Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị công ty đến hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.72 KB, 91 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Vân Anh


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số
hiệu

Tên bảng

bảng
2.1
Hệ thống các biến sử dụng trong mô hình
Các doanh nghiệp ngành hàng tiều dùng niêm yết trên
2.2
thị trường chứng khoán Việt Nam
2.3
Bảng thu thâp số liệu các biến trong mô hình năm 2016
3.1
Số liệu về tỷ suất sinh lời tài sản
3.2
Số liệu về tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu
3.3
Số liệu về chỉ số Tobin’Q


Ảnh hưởng của quy mô của Hội đồng quản trị tới hiệu
3.4
quả hoạt động của doanh nghiệp
Ảnh hưởng của mức độ độc lâp của Hội đồng quản trị tới
3.5
hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
Ảnh hưởng của sự kiêm nhiệm vị trí giám đốc điều hành
3.6
tới hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
Ảnh hưởng của sự tham gia của nữ giới trong Hội đ ồng
3.7
quản trị đến hiệu quả hoạt động công ty
Ảnh hưởng của sự am hiểu về tài chính kế toán của Hội
3.8
đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động công ty
Ảnh hưởng của tỷ lệ sở hữu vốn của Hội đồng quản trị
3.9
đến hiệu quả hoạt động công ty
Ảnh hưởng của tỷ lệ sở hữu vốn của thành viên là tổ
3.10
chức đến hiệu quả hoạt động công ty
3.11 Mã hóa biến quan sát

Trang
39
43
46

58
59

60
61
64
65
66
68


Số
hiệu
bảng
3.12
3.13
3.14
3.15
3.16
3.17
3.18

Tên bảng

Trang

Ma trân hệ số tương quan
Bảng tổng hợp kết quả hồi quy của mô hình 1
Bảng tổng hợp kết quả hồi quy của mô hình 2
Bảng tổng hợp kết quả hồi quy của mô hình 3
Bảng phân tích phương sai ANOVA với biến phụ thuộc

69

73
74
76

ROA
Bảng phân tích phương sai ANOVA với biến phụ thuộc
ROE
Bảng phân tích phương sai ANOVA với biến phụ thuộc
TQ

82
83
83


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Tỷ suất sinh lời tài sản của các doanh nghiệp ngành
3.1

hàng tiêu dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán

54


Việt Nam
Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp
3.2

3.3

ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Chỉ số Tobin' Q của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu
dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

56

57


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ
biểu đồ
1.1
Cơ cấu quản trị công ty của một công ty cổ phần

Trang
12


6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Với thực trạng và xu hướng ngày càng gia tăng về vấn đề lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của các cấp quản lý công ty để thu lợi cá nhân trong khoảng
thời gian gần đây, các nghiên cứu về quản trị công ty luôn luôn có một vai trò
quan trọng nhất định, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và công
chúng. Quản trị công ty tốt sẽ giúp giảm chi phí không cần thiết, tạo môi
trường trong sạch, hiện đại để phát triển bền vững, tăng khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế toàn cầu đầy khốc liệt với nguồn lực có hạn, ngăn ngừa và
đối phó với rủi ro nhằm vượt qua khó khăn trong môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Quản trị công ty tốt không chỉ giúp khai thác hiệu quả tài sản,
đạt được mục tiêu lợi nhuận đã đề ra mà còn gia tăng hiệu quả hoạt động
doanh nghiệp, thu hút và giữ chân người có năng lực. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác nhau sẽ có những đặc trưng khác
nhau nên chịu ảnh hưởng bởi các đặc điểm quản trị khác nhau. Bởi vậy, để có
những chính sách và chiến lược đúng đắn các nhà lãnh đạo phải nắm rõ
những đặc điểm ảnh hưởng này, mức độ và xu hướng tác động của nó đến
hiệu quả hoạt động của mình.
Ngành hàng tiêu dùng là một trong những ngành quan trọng và không
thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu cũng như nền kinh tế Việt Nam ngày nay.
Doanh số của ngành cũng như giá trị vốn hóa thị trường lớn vì mức độ sử
dụng hàng tiêu dùng là phổ biến, rộng rãi, việc sản xuất hàng tiêu dùng không
nhất thiết phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nên số lượng doanh
nghiệp tham gia lớn. Cổ phiếu của những công ty sản xuất hàng tiêu dùng
thường có khuynh hướng đem lại lợi nhuận vững chắc và khá ổn định. Đồng
thời, đây cũng là ngành mang lại nhiều cơ hội nghề nghiệp cho người lao
động nước ta. Tuy nhiên, tăng trưởng doanh thu của các công ty trong ngành



