Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chức năng quản lý đô thị của ủy ban nhân dân phường ở thành phố vinh, tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU VĂN MAI

CHỨC NĂNG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
PHƢỜNG Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận văn do chính bản thân tự nghiên cứu và hoàn
thành trên cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý ở địa phương. Các tư liệu, kết quả
nghiên cứu của Luận văn do chính tôi nghiên cứu chưa được công bố ở bất kỳ tài
liệu nào khác.
Tác giả

Chu Văn Mai



LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới quý thầy giáo, cô
giáo của Trường Đại học Luật Hà Nội, khoa sau Đại học, tổ bộ môn Lý luận và lịch
sử Nhà nước và pháp luật – Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ trong quá trình
học tập và nghiên cứu đề tài.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Văn
Động, người đã định hướng đề tài nghiên cứu, cung cấp những kiến thức lý luận,
thực tiễn và những kinh nghiệm quý báu, đồng thời là người hướng dẫn nhiệt tình,
động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện hoàn văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn quan tâm và giúp đỡ tác giả
hoàn thiện bản luận văn này.
Tác giả luận văn

Chu Văn Mai






1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
UBND phường là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức hành chính nhà nước
bốn cấp của Nhà nước ta. Chức năng, nhiệm vụ của phường gắn trực tiếp với việc
thực hiện mục tiêu xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân; là nơi chính
quyền trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các mối quan hệ phát sinh ban đầu của Nhà
nước với dân; thực hiện mọi nguyện vọng, phản ánh tâm tư, tình cảm cũng như

những yêu cầu của dân đến Đảng và Nhà nước. Để thực hiện được những chức
năng, nhiệm vụ đó, chính quyền phường phải thực hiện hoạt động quản lý hành
chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc
phòng, trật tự và an toàn xã hội ở địa phương theo chức năng, nhiệm vụ thuộc thẩm
quyền do pháp luật qui định; đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Quản lý đô thị là một trong những chức năng cơ bản trong hoạt động quản lý
nhà nước của chính quyền phường nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
chung tại địa phương. UBND các phường ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện
nay là những cơ quan quản lý nhà nước có chức năng nhiệm vụ chung của cấp
chính quyền cơ sở theo qui định của pháp luật, trong đó chức năng quản lý đô thị là
nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý của các phường ở Thành phố Vinh
hiện nay, với mục tiêu chung của Thành phố là từng bước xây dựng Thành phố
Vinh ngày càng hiện đại, văn minh, xứng tầm đô thị loại một và phấn đấu để trở
thành trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc Trung bộ. Trong những năm qua,
hoạt động quản lý đô thị của Thành phố Vinh nói chung và của các phường trên địa
bàn Thành phố nói riêng có nhiều cố gắng; đã đổi mới về nội dung, hình thức quản
lý trên các mặt của lĩnh vực đô thị vì vậy cơ sở hạ tầng, cảnh quan và bộ mặt đô thị
của toàn Thành phố có nhiều thay đổi. Tuy vậy, thực trạng công tác quản lý đô thị ở
các phường của Thành phố Vinh còn nhiều tồn tại, bất cập chưa tương xứng với
tiềm năng, lợi thế và mục tiêu phát triển của Thành phố đặt ra trong việc qui hoạch,


2

kiến trúc, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông, cảnh quan và môi trường
v.v. Những tồn tại, bất cập đó có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân cơ
bản quan trọng là cơ cấu tổ chức bộ máy, năng lực và trình độ của cán bộ làm công
tác quản lý đô thị của Thành phố nói chung và ở các phường của Thành phố Vinh
nói riêng còn nhiều hạn chế. Thành ủy và UBND Thành phố luôn quan tâm tới việc

