Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ TRẦN PHƯƠNG THẢO

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2013




MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: Lý luận chung về bồi thường thiệt hại trong hoạt động

4

tố tụng
1.1.

Khái quát chung về hoạt động tố tụng

4

1.2.

Khái niệm các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng

5

1.2.1. Khái niệm

5

1.2.2. Hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng

6

1.3.

9

Khái niệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng


1.3.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

9

1.3.2. Khái niệm về bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng

10

1.3.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước

13

trong hoạt động tố tụng
1.3.4. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

20

Nhà nước trong hoạt động tố tụng
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm

22

bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
2.1.

Quy định của pháp luật hiện hành về thiệt hại và phạm vi bồi

22


thường thiệt hại
2.1.1. Cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động tố tụng

22


2.1.2. Quy định của pháp luật về phạm vi bồi thường thiệt hại

24

2.2.

29

Quy định của pháp luật về cơ quan có thẩm quyền bồi

thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng
2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố

29

tụng dân sự, tố tụng hành chính
2.2.2. Cơ quan có thẩm quyền bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố

31

tụng hình sự
2.3.


Quy định trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt

38

động tố tụng
2.3.1. Yêu cầu bồi thường thiệt hại

38

2.3.2. Thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, xác minh thiệt hại

41

2.4.

43

Quy định về cách thức bồi thường thiệt hại

2.4.1. Thương lượng việc giải quyết bồi thường

43

2.4.2. Quyết định giải quyết bồi thường, hiệu lực của quyết định giải

44

quyết bồi thường
2.4.3. Thủ tục chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường


45

2.4.4. Giải quyết bồi thường thiệt hại tại Tòa án

47

2.4.5. Thực hiện nghĩa vụ hoàn trả

48

Chương 3: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi

53

thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường Nhà

53

nước trong hoạt động tố tụng
3.1.1. Về điều kiện thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

53

3.1.2. Về thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại

53

3.1.3. Về trách nhiệm của người bị thiệt hại trong việc cung cấp tài


54

liệu, chứng cứ
3.1.4. Về thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường

54


3.1.5. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình

55

sự
3.1.6. Về việc khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt

56

động tố tụng hình sự
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện

56

KẾT LUẬN

59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU


1.Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất của xã hội,
được hình thành từ nhân dân và thực hiện quyền điều hành, quản lý xã hội
trong đó có những nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích này bị xâm phạm. Để thực hiện
những nhiệm vụ này, Nhà nước phải thong qua các cơ quan đại diện cho mình
ở cách ngành, các cấp chính quyền mà cụ thể là thông qua việc thực thi công
vụ của công chức nhà nước. Trong quá trình thực thi công vụ thuộc thẩm
quyền của mình thong qua hành vi của đội công chức, viên chức nhà nước sẽ
không thể tránh khỏi những hành vi gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức bất kỳ.
Thực tiễn đó đã đặt ra yêu cầu các cơ quan nhà nước sẽ tiến hành đền bù thiệt
hại như thể nào cho các cá nhân, tổ chức bị hại. Trước tình hình đó,Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đc ra đời.
Việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá nội dung
quá trình thực thi pháp luật hiện hành về trách nhiệm của Nhà nước trong hoạt
động tố tụng sẽ là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước trong hoạt động tố tụng một cách đầy đủ hơn và góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
2.1 Mục đích
Mục đích của cả nhân người viết bài luận văn này khi tiếp cận đề tài là
có được sự hiểu biết khái quát về bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng.Để từ đó có một số đóng góp để góp phần hoàn thiện pháp
luật trong vấn đề này.Luận văn được viết dựa trên những tìm hiều của cá nhân

1



và phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng.
2.2 Đối tượng
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chungvề trách nhiệm bồi
thường nhà nước trong hoạt động tố tụng và thực trạng pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng.
2.3 Phạm vi nghiên cứu của luận văn :
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và trách nhiệm trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng.
- Đánh giá và phân tích những quy định của Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng.
- Cơ sở khoa học để đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
-