7

thấp nên tăng trưởng lợi nhuận phải dựa trên một cơ cấu tổ chức hoạt động
sản xuất, kinh doanh hợp lý. Các công ty trong ngành luôn tìm cách giữ cho
mức hàng hóa tồn kho thấp và giá rẻ, những nhà sản xuất hàng tiêu dùng phải
có cơ cấu sản xuất tinh gọn và linh động. Một phương pháp hiệu quả và đã
được thử nghiệm để trở thành một nhà sản xuất tinh gọn là phải tái cấu trúc
trên diện rộng, vốn rất tốn kém trong ngắn hạn nhưng lại được đền bù bằng
hiệu quả trong dài hạn.
Vì vậy, việc gia tăng và duy trì hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
ngành hàng tiêu dùng có ý nghĩa to lớn đối với các doanh nghiệp nói riêng và
cả nền kinh tế nói chung. Từng quyết định của quản trị công ty từ nhỏ nhất
đến lớn nhất đều sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của doanh nghiệp. Để có
những quyết định và hướng đi đúng đắn nhất, Hội đồng quản trị công ty phải
có đủ nhân lực, năng lực và sự hiểu biết nhất định để có thể xây dựng một hệ
thống quản trị công ty phù hợp nhất. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị
công ty đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng
sẽ giúp đưa ra những gợi ý về quản trị công ty để góp phần tăng hiệu quả hoạt
động của các công ty ngành hàng tiêu dùng tại Việt Nam.
Từ những lý do trên, để làm rõ hơn các nhân tố quản trị công ty ảnh
hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngành hàng tiêu
dùng, tác giả đã chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị công ty đến
hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam” để làm luận văn cao học.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố quản trị
công ty đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhóm ngành hàng tiêu
dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, xác định hướng và mức
độ tác động của các nhân tố này đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.



8

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
Ảnh hưởng của các nhân tố quản trị công ty tác động đến hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
Các doanh nghiệp trong nhóm ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
Thời gian nghiên cứu được giới hạn trong năm 2016
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích định lượng là phương pháp
chủ đạo trong nghiên cứu này. Trên cơ sở báo cáo tài chính, bản cáo bạch, báo
cáo thường niên, báo cáo tình hình quản trị công tycủa các doanh nghiệp
nhóm ngành hàng tiêu dùng trong năm 2016, tác giả tiến hành thu thập, tổng
hợp dữ liệu, xây dựng mô hình nghiên cứu, sử dụng phương pháp phân tích
hồi qui đa biến để xác định các nhân tố quản trị công ty ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp nhóm ngành này.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Việc thực hiện nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa
học cũng như thực tiễn:
Về mặt khoa học: Thông qua đề tài, tác giả đã hệ thống hóa được hệ
thống lý thuyết về quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp,
tính cấp thiết trong việc quan tâm hơn đến quản trị công ty nhằm gia tăng hiệu

quả hoạt động của doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của quản trị
công ty đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng.


9

Từ đó, đưa ra những gợi ý trong việc xây dựng quyết định, chính sách về
quản trị công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
6. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ của quản trị công ty và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và hàm ý
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

Ảnh hưởng của quản trị công trị đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp đã và đang được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên đến
thời điểm hiện tại theo tìm hiểu của tác giả, chưa có nghiên cứu trong nước
chính thức nào về ảnh hưởng của quản trị công ty đến hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Qua tìm hiểu của tác giả, đã có nhiều nghiên cứu về quản trị công ty trên
thế giới cũng như trong nước ta trong những năm vừa qua. Đa số các nghiên
cứu này tập trung vào ảnh hưởng của đặc điểm Hội đồng quản trị đến hiệu
quả hoạt động doanh nghiệp.
Năm 2010, O’Connell, V. và Cramer, N. tiến hành nghiên cứu về mối
quan hệ giữa hiệu suất công ty với quy mô Hội đồng quản trị và thành phần

Hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên Thị trường Chứng khoán
Ailen. Tác giả đã có bằng chứng cho thấy quy mô của Hội đồng quản trị và tỷ
lệ phần trăm thành viên không tham gia điều hành trong Hội đồng quản trị tác
động đến hiệu quả hoạt động của công ty.
Với đề tài là "Các đặc điểm Hội đồng quản trị có ảnh hưởng đến hiệu
suất công ty không?", Shukeri, Shin và Shaari (2012) đã lựa chọn một số đặc