quản lý đô thị ở các phường của Thành phố Vinh, coi đây là nhiệm vụ có tính chiến
lược lâu dài. Tuy vậy, cho tới nay chưa thấy có một công trình nào nghiên cứu về đề
tài quản lý đô thị của UBND các phường của Thành phố. Với tư cách là người quản
lý nhà nước của một phường ở Thành phố Vinh, trong quá trình thực tiễn công tác
cùng với những kiến thức về lý luận được tích lũy trong quá trình học tập lớp cao
học được các thầy cô giáo giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội truyền dạy, tôi
mạnh dạn chọn chủ đề: “Chức năng quản lý đô thị của Ủy ban nhân dân phường
ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm luận văn Thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về mặt lý luận, trong thời gian qua đã có nhiều các công trình nghiên cứu
liên quan đến quản lý đô thị. Có thể kể đến Luận án tiến sỹ "Tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa ở Thành phố Hà
Nội" của tác giả Trần Tú Cường (năm 2007); Luận án tiến sỹ "Chức năng xã hội
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của tác giả Lê Thu Hằng (năm
2003); Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đô thị của Ủy
ban nhân dân cấp xã ở tỉnh Bình Dương” của tác giả Trần Minh Tuyến (năm 2010);
Luận văn thạc sỹ “Đánh giá việc thực hiện qui hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên
tỉnh Bắc Giang” của tác giả Trần Văn Hải (năm 2008)…. Ngoài ra, các sách, báo
pháp lý, các tạp chí cũng xuất hiện nhiều bài viết, bài nghiên cứu, trao đổi về hoạt
động quản lý đô thị, chức năng nhà nước, chức năng quản lý đô thị của UBND các
Thành phố, quận, phường. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình, sách, báo, bài viết
đó đều chủ yếu tập trung phân tích, làm rõ những quy định chung của việc quản lý
đô thị từ góc độ lý luận; đánh giá thực trạng hoạt động của chính quyền các thành
phố, huyện quận, phường hay những hạn chế, bất cập của pháp luật về quản lý đô
thị, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Chưa có công trình ở cấp độ thạc sỹ


3

luật học nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về

quản lý đô thị ở cấp phường, đặc biệt là ở các phường của Thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An hiện nay, nhằm chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc và đề xuất giải
pháp hoàn thiện pháp luật, đảm bảo hoạt động quản lý đô thị nói chung và ở các
phường của Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ một số
vấn đề lý luận về quản lý đô thị, nội dung pháp luật hiện hành về quản lý đô thị nói
chung, thực tiễn quản lý đô thị ở các phường của Thành phố Vinh nói riêng, những
hạn chế, vướng mắc trong quá trình quản lý đô thị, đề xuất được những giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành
phố Vinh hiện nay. Để đạt được mục đích trên, Luận văn luận giải cơ sở lý luận về
chức năng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an hiện
nay; đánh giá thực trạng thực hiện chức năng này và đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện chức năng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ an hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động quản lý của UBND phường
ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay. Đây là một chủ đề lớn, phức tạp, cho
nên, trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ nghiên cứu chức năng
quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quản lý nhà nước nói chung,
quản lý đô thị nói riêng. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,…
6. Đóng góp mới về khoa học của Luận văn
Luận văn này là một trong những công trình nghiên cứu chuyên về chức
năng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh. Nội dung của Luận văn
đề cập một cách có hệ thống khái niệm, nguyên tắc, ý nghĩa của chức năng quản lý



4

đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh; các yếu tố ảnh hưởng đến việc quản
lý đô thị; sự hình thành và phát triển các quy định về quản lý đô thị; đánh giá thực
trạng việc quản lý đô thị của các phường ở Thành phố Vinh, phân tích những hạn
chế, bất cập, nguyên nhân những hạn chế bất cập, đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về quản lý đô thị ở các phường của Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An hiện nay. Những kết luận và kiến nghị được đưa ra trong Luận văn này nhằm
góp phần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về quản lý đô thị, nâng
cao hiệu quả đối với việc quản lý đô thị của UBND các phường ở Thành phố Vinh
trong thời gian tới. Luận văn sẽ đóng góp vào nhận thức lý luận về chức năng quản
lý đô thị ở các phường Thành phố Vinh và đổi mới việc thực hiện chức năng này
trong thời gian tới. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị tham khảo
tốt đối với các nhà quản lý đô thị ở các phường trong Thành phố Vinh hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
chữ viết tắt, Luận văn có kết cấu hai chương: Chương 1 luận giải cơ sở lý luận của
chức năng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện
nay; Chương 2 đánh giá thực trạng quản lý đô thị của UBND phường ở Thành phố
Vinh và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quản lý đô thị
của UBND phường ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay.