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác –

Lênin cùng các quan điềm của Đảng và Nhà nước về nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong thi
hành công vụ, cũng như trong cải cách tư pháp.
-

Phương pháp nghiên cứu : Luận văn được thực hiện trên cơ sở

quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học nhưn phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp cũng
như một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác.
4. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
-


Bổ sung và hoàn thiện những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng.
-

Phát hiện những điểm còn bất cập trong Luật Trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng. Đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện những quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng.
2


5. Bố cục của luận văn
Chương 1 : Lý luận chung về bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố
tụng
Chương 2 : Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
Chương 3 : Thực tiễn áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong hoạt động tố tụng

3


Chương I
Lý luận chung về bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng
1.1 Khái quát chung về hoạt động tố tụng
Hiện nay, hoạt động tố tụng tại Việt Nam gồm ba loại : Tố tụng hình
sự, Tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.
-


Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của

các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Các giai đoạn của tố tụng hình sự bao gồm : khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Luật Tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tố tụng
hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra
và xử lý nghiêm minh kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội; không để một người nào bị khởi tố, bị tam giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra, truy tố, xét xử được
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật.
-

Tố tụng hành chính là trình tự giải quyết vụ án hành chính theo

quy định của pháp luật tại toà án nhằm giải quyết các khiếu kiện đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và của cán bộ,
công chức thuộc những cơ quan này.
Tố tụng hành chính gồm có các giai đoạn sau : khởi kiện, thu lý vụ án;
chuẩn bị xét xử; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm (giai đoạn đặc biệt của tố tụng hành chính) và thi hành bản án, quyết
định của toá án về vụ án hành chính.
Tố tụng hành chính khác với hoạt động hành chính. Hoạt động hành
chính là hoạt động của Toà án nhân dân và các thẩm phán hành chính nhằm
giải quyết các khiếu kiện của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức đối với
4



quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan và cán bộ, công chức
nhà nước có thẩm quyền.
Hoạt động tố tụng hành chính tại toà án theo thủ tục tố tụng hành
chính giúp cho phân biệt hình thức giải quyết khiếu kiện tại toà án với cách
giải quyết khiếu kiện tại các cơ quan nhà nước khác.

-

Tố tụng dân sự là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho

việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự.
Mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Tố tụng dân sự bao gồm :
khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự; thụ lí vụ việc dân sự;
giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm và thi hành án dân sự.
“Hoạt động tố tụng là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm điều tra, truy tố xét xử những người có hành vi phạm tội và các hoạt
động của toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của nhân, tổ chức”
1.2 Khái niệm các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng
1.2.1

Khái niệm

Các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng là các cơ quan nhà nước
được pháp luật xác định là chủ thể của các quan hệ tố tụng và được giao
những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định.
Trong tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng gồm có cơ quan điều
tra, viện kiểm sát và toà án. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan

này có quyền, đồng thời có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một các khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm
chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
5


Ngoài ra, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và toà án còn có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa tội phạm.
Trong tố tụng dân sự, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan tiến hành tố tụng. Khi tiến hành tố tụng đối với vụ án dân sự, Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể
được Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

1.2.2

Hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng

Trong hoạt động tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm :
cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân.


Cơ quan điều tra :

Là cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định, tiến hành điều tra tất cả các tội phạm xảy ra
theo thẩm quyền.

Theo Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, cụ thể hoá quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về cơ quan điều tra, đã quy định về
tổ chức điều tra hình sự như sau : 1) Trong công an nhân dân có các cơ quan
điều tra : Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an; cơ quan cảnh sát điều tra
công an cấp tỉnh; cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện; cơ quan an
ninh điều tra Bộ Công an; cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh; 2) Trong
quân đội nhân dân có các cơ quan điều tra : cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc
phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và cấp tương đương; Cơ quan điều
tra hình sự khu vực; Cơ quan an ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan an
ninh điều tra quân khu và cấp tương đương; 3) Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có các cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.