10

điểm của Hội đồng quản trị làm biến độc lập bao gồm quyền quản lý, quy mô
Hội đồng quản trị, sự độc lập của Hội đồng quản trị, sự đa dạng về giới tính
và đa dạng sắc tộc và ROE là biến phụ thuộc để đo lường hiệu quả hoạt động
của công ty với mẫu nghiên cứu gồm 300 công ty niêm yết tại Malaysia được
lựa chọn ngẫu nhiên từ mỗi ngành khác nhau.
Tác giả Masood Fooladi (2013) với mục tiêu nghiên cứu là trả lời câu
hỏi: "Có mối quan hệ nào giữa quản trị doanh nghiệp và hoạt động của công
ty?" đã sử dụng bốn đặc điểm của Hội đồng quản trị gồm sự độc lập của Hội
đồng quản trị, sự kiêm nhiệm giám đốc điều hành, cơ cấu sở hữu, và quy mô
Hội đồng quản trị làm biến độc lập và chỉ số ROE làm biến phụ thuộc với
mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên được lựa chọn từ các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Bursa Malaysia.
Bên cạnh những nghiên cứu về đặc điểm của Hội đồng quản trị tác động
đến hiệu quả hoạt động của công ty còn có những đề tài với phạm vi rộng về
quản trị công ty ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Đó là
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tiến Thông (2017) ở Việt Nam về đặc điểm
của quản trị công ty gồm loại hình sở hữu công ty, tỷ lệ sở hữu vốn, cơ cấu sở
hữu vốn, thành phần của Hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm của Chủ tịch Hội
đồng quản trị và Giám đốc điều hành tác động đến hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp được đo lường bởi biến phụ thuộc ROA, ROE và chỉ số Tobin’Q.

Nghiên cứu “Quản trị công ty và hiệu quả họat động doanh nghiệp: Minh
chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Võ Hồng Đức và Phan Bùi Gia Thủy
(2013) được thực hiện với mục đích tìm ra mối quan hệ giữa quản trị công ty
và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp ở Việt Nam đã lựa chọn đặc điểm quy
mô Hội đồng quản trị,…làm các biến độc lập và chỉ số ROE là biến phụ thuộc
cho đề tài nghiên cứu của mình.


11

Qua việc tổng quát hóa các kết quả nghiên cứu ở nước ta và trên thế giới
về quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tác giả nhận thấy
có rất nhiều nhân tố về quản trị công ty mà chủ yếu là các nhân tố liên quan
đến đặc điểm của Hội đồng quản trị ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động được
đo lường bằng ROA, ROE hay chỉ số Tobin’Q tại các doanh nghiệp niêm yết
ở các nước cũng như tại Việt Nam. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào được
thực hiện trên một nhóm ngành cụ thể để chỉ ra các nhân tố quản trị công ty
có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động với những đặc điểm riêng
có của ngành, từ đó rút ra hàm ý chính sách phù hợp.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đây, luận văn
sẽ điều chỉnh và vận dụng cho phù hợp với những đặc điểm của ngành hàng
tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực
tiễn liên quan đến mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động
doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.


12


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA QUẢN TRỊ CÔNG
TY VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Hiệu quả có thể được hiểu là các lợi ích kinh tế đạt được từ hoạt động
sản xuất kinh doanh. Bản chất của hiệu quả chính là kết quả lao động xã hội,
được xác định bằng cách so sánh tỷ lệ giữa kết quả có được cuối cùng với hao
phí lao động mất đi. Hiệu quả của doanh nghiệp được xem xét một cách tổng
thể bao gồm nhiều hoạt động.
Theo giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp của
Ngô Đình Giao (1997) cho rằng: “Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc
quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định,
nó biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và toàn bộ chi phí
bỏ ra để có kết quả đó, phản ánh được chất lượng của hoạt động kinh tế đó”.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế của một hiện tượng như trên, ta có thể
hiểu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu hiện
mối tương quan giữa kết quả thu được và những chi phí đã bỏ ra để có được
kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng
cao. Trên góc độ này thì hiệu quả đồng nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp
và khả năng đáp ứng về chất lượng của sản phẩm đối với nhu cầu của thị
trường.
Theo giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh phần II của trường Đại
học Kinh tế Đà Nẵng của Trương Bá Thanh và Trần Đình Khôi Nguyên



13

(2009) thì hiệu quả được xem xét giữa mối quan hệ đầu ra là kết quả của
doanh nghiệp (doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, gia trị tăng thêm…) với
đầu vào là các nguồn lực sử dụng (tài sản, vốn chủ sở hữu, nguồn nhân
lực…). Như vậy, chỉ tiêu phân tích chung về hiệu quả có thể được tính toán
như sau:
1.1.2 Đo lường hiệu quả của một doanh nghiệp
Hiện nay có rất nhiều tiêu chí đo lường hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, tiêu chí được các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều nhất là tỷ
suất sinh lời của tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) để
đo lường hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp. Hai tiêu chí này được quan
tâm nhiều vì nó phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh hay khả năng tạo ra
lợi nhuận cho các bên liên quan của doanh nghiệp như nhà quản lý, chủ đầu
tư, khách hàng, đối tác. Việc sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất liên quan đến lợi
nhuận để thực hiện phân tích, so sánh, thống kê sẽ cho ra kết quả có ý nghĩa
hơn sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận. Vì chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ số tuyệt đối nên
khi được dùng để so sánh hiệu quả hoạt động giữa các doanh nghiệp trong
khoảng thời gian và không gian khác nhau là rất khập khiểng. Điều này là
hoàn toàn phù hợp với kết quả của P.G. Liargovas và K.S. Skandalis (2010)
trong nghiên cứu về việc sử dụng các chỉ tiêu để đo lường hiệu quả hoạt động
là 13 nghiên cứu trong tổng số 14 nghiên cứu sử dụng các chỉ số liên quan
đến khả năng sinh lời để đo lường hiệu quả hoạt động. Thêm vào đó, trong
các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời thì ROA và ROE là hai chỉ tiêu
thường được sử dụng nhiều nhất.
- Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này phản ánh một cách tổng hợp hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.



