động này
phải hết sức đầy đủ, chính xác, khách quan theo đúng các trình tự, thủ tục, nội
dung do pháp luật quy định. Còn kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn
điều tra có mục đích bảo đảm các hoạt động điều tra được đúng đắn, đầy đủ,
khách quan, tức là được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung do pháp
luật quy định.
1.3.

NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
1.3.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng
Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền

với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng nhân loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà
cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại.
Tranh tụng không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý. Tư tưởng
về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và được coi là một trong những nguyên
tắc cơ bản của TTHS. Tuy vậy trong lịch sử TTHS Việt Nam, khái niệm tranh

tụng rất ít được đề cập. Phải đến thời gian gần đây, đặc biệt là khi có Nghị
quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW thì vấn đề “tranh tụng” được
nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đề cập thường xuyên trong các
diễn đàn khoa học pháp lý và các bài viết trên một số tạp chí chuyên ngành.
Tranh tụng theo từ điển tiếng Anh Oxford Dictionary “Adversary” có
nghĩa là một bên đối kháng, bên địch thủ trong một cuộc tranh cãi, một cuộc
chiến đấu. Trong tiếng Anh, danh từ này là gốc, tạo ra tính từ Adversarial được


×