6


Ngoài ra pháp lệnh còn có một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra như bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm
lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác trong lực lượng công an nhân
dân và quân đội nhân dân.
Khi tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, cơ quan điều tra xác định
tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố; tìm
ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội; yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Các cơ quan khác được giao nhiệm vụ điều tra trong khi làm nhiệm vụ
của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội thì tiến hành một số hoạt
động điều tra ban đầu nhằm kịp thời phát hiện tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội rồi chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền.


Viện kiểm sát nhân dân


Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố nhà nước và
kiểm sát các hoạt động điều tra, giam giữ, xét xử và thi hành án.
Theo đó, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với
người phạm tội, do đố, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã
thực hiện hành vi phạm tội. Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lí thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và
xét xử. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, công tố là một
trong những chức năng cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
7


có quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định truy tố bị can; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện
kiểm sát nhân dân có quyền luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm kiểm tra, giám sát, xem xét, theo
dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các
hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.Kiểm sát hoạt động tư pháp là

một công việc quan trọng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Ở nước ta, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân quy định cụ thể thẩm quyền,
phạm vi và thủ tục kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo đó, viện kiểm sát là cơ
quan có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp.Viện kiểm sát nhân dân
tối cao kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.Viện kiểm sát nhân dân địa phương
thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Viện kiểm
sát quân sự thực hiện quyển kiểm sát các hoạt động tư pháp theo pháp luật.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân gồm có : Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Viện kiểm sát nhân
dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Viện kiểm sát quân sự.


Toà án nhân dân

Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.Theo Điều 1 Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002 quy
định : “Trong phạm vi chức năng của mình, toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
8


nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước…Bằng hoạt động của mình, toà án
góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh phòng ngừa và chồng tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.”Đồng thời,
Toà án cũng là cơ quan chịu trách nhiệm về quyết định không đúng trong các
trường hợp oan sai, hoặc chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Theo Luật Tổ chức toà án nhân dân năm 2002, hệ thống toà án nước ta

gồm : Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất Việt Nam; ở địa
phương có các toà án nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; các
toà án nhân dân huyện, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; trong quân
đội nhân dân Việt Nam có toà án quân sự trung ương, các toà án quân sự quân
khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực. Trong tình hình đặc biệt,
Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt.
1.3 Khái niệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
1.3.1

Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

1.3.1.1

Khái niệm thiệt hại

Thiệt hại được hiểu là những tổn thất, mất mát, hư hỏng về người và
của. Theo từ điện giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản cá
nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.” Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995
quy định tại Điều 310 : “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
tinh thần”. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 305 : “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất,
trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”. Như vậy, về mặt khoa
học và luật thực định thì quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại là thiệt hại
bao gổm : thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất
bao gồm tài sản bị mất, huỷ hoại , bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc
9



phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng
ra thu được. Thiệt hại về tinh thần bao gồm :tổn thất về danh dự, uy tín, nhân
phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân.
Tóm lại, thiệt hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái
ban đầu của vật sau khi chịu tác động từ bên ngoài.
1.3.1.2

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bồi thường là việc đền bù những tổn thất bị gây ra. Về mặt pháp lý,
bồi thường thiệt hại còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại. Trong
pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn thất và khắc
phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy, bồi thường thiệt hại là
hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải
khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất
tinh thần cho bên bị thiệt hại. Với quan niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn
như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên ngoài; vì vậy,
bồi thường thiệt hại có thể hiểu là trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban
đầu của sự vật hiện tượng. Về mặt pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài
sản, tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, uy tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi
thường thiệt hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng những cách thức
và tiêu chí do pháp luật đặt ra.
1.3.2