14

Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) được xác định như sau:
- Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu chính là mối quan tâm của mọi
chủ sở hữu ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Đồng thời, xu hướng của tỷ suất sinh
lời của vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu mà các nhà đầu tư không
được bỏ qua. Điều này nói lên tầm quan trọng của tỷ suất sinh lời của vốn chủ
sở hữu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
- Chỉ số Tobin’Q
Bên cạnh đó, một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả có thể được hiểu là
một doanh nghiệp có giá trị và để đại diện cho giá trị này của doanh nghiệp
thì đa số nghiên cứu đã sử dụng chỉ số Tobin’Q. Chỉ số này được James
Tobin, người đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1981, đưa ra khái niệm lần đầu vào
cuối thập niên 1960. Ý tưởng của Tobin là nếu thị trường đánh giá một doanh
nghiệp cao hơn giá trị vật chất của doanh nghiệp đó thì đấy là tín hiệu thị
trường cho rằng doanh nghiệp có triển vọng phát triển. Khi Q > 1, doanh
nghiệp sẽ đẩy mạnh đầu tư để tăng trưởng, ngược lại nếu Q < 1 thì doanh
nghiệp sẽ bán bớt tài sản vật chất hoặc giảm đầu tư xuống thấp. Q của Tobin
là giá trị sổ sách của tổng tài sản cộng với giá trị thị trường của cổ phiếu trừ
giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu chia cho giá trị sổ sách của toàn bộ tài sản.
Tobin’ Q đã được sử dụng làm biến phụ thuộc trong nghiên cứu về hiệu quả
động doanh nghiệp của Johnny Jermias, Lindawati Gani (2013).
1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
1.2.1 Khái niệm về quản trị công ty
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, quản trị công ty là hệ
thống các luật lệ, quy tắc, quy trình nội bộ và việc thực thi các nội dung đó


15


nhằm định hướng, điều hành và kiểm soát công ty. Tác giả Đường Nguyễn
Hưng (2016) cho rằng cấu trúc cốt lõi của quản trị công ty bao gồm các yếu tố
được kết hợp với nhau xung quanh hai vấn đề nền tảng của công ty là sự hoạt
động và sự tuân thủ. Bởi quản trị công ty là cách thức tổ chức và kiểm soát
hoạt động trong khuôn khổ các chuẩn mực, quy định, luật, các chính sách để
đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra. Do sự mở rộng khổng lồ trong phạm vi
của chủ đề này, quản trị doanh nghiệp đã trở thành sự kết hợp đa dạng của
luật, đạo đức kinh doanh, kế toán và tài chính, hành vi tổ chức, quản lý kinh
doanh, kinh tế và chính trị, không có định nghĩa chung được chấp nhận trên
toàn cầu (Solomon, 2007).
Trên thực tế, việc duy trì sự cân bằng giữa việc điều hành và kiểm soát
không hề đơn giản. Các chính sách và quy định của quản trị công ty cần được
xây dựng để có thể sử dụng tối đa mọi nguồn lực, phù hợp với lĩnh vực kinh
doanh cũng như kiểm soát mọi hoạt động xảy ra trong công ty để đạt được
hiệu quả cao nhất, tiến đến phát triển bền vững.
1.2.2 Nguyên tắc quản trị công ty
Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP ban hành ngày 06 tháng 06 năm 2017,
quản trị công ty là hệ thống các nguyên tắc sau:
a) Đảm bảo cơ cấu quản trị hợp lý;
b) Đảm bảo hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát;
c) Đảm bảo quyền lợi của cổ đông và những người có liên quan;
d) Đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông;
đ) Công khai minh bạch mọi hoạt động của công ty.
Trên cơ sở các nguyên tắc này, các quy định về quản trị cần được xây
dựng nhấn mạnh vai trò của Hội đồng quản trị. Đầu tiên, cơ cấu Hội đồng
quản trị cần bao gồm số lượng và thành phần tùy thuộc vào nhu cầu và mục
tiêu của công ty. Bên cạnh đó, công ty cần cân bằng giữa số lượng thành viên