5

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỨC NĂNG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN PHƢỜNG Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY
1.1 Chức năng của nhà nƣớc

Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, chức năng của nhà nước là
những hoạt động cơ bản, thường xuyên, liên tục, trực tiếp thể hiện bản chất, nhiệm
vụ và mục tiêu lâu dài của nhà nước. Cần phân biệt chức năng của nhà nước nói
chung với chức năng của mỗi cơ quan nhà nước nói riêng. Chức năng của nhà nước
nói chung là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, liên tục của nhà nước mà tất cả các
cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện, còn chức năng của mỗi cơ quan nhà
nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, liên tục của riêng cơ quan đó nhằm góp
phần thực hiện chức năng của nhà nước nói chung. Chức năng của mỗi cơ quan nhà
nước do bản chất, nhiệm vụ, mục tiêu và chức năng của nhà nước nói chung quy định.
Về mặt lý luận, nhà nước là một tổ chức quyền lực công thực hiện chức năng
quản lý xã hội bằng các công cụ pháp luật, quy hoạch, kinh tế và hành chính, nhằm
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, vì vậy, nhà
nước phải phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức. Nhà nước thực hiện quyền lực nhằm tổ chức và quản lý xã hội, vì hạnh phúc
của nhân dân.
Từ nhận thức như trên về chức năng của nhà nước nói chung chúng ta thấy
rằng chức năng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện rõ nét bản
chất Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân, thể hiện rõ vai trò
xã hội to lớn của Nhà nước trong việc giữ cân bằng giữa lợi ích xã hội, ổn định xã
hội và bảo vệ lợi ích quốc gia, thể hiện được mục đích mà toàn Đảng, toàn dân ta
phấn đấu "xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh" [32, tr.23].


6

UBND phường do HĐND phường bầu ra nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ và chức năng của Nhà nước do pháp luật quy định, trong đó có chức năng quản
lý nhà nước về đô thị.

UBND các phường ở Thành phố Vinh hiện nay là cơ quan hành chính nhà
nước, được thành lập để thực hiện chức năng chung của Nhà nước theo thẩm quyền
do pháp luật qui định; có vai trò quản lý và điều hòa xã hội vì mục tiêu: ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội, quản lý và phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương,
trong đó vai trò và chức năng quản lý nhà nước về đô thị là nội dung quan trọng
không thể thiếu trong quản lý nhà nước ở phường. Chính quyền ở xã, phường là
chính quyền nhà nước ở cơ sở, là cấp thứ tư trong hệ thống chính quyền nhà nước
bốn cấp. Tuy nhiên, nhiệm vụ, chức năng của chính quyền phường cũng có những
điểm khác so với chính quyền xã. Ở phường với tính chất là đô thị, nên cư dân là cư
dân đô thị, vì vậy việc quản lý xã hội ở đô thị có sự khác nhau so với quản lý xã hội
ở xã, vì xã với đặc trưng là nông thôn, cư dân nông thôn, đời sống xã hội, nếp sống,
phong tục tập quán khác xa so với đời sống và sinh hoạt của cư dân đô thị, vì thế
quản lý nhà nước của phường khác hơn về tính chất và đặc trưng so với xã. Vì vậy,
quản lý nhà nước ở phường ngoài nhiệm vụ chung do pháp luật qui định còn có
chức năng quan trọng là quản lý nhà nước về đô thị nhằm vào một trật tự chung vì
mục tiêu xây dựng và phát triển đô thị ngày càng hiện đại văn minh, bảo đảm điều
kiện sống tốt hơn cho cư dân đô thị trong phạm vi địa giới quản lý hành chính, góp
phần vào mục tiêu chung về chiến lược phát triển đô thị của Thành phố.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về đô thị
- Khái niệm "quản lý".
Quản lý nhà nước về đô thị là một lĩnh vực, một nhánh của khoa học quản lý
nói chung. Do đó, khi nói tới khái niệm quản lý nhà nước về đô thị, cần xem xét
một số vấn đề cơ bản của quản lý. Thuật ngữ "quản lý" hiện nay đều được hiểu
thống nhất là một hành động, một hoạt động, sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra… Nói cách khác, là hoạt động có
mục tiêu xác định, là quá trình tác động và có quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý, trong đó chủ thể quản lý có thể là cá nhân hoặc tổ