Khái niệm về bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân là trách nhiệm pháp lý được xác định
với mọi chủ thể. Vì vậy, khi Nhà nước thực hiện công quyền gây thiệt hại cho
các cá nhâ, tổ chức thì cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Trách

nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước không chỉ nhằm khôi phục các tổn
thất tài sản mà còn phải bù đắp những tổn thất tinh thần cho các cá nhân, tổ
chức bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là
trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về tinh
10


thần trong trường hợp người thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước vì lợi ích
chung đã gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
tài sản, uy tín của tổ chức; quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Tuy nhiên, Nhà nước không phải là người trực tiếp đứng ra bồi
thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức mà thông qua hệ thống các cơ quan đại
diện của mình trong từng lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực tư pháp, Nhà nước có hệ thống các cơ quan tiến hành
tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Vì vậy, nếu người của cơ
quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại thì chủ thể đứng ra bồi thường cho công
dân là cơ quan tiến hành tố tụng.
Mặc dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt
động tố tụng là dạng trách nhiệm dân sự, tuy nhiên, so với trách nhiệm dân sự
thông thường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước có những điểm
khác biệt so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường ở những yếu tố
sau :
1) Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng là
dạng trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng : Quan hệ bồi
thường Nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự vì Nhà nước cũng như các chủ
thể thông thường, phải bồi thường khi gây ra thiệt hại cho các cá nhân, tổ
chức. Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang hai tư
cách (tư cách của một chủ thể thông thường và tư cách của chủ thể của quyền
lực công); theo đó, những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư
cách là chủ thể mang quyền lực công không phải là những quan hệ hợp đồng.

Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực
công phải là những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những
hoạt động thuộc về chức năng chính của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện
những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà
nước sẽ phải bồi thường. Việc bồi thường không phải do hành vi các nghĩa vụ
11


về hợp đồng, chính vì vậy, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các
thiệt hại gây ra bởi hoạt động công quyền là trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng.
2) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động
tố tụng là trách nhiệm trực tiếp : Với việc khẳng định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước là một yêu cầu tất yếu của thời đại, Nhà nước thừa
nhận trách nhiệm của mình là trách nhiệm tự thân, có thể khẳng định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng là trách
nhiệm trực tiếp của nhà nước.
3) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động
tố tụng là trách nhiệm khôi phục lại những tổn thất về tinh thần cho người bị
thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động là
trách nhiệm dân sự, vì thế, trách nhiệm này bao gồm trách nhiệm về tài sản
(trong trường hợp tài sản bị thiệt hại) và trách nhiệm khôi phục những tổn thất
về tinh thần (trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tính bị xâm phạm).
4) Yếu tố trái pháp luật của việc gây thiệt hại được hiểu theo nghĩa
rộng : Xét một cách toàn diện, từ việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho
người bị thiệt hại đến vai trò quan trọng của Nhà nước đối với lợi ích chung
của toàn xã hội thì xác định tính trái pháp luật đối với việc gây thiệt hại của
Nhà nước cần phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm : hành vi trai pháp luật gây
thiệt hại và hành vi đúng pháp luật nhưng xét hậu quả là trái pháp luật – vẫn
gây ra thiệt hại.

Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt
động tố tụng mặc dù là trách nhiệm dân sự nhưng vẫn có những đặc thù so
với trách nhiệm dân sự thông thường.Sự khác biệt này cho thấy mục đích
nhằm bảo đảm một cách hiệu quả nhất quyền, lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại từ hoạt động tố tụng.