16

Hội đồng quản trị điều hành và thành viên Hội đồng quản trị độc lập không
điều hành (những thành viên không tham gia vào ban điều hành) vì những
thành viên này có thể mang lại giá trị cho công ty bằng việc đưa ra những
đánh giá khách quan cũng như đóng góp ý kiến giúp tạo ra các cơ hội kinh
doanh mới. Họ cũng có thể đưa ra những ý kiến phản bác mang tính xây dựng
thường khó có được từ nội bộ công ty. Bên cạnh đó, công ty cần phải lập ra
những tiêu chí để định kỳ đánh giá được hiệu quả hoạt động của Hội đồng
quản trị. Và việc bảo vệ các quyền cổ đông cũng là vấn đề cốt lõi trong quản
trị công ty nhằm mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư. Việc bảo vệ các quyền
này có thể được thực hiện thông qua các quy định quản trị nội bộ, Luật Doanh
nghiệp và các quy định pháp luật khác và thông qua các tổ chức bên ngoài.
Hơn thế nữa, để đảm bảo đối xử công bằng, bình đẳng giữa các cổ đông thì
điều lệ hoạt động công ty phải đảm bảo phù hợp với quy định các quy định
pháp luật liên quan, được đại hội đổng cổ đông thông qua cũng như xây dựng
Quy chế quản trị công ty phù hợp, đồng thời đảm bảo thực thi theo những quy
định này. Cuối cùng là việc công bố thông tin cần được thực hiện đầy đủ,
chính xác và kịp thời vì điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng, giúp gia
tăng niềm tin và tăng sự hấp dẫn đối với cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng, và
các bên có quyền lợi liên quan mà còn nâng cao hình ảnh của công ty trong
mắt nhà đầu tư, cơ quan quản lý thị trường.


17

1.2.3 Các yếu tố của quản trị công ty
Theo cẩm nang quản trị công ty của Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC
(2010), cơ cấu quản trị công ty của một công ty cổ phần được mô tả theo sơ
đồ sau:

Kiểm toán độc lập

Ủy ban kiểm toán
Đại hội đồng cổ đông
Ủy ban chính sách phát triển

Ủy ban nhân lực

Ban Kiểm soát

Kiểm toán nội bộ

Hội đồng quản trị

Thư ký công ty

Ủy ban lương thưởng

Ủy ban khác thuộc Hội đồng quản trị

Tổng Giám đốc và
Ban Giám đốc điều hành

Các chủ thể quản trị theo các quy định hiện hành
Các chủ thể quản trị theo thông lệ tốt về quản trị công ty
Sơ đồ 1.1 Cơ cấu quản trị công ty của một công ty cổ ph ần
Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền đưa ra quyết định cao nhất
trong công ty. Tất cả các cổ đông phổ thông đều có quyền tham dự Đại hội
đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông thường chỉ đưa ra quyết định đối với



18

những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới công ty như nhân sự trong Hội
đồng quản trị và Ban kiểm soát, phê chuẩn báo cáo thường niên, các báo cáo
tài chính, phân chia lỗ lãi, thay đổi vốn điều lệ, chỉnh sửa bổ sung điều lệ, tái
tổ chức và giải thể, và các giao dịch đặc biệt.
Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị giữ vai trò lãnh đạo chiến lược trong công ty, giám sát
công tác quản lý công ty. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm chỉ đạo và xây
dựng chiến lược của công ty cũng như chỉ đạo và kiểm soát các hoạt động của
Ban giám đốc. Hội đồng quản trị hoạt động vì lợi ích của công ty đồng thời
bảo vệ quyền lợi của cổ đông, giám sát hoạt động của Tổng giám đốc, Ban
giám đốc điều hành, cũng như các hệ thống kiểm soát tài chính. Một Hội
đồng quản trị độc lập, chuyên nghiệp và có hiệu quả đóng một vai trò thiết
yếu trong việc thực thi những biện pháp quản trị công ty hiệu quả.
Ban giám đốc điều hành
Ban giám đốc điều hành gồm Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) và các
cán bộ điều hành cao cấp của công ty.
Mọi công ty đều cần phải có một người chịu trách nhiệm điều hành công
việc kinh doanh hàng ngày của công ty hay còn gọi là người đại diện theo
pháp luật. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch Hội đồng
quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc)
là người đại diện theo pháp luật của công ty. Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc)
chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng
quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được
giao.
Thành phần của Ban giám đốc điều hành còn có các cán bộ điều hành
cao cấp. Một công ty cổ phần phải có Ban giám đốc điều hành. Ban giám đốc