7


chức làm nhiệm vụ quản lý, điều hành, còn đối tượng quản lý là bộ phận hay đối
tượng chịu sự quản lý dựa trên qui luật khách quan. Do đó, hoạt động quản lý sẽ có
hai loại: quan hệ tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý và tác động
phản hồi từ đối tượng quản lý lên chủ thể quản lý [34. tr. 24,25].
Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống tổ chức, quản lý tồn tại
trong mọi xã hội để duy trì tổ chức và phân công lao động xã hội, điều hòa các mối
quan hệ xã hội giữa những người trong một tổ chức và giữa các tổ chức xã hội trong
quá trình sản xuất vật chất, trong các hoạt động xã hội nhằm đạt được mục tiêu nhất
định [43. tr. 47] .
Quản lý theo nghĩa rộng là làm cho các công việc được hoàn thành thông
qua các nhân sự. Quản lý liên quan đến việc ra quyết định hoặc lựa chọn cách thức,
kế hoạch tổ chức, bảo vệ và sử dụng các nguồn lực có được để sản xuất hàng hóa và
dịch vụ phục vụ cho việc tiêu thụ, thương mại, hưởng thụ hoặc để xây dựng vốn và
tài sản cho phát triển trong tương lai.
Tóm lại, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra [30], [34. tr. 24]
- Khái niệm "đô thị".
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm này (từ góc độ đô thị học, văn hóa và xã
hội học. Từ điển Petin La Rousse xuất bản năm 1976 ở Pháp định nghĩa: “Đô thị là
một nơi quần cư trong đó đa số dân cư hoạt động thương nghiệp, công nghiệp hoặc
hành chính". Từ điển Bách khoa Xô Viết năm 1963 định nghĩa: “Đô thị là một điểm
dân cư lớn, trong đó dân cư hoạt động chủ yếu trong công nghiệp, thương nghiệp”.
Một cách chung nhất, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm đô thị thông qua định
nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đô thị là không gian cư trú của cộng
đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông
nghiệp” [33. tr.836], [36. tr.16].
Như vậy, chúng ta thấy rằng, đô thị cũng như nông thôn, đều là không gian
sống của con người, nói chính xác hơn đó là nơi tụ cư của con người, nghĩa là
những nơi mà con người sống tập trung trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Thế

nhưng, sự khác biệt của nông thôn và đô thị căn bản nhất chính là tính chất của cư