12


1.3.3

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà

nước trong hoạt động tố tụng
Trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng gồm các yếu tố cơ bản sau : chủ thể, khách thể, các căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Về chủ thể, các chủ thể bên trong quan hệ trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước trong hoạt động tố tụng luôn luôn bao gồm bên gây thiệt hại – các
cơ quan tiến hành tố tụng và bên bị thiệt hại là các cá nhân, tổ chức, chủ thể
khác; trong đó Nhà nước luôn luôn là một bên trong quan hệ về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại này. Việc quy định trực tiếp trách nhiệm bồi thường
thuộc về một cơ quan đại diện chung hay trách nhiệm thuộc về từng cơ quan
cụ thể thuộc về chính sách pháp lý của mỗi quốc gia, tuy nhiên cần phải
khẳng định rằng một bên chủ thể có trách nhiệm luôn luôn là Nhà nước; cơ
quan thực hiện trách nhiệm bồi thường không nhân danh mình mà nhân danh
Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như nhân danh Nhà
nước thực hiện công vụ.
Về khách thể, trong các quan hệ pháp luật, khách thể là lợi ích vật chất
hoặc tinh thần mà các bên chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham

gia các quan hệ pháp luật. Trong quan hệ pháp luật dân sự, khách thể là đối
tượng mà các chủ thể quan tâm, hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào
khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Trên thực tế, khi hoạt động công
quyền gây ra thiệt hại thì đó là những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần của
các cá nhân, tổ chức; tuy nhiên có một thiệt hại mà không đo đếm được đó là
lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của Nhà nước.
Chính vì vậy, khách thể trong trường hợp này là quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân và lợi ích của Nhà nước vì : khi xảy ra bất kì một vụ oan sai thì
không chỉ có công dân là người duy nhất bị thiệt hại mà luôn kéo theo những
tổn thất của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước phải bồi thường vật chất, tinh thần
13


cho người bị hại.Mặt khác, thiệt hại của Nhà nước tưởng chừng như vô hại
nhưng hậu quả trên thực tế vẫn có thể dễ dàng nhận thấy được. Đó là sự giảm
sút uy tín của Nhà nước, là sự xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Nhà
nước.
Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, về lý luận, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phải có đủ bốn điều kiện là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì mới phát, bao gồm : có thiệt hại
xảy ra, có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ; có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và thiệt
hại xảy ra; công chức gây thiệt hại phải có lỗi khi thực hiện công vụ. Tuy
nhiên, bồi thường nhà nước vừa mang tính dân sự vừa mang tính hành chính
nên căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước theo quy định tại Điều
6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước :
-

Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành


vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm
bồi thường quy định tại các Điều 13, 28, 38 và 39 của luật này.
-

Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành

công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại

1.3.3.1

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong

hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
-

Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành

vi thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường
trong các trường hợp pháp luật quy định theo quy định tại điểm a, khoản 1
Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Khi có khiếu nại hoặc kháng cáo bản án, quyết định của toà án, văn
bản xác định hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền thực hiện tố tụng

14


là bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật huỷ
toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định đó.
Chỉ có các hành vi được quy định tại Điều 28 của Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước mới là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước. Quy định đó tránh được tình trạng yêu cầu bồi thường thiệt hại tràn
lan và gây tốn kém kinh phí Nhà nước.
-

Phải có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi

hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại : hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ phải gây ra những thiệt hại cụ thể và những thiệt hại
đó được xác định là những thiệt hại phát sinh do hành vi trái pháp luật.

1.3.3.2

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong

hoạt động tố tụng hình sự
- Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp
được bồi thường theo qui định tại Điều 26 của Luật Trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước.
Đối với những người bịtạm giữ, tạm giam, người bị khởi tố, bị truy tố,
người đã hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, chung thân…nhưng
trên thực tế họ không phạm tội mà do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
hành vi tố tụng không chính xác hoặc có sai xót do chuyên môn nghiệp vụ
hạn chế dẫn đến sự oan sai cho những người trên. Trong quá trính hoạt động
tố tụng, cơ quan có thẩm quyền đã khắc phục sai sót đó bằng phương thức ra
bản án, hoặc quyết định xác định người đó bị oan sai.Đây là một căn cứ pháp
lý quan trọng để khôi phục tình trạng ban đầu cho người bị oan sai.
-Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với
người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng chỉ được thực hiện nếu hành vi của người có thẩm quyền tiến