điều hành và Hội đồng quản trị luôn xác định ranh giới làm việc, sự xác định


19

này thể hiện bằng văn bản, tránh được sự chồng chéo, lạm quyền. Ban giám
đốc điều hành chịu trách nhiệm giải quyết công việc hàng ngày của công ty,
thực hiện các chiến lược kinh doanh mà Hội đồng quản trị đã đặt ra cũng như
điều hành công ty đạt được các mục tiêu cuối cùng.
Các Ủy ban trực thuộc
Nhiệm vụ chính của các Ủy ban này là giúp đỡ Hội đồng quản trị trong
việc đảm bảo có được một hệ thống hiệu quả và tuân thủ pháp luật ví dụ như
Ủy ban kiểm toán, Ủy ban chính sách phát triển, Ủy ban chiến lược và đầu tư,
Ủy ban nhân lực, và Ủy ban thu lao và bổ nhiệm.
Kiểm toán độc lập
Luật kiểm toán và các quy định về kiểm toán ban hành rằng việc kiểm
toán thường niên cần phải được một công ty kiểm toán độc lập hợp pháp thực
hiện. Mục đích của quy định này nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài
liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập báo cáo tài
chính.
Ở các công ty niêm yết, kiểm toán độc lập là một bộ phận độc lập với
công ty, do Đại hội đồng cổ đông lựa chọn trong số những công ty kiểm toán
được Bộ Tài chính cấp phép hoạt động để kiểm toán báo cáo tài chính, chuẩn
bị báo cáo kiểm toán và nộp lên Hội đồng quản trị. Kiểm toán độc lập được
tham dự mọi cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, nhận thông báo, thông tin liên
quan tới Đại hội đồng cổ đông mà ở đó các cổ đông được quyền biết và bày tỏ
ý kiến về các vấn đề liên quan đến kiểm toán.
Ban kiểm soát
Ban kiểm soát là một bộ phận được thiết lập độc lập với Hội đồng quản
trị và Ban quản lý, báo cáo trực tiếp lên Đại hội đồng cổ đông với mục đích là

thực hiện các thủ tục kiểm soát nội bộ hàng ngày nhằm kiểm tra, giám sát,


20

kiểm soát hoạt động quản lý của Hội đồng quản trị và Ban quản lý nhằm bảo
vệ lợi ích của cổ đông và nhà đầu tư.


21

Kiểm toán nội bộ
Vai trò của Kiểm toán nội bộ ngày càng trở nên quan trọng trong việc
củng cố công tác quản trị công ty. Chức năng chính của kiểm toán nội bộ là
thẩm tra tính hợp lý và trung thực của các báo cáo tài chính. Một bộ phận
Kiểm toán nội bộ hiệu quả đóng vai trò thiết yếu trong việc giúp việc cho Ban
Kiểm soát thực hiện các trách nhiệm quản trị của mình.
Thư ký công ty
Nhiệm vụ chính của thư ký công ty là tổ chức các cuộc họp Đại hội đồng
cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và đảm bảo các Nghị quyết của
Hội đồng quản trị là phù hợp với luật pháp hiện hành và Điều lệ của công ty.
Thư ký công ty cũng có trách nhiệm giữ sổ cổ đông, chuẩn bị và làm biên bản
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, cũng
như lưu trữ vĩnh viễn biên bản tất cả các cuộc họp và tài liệu khác liên quan.
Cuối cùng, thư ký công ty có trách nhiệm bảo mật thông tin theo các quy định
của pháp luật và Điều lệ công ty.
1.3 CÁC NHÂN TỐ THUỘC QUẢN TRỊ CÔNG TY ẢNH HƯỞNG ĐẾN
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.3.1 Các lý thuyết nền tảng
Lý thuyết đại diện (Agency Theory)

Hội đồng quản trị được thành lập để giám sát việc quản lý và thay mặt
các cổ đông và đánh giá hoạt động quản lý (Westphal & Zajac, 1995;
Williamson, 1984). Có rất nhiều nghiên cứu điều tra những ảnh hưởng của
Hội đồng quản trị đối với hoạt động của công ty. Hầu hết các nghiên cứu này
sử dụng lý thuyết đại diện, giả định rằng các nhà quản lý có khuynh hướng
hành xử theo cơ hội và do đó cần được theo dõi hoặc được khuyến khích động
viên họ hành động vì lợi ích tốt nhất của công ty (Jensen & Meckling, 1976).
Lý thuyết đại diện đề xuất rằng chức năng chính của các Ban giám đốc là làm