8

dân sống ở đó. Nếu như nông thôn là nơi cư trú của nông dân, hay chủ yếu do nông
dân cư trú, thì đô thị là không gian cư trú của những cư dân phi nông nghiệp, hay
nói đúng hơn cư dân sống ở đô thị chủ yếu là phi nông nghiệp. Đây là yếu tố quan
trọng nhất quyết định một địa danh nào đó được coi là đô thị hay nông thôn. Yếu tố
này ban đầu được hình thành một cách tự nhiên do lịch sử. Ngày nay nó đã được thể
chế hóa, nghĩa là được qui định thành pháp luật của mỗi nước. Ở Việt Nam hiện
nay, theo qui định của pháp luật, một nơi nào đó muốn được công nhận là đô thị
phải có tỷ lệ cư dân phi nông nghiệp từ 65% trở lên. Chủ nhân của đô thị là những
người không sống bằng nghề nông, mà sống bằng nghề khác. Đây chính là khởi
nguồn của sự khác biệt khác giữa đô thị và nông thôn. Trước hết, do không sống
bằng nghề nông nghiệp nên nhu cầu về đất canh tác cũng không phải cao như nông
thôn. Mặt khác, cuộc sống của những người dân phi nông nghiệp không thể tự cung
tự cấp được như nông dân. Họ phụ thuộc vào nhau nhiều hơn do phân công lao
động sâu hơn. Chính đó là những nguyên nhân làm cho qui mô dân số và mật độ
dân số ở đô thị cao hơn nhiều so với nông thôn. Tóm lại, đô thị trước hết là nơi cư
trú của cư dân phi nông nghiệp, so với nông thôn, nó thường có qui mô dân số lớn
hơn, mật độ dân số cao hơn, lối sống đa dạng hơn. Đây là những điểm chung nhất
mà các định nghĩa về đô thị dù tiếp cận ở góc độ nào cũng thừa nhận. Bên cạnh đó,
từ các góc độ tiếp cận khác nhau, người ta còn quan tâm đến một số khía cạnh khác
của đô thị. Chẳng hạn, về kiến trúc, đô thị thường có mật độ xây dựng cao hơn, cơ
sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại hơn; cảnh quan chủ yếu là nhân tạo, khác với nông
thôn cảnh quan chủ yếu là thiên nhiên; hoặc về xã hội học, người ta cho rằng đô thị
phải đảm nhận những chức năng về thị trường (thường là trung tâm thương mại và
kỹ nghệ của một vùng), hoặc là trung tâm quyền lực chính trị, người ta cũng quan
tâm đến hình thức tương tác nhau giữa người và người ở đô thị so với nông thôn,

theo đó, ở đô thị chủ yếu con người tương tác với nhau theo vai trò xã hội, khác với
nông thôn là con người tương tác với nhau theo quan hệ tình cảm. Xã hội học cũng
nghiên cứu một vấn đề khá phức tạp và lý thú đó là yếu tố gắn kết xã hội của đô thị.
Nói chung, người ta cho rằng nếu như sự gắn kết xã hội ở nông thôn là gắn kết tình
cảm, thì sự gắn kết ở đô thị chủ yếu là và cần phải là sự gắn kết theo luật lệ thị


9

trường. Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào, khi nghiên cứu đô thị, người ta vẫn quan
tâm đến cả hai khía cạnh, hai nhóm yếu tố chính cấu thành đô thị đó là: khía cạnh
không gian vật chất, như không gian kiến trúc, qui hoạch, cảnh quan đô thị, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, điều kiện khí hậu, địa hình...và khía cạnh tổ chức - xã hội, như cộng
đồng cư dân, các thiết chế xã hội, các luật lệ…Và tất nhiên là hai nhóm yếu tố này
không thể tách rời mà còn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, tạo nên môi trường
sống cho cư dân đô thị [35. tr.17,18,19].
Còn có nhiều khái niệm khác nhau về đô thị theo các góc độ tiếp cận khác
nhau. Nhưng khái niệm chung nhất là: "Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ
cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, họ sống và làm việc theo phong cách và
lối sống văn minh, hiện đại hơn, khoa học và có hiệu quả kinh tế, văn hóa cao. Đó
là phong cách, lối sống thành thị, lối sống công nghiệp" [35. tr. 6].
Ngoài ra, còn có những khái niệm chuyên biệt khác nhau về đô thị tùy theo
cách tiếp cận của các lĩnh vực khoa học, kinh tế, văn hóa, xã hội, kiến trúc, môi
trường…do có sự khác nhau về phát triển kinh tế - xã hội, về phát triển của hệ thống
đô thị và về cơ cấu hành chính mà mỗi nước có những qui định riêng về điểm dân
cư đô thị và do đó các tiêu chí, tiêu chuẩn qui định của các nước cũng khác nhau. Ở
Việt Nam, khái niệm đô thị tiếp cận theo quan điểm quản lý trong Nghị định
72/2001/NĐ-CP ngày 5/10/2001 của Chính phủ thì đô thị là khu dân cư có đủ hai
điều kiện như sau:
Về cấp quản lý: phải là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền quyết định thành lập. Về trình độ phát triển phải đạt được các tiêu
chuẩn (nội thành, nội thị) sau:
+ Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định. Đô thị là trung tâm
tổng hợp khi có chức năng, vai trò về nhiều mặt như hành chính, chính trị, an ninh,
quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội… Đô thị là trung tâm chuyên ngành khi có
chức năng nổi trội hơn so với chức năng khác và giữ vai trò quyết định tính chất của
đô thị đó như: công nghiệp, du lịch, cảng… Vùng lãnh thổ: là vùng liên tỉnh, vùng
tỉnh (có thể là thành phố thuộc trung ương), vùng huyện hoặc tiểu vùng trong