15


hành tố tụng gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Thiệt hại thực tế được quy
định từ Điều 45 đến Điều 49 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
+ Thiệt hại về vật chất
*) Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
-

Các trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:

-

- Tài sản đã bị phát mại, bị mất;

-

- Tài sản bị hư hỏng;

-

- Thiệt hại do việc không sử dụng, khai thác tài sản;

-

- Thiệt hại phát sinh từ việc phải nộp một khoản tiền vào ngân

sách nhà nước theo các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
-


Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác

định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính
năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản đã bị phát mại, bị
mất trên thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.
-

Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi

phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa
chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi
phục thì thiệt hại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này.
-

Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai

thác tài sản thì thiệt hại được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Đối với
những tài sản trên thị trường có cho thuê thì thu nhập thực tế bị mất được xác
định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu
chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm giải quyết bồi
thường; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, thu nhập
thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang
lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài sản bị
kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người khác quản lý thì chi phí

16


hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác định
là những thiệt hại được bồi thường.

-

Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã
đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền được hoàn trả cho người bị thiệt
hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó là khoản vay có lãi thì
phải hoàn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản tiền đó không phải là
khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ
cả khoản lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố
tại thời điểm giải quyết bồi thường.
-

*) Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút

-

Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút bao gồm:

-

Trường hợp xác định được thu nhập của người bị thiệt hại;

-

Trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên nhưng không ổn

-

Trường hợp cá nhân có thu nhập không ổn định và không có cơ


định;

sở để xác định cụ thể;
-

Trường hợp cá nhân có thu nhập có tính chất thời vụ.

-

Cá nhân, tổ chức có thu nhập và các thu nhập này có thể xác định

được thì được bồi thường theo thu nhập thực tế bị mất.
-

Trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên nhưng không ổn

định thì mức bồi thường được xác định căn cứ vào thu nhập trung bình trong
ba tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
-

Cá nhân có thu nhập không ổn định và không có cơ sở xác định

cụ thể hoặc thu nhập có tính chất thời vụ thì áp dụng mức thu nhập trung bình
của lao động cùng loại tại địa phương. Trường hợp không xác định được thu
nhập trung bình thì tiền bồi thường được xác định theo mức lương tối thiểu
chung đối với cơ quan nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường.
17



*) Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết
-

Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết bao gồm:

-

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị

thiệt hại trước khi chết.
-

Chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo

hiểm xã hội.
-

Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực

hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tiền cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức
lương tối thiểu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác
định theo quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
*) Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ
-

Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ bao gồm:

-

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ


và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
-

Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.

-

Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc

người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
-

Trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần

có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường bao gồm chi
phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khoản
cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có hiệu lực
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.1.2.2 Thiệt hại về tinh thần
-

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần bao gồm:

-

Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm quyền tự do về thân thể;


-

Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm tính mạng;
18


-

Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm sức khoẻ;

-

Tổn thất về tinh thần trong trường hợp danh dự, uy tín bị giảm sút

do bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án trong tố tụng hình sự mà không bị
tạm giam, tạm giữ.
-

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ hành

chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh được
xác định là hai ngày lương (02) tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ hành chính,
bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
-

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị tạm giữ, tạm

giam, chấp hành hình phạt tù được xác định là ba ngày (03) lương tối thiểu
cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
-


Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt

hại chết được xác định là ba trăm sáu mươi (360) tháng lương tối thiểu.
-

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị

xâm phạm được xác định căn cứ vào mức độ sức khoẻ bị tổn hại nhưng không
quá ba mươi tháng lương tối thiểu.
-

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy

tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam được xác định là một
ngày lương (01) tối thiểu cho một ngày bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án
cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo. Thời gian để tính bồi
thường thiệt hại được xác định kể từ ngày có quyết định khởi tố bị can cho
đến ngày có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người đó
thuộc trường hợp “Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm
giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của
cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không thực hiện hành vi phạm tội”.
-

Điều 51 quy định người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1,2 và

3 Điều 26 của Luật này hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu
19



×