22

giảm chi phí phát sinh từ việc tách quyền sở hữu và kiểm soát (Fama &
Jensen, 1983). Do đặc điểm của quản trị công ty là đặt trên cơ sở của sự tách
biệt này nên vấn đề xung đột lợi ích là khá gay gắt.
Chủ sở hữu xem tổ chức như là một phương tiện đầu tư và lợi ích đạt
được lớn nhất khi giá trị vốn cổ phần là tối đa. Mặt khác, các nhà quản lý
thường xem công ty như là nguồn lương thưởng của họ. Vì vậy mà nhà quản
lý luôn ưu tiên đặt lợi ích của mình lên hàng đầu và điều này có khi đi ngược
lại với lợi ích của nhà đầu tư.
Điểm đáng chú ý là, các nhà quản lý thường có xu hướng tìm cách bảo
vệ quyền lực của mình bằng cách tiếp tục ở lại vị trí điều hành ngay cả khi họ
không đủ thẩm quyền hoặc không đủ trình độ hay bố trí các thành viên gia
đình không đủ tiêu chuẩn ở các vị trí quản lý chủ chốt, hoặc sử dụng lợi
nhuận của công ty để hưởng lợi bản thân chứ không chia lợi nhuận cho các
nhà đầu tư (La Porta và cộng sự, 2000).
Kết quả là người chủ sở hữu không giành được toàn bộ khoản lợi từ các
hoạt động nâng cao lợi nhuận của công ty mình, nhưng họ phải gánh chịu
toàn bộ chi phí cho những họat động này. Vai trò cốt lõi của một hệ thống
quản trị công ty là phải giảm thiểu tổng chi phí tác nhân, từ đó tối đa hóa giá

trị của công ty cho các cổ đông. Để giảm thấp mâu thuẫn đại diện, người chủ
sở hữu chấp nhận bỏ ra chi phí đại diện, như các khoản chi để giám sát hoạt
động (hoạt động kiểm toán), chi để cấu trúc lại tổ chức nhằm hạn chế các
hành vi không mong muốn, và các chi phí cơ hội khi các cổ đông áp đặt các
giới hạn cho ban quản lý.
Chính vì những lý do trên, lý thuyết đại diện gợi ý tác giả quan tâm đến
những đặc điểm của Hội đồng quản trị như tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị
không tham gia điều hành trên tổng số thành viên Hội đồng quản trị hay sự
kiêm nhiệm vị trí Giám đốc điều hành và chủ tịch Hội đồng quản trị bởi điều


23

này sẽ tác động đến việc tập trung quyền lực, ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của hệ thống quản trị công ty, phát sinh chi phí cũng như tác động đến
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Lý thuyết trách nhiệm quản lý (stewardship theory)
Lý thuyết trách nhiệm quản lý được phát triển bới Donaldson và Davis
(1991), giả định rằng lợi ích của cổ đông và lợi ích của nhà quản lý liên kết
với nhau. Lý thuyết tin rằng những hành động của nhà quản lý làm tối đa hóa
giá trị cổ đông, sẽ đồng thời đáp ứng nhu cầu cá nhân của họ. Vì vậy các nhà
quản lý sẽ nỗ lực bảo vệ và tối đa hóa giá trị cổ đông thông qua các hoạt động
công ty, bởi vì làm như thế, lợi ích của họ được tối đa hóa (Davis và cộng sự,
1997). Để các lợi ích này cùng hướng, các cổ đông phải đưa ra các cấu trúc
quản trị công ty thích hợp như số lượng thành viên Hội đồng quản trị tham gia
điều hành hoạt động công ty, có nên kiêm nhiệm vị trí Giám đốc điều hành và
chủ tịch Hội đồng quản trị hay không cũng như sự am hiểu về tài chính kế
toán của Hội đồng quản trị, từ đó nhà quản lý sẽ đưa ra quyết định đó để tối
đa hóa lợi ích cá nhân chỉ khi đạt được lợi ích của tổ chức, không phải là mục
tiêu cá nhân.

Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder Theory)
Lý thuyết đại diện chỉ cho thấy mối quan hệ giữa nhà quản lý và các cổ
đông; trong đó các nhà quản lý có mục tiêu duy nhất là tối đa hóa giá trị của
các cổ đông. Lý thuyết các bên liên quan được phát triển bới Freeman (1984)
xem xét quan điểm này là quá hẹp vì hành động của người quản lý có ảnh
hưởng tới các bên liên quan khác chứ không chỉ cổ đông.
Các bên liên quan có ảnh hưởng nhất tới quản trị công ty có thể chia
thành hai loại chính: nội bộ và bên ngoài. Các các bên liên quan bên ngoài
chủ yếu bao gồm cổ đông, người vay nợ, chủ nợ, các nhà cung cấp, khách
hàng và cơ quan quản lý. Các đối tác nội bộ bao gồm Hội đồng quản trị, Ban