10

huyện. Trong thực tế, một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng lãnh thổ nào
đó, nhưng cũng có thể là trung tâm chuyên ngành của một vùng lãnh thổ lớn hơn
[34. tr. 6, 7].
Từ những trình bày ở trên có thể nhận định đô thị là: "điểm tập trung các cơ
sở kinh tế, hành chính - chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch
vụ, giao thông vận tải, công nghiệp, thương mại, giao lưu quốc tế có tính tổng hợp
hay chuyên ngành về một số lĩnh vực, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội của cả nước, của một vùng lãnh thổ (tỉnh, huyện hoặc một vùng trong tỉnh,
trong huyện, nhỏ nhất cũng là một vùng lãnh thổ bao gồm nhiều xã)" [35. tr.7].
Trong khái niệm trên, chúng ta thấy đô thị là trung tâm tổng hợp khi chúng
có vai trò và chức năng nhiều về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…; là trung
tâm chuyên ngành khi chúng có vai trò và chức năng chủ yếu về một mặt nào đó
như công nghiệp cảng, du lịch - nghỉ dưỡng, đầu mối giao thông; một đô thị là trung
tâm tổng hợp của một vùng hay một tỉnh có thể cũng là trung tâm chuyên ngành của
một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc. Do đó, việc xác định trung tâm tổng hợp hay
trung tâm chuyên ngành còn phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng
lãnh thổ nhất định. Lãnh thổ đô thị gồm nội thành hoặc nội thị (gọi chung là nội thị)

và ngoại ô. Các đơn vị hành chính của nội thị gồm: quận và phường, còn các đơn vị
hành chính của ngoại thị gồm: huyện và xã.
+ Qui mô dân số nội thành, nội thị tối thiểu 4000 người. Qui mô dân số đô
thị gồm dân số thường trú và dân số tạm trú từ 6 tháng trở lên tại nội thành phố, thị
xã. Đối với thành phố trực thuộc trung ương, dân số đô thị bao gồm dân số khu vực
nội thành, dân số của nội thị xã trực thuộc (nếu có) và dân số của thị trấn. Quy mô
dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn 4000 người. Riêng ở miền núi, quy
mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn 2000 người. Quy mô này chỉ tính
trong nội thị [34. tr. 7, 8].
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu là 65% tổng số lao động.
Lao động phi nông nghiệp của một đô thị là lao động trong khu vực nội
thành phố, nội thị xã, thị trấn thuộc các ngành: công nghiệp, xây dựng, giao thông
vận tải, bưu điện, thương nghiệp, cung ứng vật tư, văn hóa, nghệ thuật, y tế, bảo