24

giám đốc, Giám đốc điều hành và nhân viên. Tất cả các bên liên quan tham
gia vào quá trình giám sát hoạt động của doanh nghiệp một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau.
Tuy nhiên, ba bên tham gia trực tiếp và đóng vai trò trung tâm trong việc quản
lý công ty, đảm bảo đạt được tất cả các mục tiêu kinh doanh và tăng lợi nhuận
cho cổ đông là: cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành hoặc Ban
điều hành. Trong đó, Hội đồng quản trị đóng vai trò như là trọng tài để giải
quyết xung đột lợi ích của các bên liên quan và mang lại sự gắn kết cần thiết
cho việc đạt được các mục tiêu tổ chức (Donaldson và Preston, 1995).
Rõ ràng các yêu cầu ràng buộc của các bên liên quan là khá nhiều và
phức tạp, điều này đặt gánh nặng lên vai người quản lý mà không có hướng
dẫn cụ thể nào để giải quyết các vấn đề phát sinh từ xung đột lợi ích. Vì vậy
Jensen (2001) cho rằng các nhà quản lý nên theo đuổi mục tiêu làm gia tăng
giá trị dài hạn của công ty vì điều này sẽ không thể đạt được nếu bỏ qua sự
quan tâm đối với các bên liên quan. Theo ông, hoạt động của một tổ chức
không chỉ được đo bằng lợi nhuận cho các bên liên quan mà còn là việc quản

lý thông tin trong tổ chức, những mối quan hệ giữa các cá nhân trong tổ chức
và môi trường làm việc. Để quản lý tốt những điều này, các nhà quản lý hay
rõ ràng hơn là Hội đồng quản trị của công ty cần phải có một quy mô nhất
định về số lượng cũng như sự am hiểu sâu sắc về tài chính kế toán để nhận
biết các vấn đề phát sinh, từ đó có hướng giải quyết làm thỏa mãn các bên liên
quan để vừa đạt được mục tiêu kinh doanh, vừa đem lại lợi nhuận cao nhất
cho nhà đầu tư, người quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp.
Lý thuyết về sự phụ thuộc nguồn lực (Resource Dependence Theory)
Lý thuyết đại diện, trách nhiệm quản lý và các bên liên quan cung cấp
những hiểu biết sâu sắc về cổ đông, nhà quản lý và quan điểm của các bên
liên quan, trong khi có một lý thuyết khác về quản trị doanh nghiệp chú trọng


25

đến nhu cầu các nguồn lực khác nhau cần thiết cho sự thành công của doanh
nghiệp được đặt tên là lý thuyết về sự phụ thuộc nguồn lực. Lý thuyết này
giới thiệu khả năng tiếp cận các nguồn lực quan trọng liên quan đến quản trị
doanh nghiệp.
Nguồn gốc của lý thuyết này bắt nguồn từ Jeff Pfeffer, người đã chứng
minh mối quan hệ giữa quyền lực và sự trao đổi thông tin bên trong cũng như
bên ngoài tổ chức. Theo Pfeffer (1972), lý thuyết này cho rằng thành công của
công ty phụ thuộc vào việc tối đa hóa quyền lực đối với các nguồn lực nhất
định để duy trì hoạt động. Hơn nữa, Aguilera, Filatotchev, Gospel, và Jackson
(2008) lập luận rằng lý thuyết về trách nhiệm quản lý và các bên liên quan đề
cập đến các hạn chế của lý thuyết đại diện, nhưng vẫn còn những lý thuyết
cung cấp cái nhìn rộng hơn về quản trị doanh nghiệp chính là sự kết nối với
sự đa dạng của môi trường tổ chức đó chính là lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Cụ thể hơn, lý thuyết này tập trung vào vai trò của Hội đồng quản trị
trong việc bảo đảm các nguồn lực thiết yếu cho tổ chức bằng sự gắn kết với

môi trường bên ngoài. Sự gắn kết này sẽ mang lại nhiều nguồn lực cho công
ty như thông tin, kỹ năng, sự tiếp cận với các yếu tố chính của công ty như
nguyên liệu, khách hàng, các nhà hoạch định chính sách công. Hội đồng quản
trị giữ vai trò chủ đạo trong việc đạt được các nguồn lực khác nhau nhằm tăng
năng suất, hiệu quả hoạt động và duy trì hoạt động.
Hillman và Dalziel (2003) nhận thấy rằng Hội đồng quản trị là lý do
chính cho khả năng đáp ứng được sự đòi hỏi các nguồn lực khác nhau nhằm
mang lại sự thành công của doanh nghiệp. Nói chung, lý thuyết về sự phụ
thuộc nguồn lực cho thấy năng lực của Hội đồng quản trị tham gia vào việc
tiếp cận các nguồn lực, làm nổi bật vai trò của các thành viên Hội đồng quản
trị như là các nhà cung cấp, duy trì và bảo vệ tài nguyên cho doanh nghiệp.


×