11

hiểm, thể thao, tài chính, tín dụng, ngân hàng, quản lý nhà nước, lao động làm
muối, đánh bắt xa bờ và các lao động khác không thuộc ngành sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Đây là tiêu chí và tiêu chuẩn phân biệt đô thị và
nông thôn về cơ cấu lao động theo các khu vực kinh tế, trong đó đối với đô thị tổng
số lao động ngoài khu vực nông thôn (lâm, ngư) nghiệp phải là chủ yếu (65% trở
lên) để một mặt đáp ứng các chức năng và hoạt động động sản xuất phi nông nghiệp
đô thị, mặt khác phản ánh lối sống công nghiệp, văn minh, văn hóa, khác hẳn so với
nông thôn.
+ Cơ sở hạ tầng tối thiểu đạt 70% tiêu chuẩn, qui chuẩn qui định cho từng
loại đô thị.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ các hoạt động của cư dân tối thiểu phải đạt
70% mức tiêu chuẩn, qui chuẩn qui định với từng loại đô thị (ít nhất là bước đầu
xây dựng một số công trình công cộng và hạ tầng kỹ thuật cơ bản). Kết cấu hạ tầng

đô thị gồm hạ tầng xã hội (nhà ở, các công trình thương nghiệp, dịch vụ công cộng,
ăn uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hóa, giáo dục, nghiên cứu khoa học, thể dục, thể
thao, công viên và các công trình phục vụ lợi ích công cộng khác) và hạ tầng kỹ
thuật (giao thông, thông tin liên lạc, cấp nước, thoát nước, cấp năng lượng, xử lý
chất thải, vệ sinh môi trường). Kết cấu hạ tầng đô thị được đánh giá là đồng bộ hay
hoàn chỉnh khi tất cả các công trình kết cấu hạ tầng xã hội và kỹ thuật đô thị đều
được xây dựng, nhưng mỗi loại phải đạt tối thiểu 70% hay 90% trở lên so với qui
định. Các chỉ tiêu kết cấu hạ tầng của từng loại đô thị được xác định trong khu vực
nội Thành phố, nội thị xã, thị trấn được ban hành theo Quyết định số 28/QĐ/BXDCSHT ngày 14/12/1996. Tiêu chí này phản ánh trình độ phát triển, mức tiện nghi
sinh hoạt của đô thị cao hơn nông thôn và được xác định theo các chỉ tiêu cơ bản
sau: chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt: lit/người/ngày, chỉ tiêu cấp điện sinh hoạt
kwh/người, mật độ đường phố km/km2 và đặc điểm hệ thống giao thông, tỷ lệ tầng
cao trung bình của công trình xây dựng…[35. tr. 8].
+ Mật độ dân số nội thành, nội thị tối thiểu 2000 người/km2.
Mật độ dân số là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư của đô thị, được
xác định trên cơ sở qui mô dân số nội thành, nội thị và diện tích đất nội thành, nội


12

thị. Riêng với thị trấn là đất khu dân cư (đất xây dựng). Ở mỗi quốc gia trên thế
giới, các tiêu chuẩn, tiêu chí của đô thị rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện địa lý,
dân cư, mức độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Một số nước, ngoài 5
tiêu chí như ở Việt Nam (chức năng, qui mô dân số, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp,
hạ tầng cơ sở và mật độ dân số), còn sử dụng nhiều tiêu chí khác như mật độ xây
dựng, chỉ số tiêu dùng, trình độ văn hóa và nghề nghiệp…của dân cư. Các tiêu
chuẩn cũng khác với đô thị Việt Nam như qui mô dân số ít nhất 1000 hay 2.000
người trở lên, có ít nhất 75% hay 2/3 lao động phi nông nghiệp, và khoảng cách
giữa các nhà không xa quá 20m [34. tr.8, 9].
Khái niệm đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển

kinh tế - xã hội, hệ thống dân cư. Mỗi nước có quy định riêng tùy theo yêu cầu và
khả năng quản lý của mình. Việt Nam quy định đô thị là những thành phố, thị xã,
thị trấn, thị tứ với tiêu chuẩn về quy mô dân số cao hơn, nhưng cơ cấu lao động phi
nông nghiệp thấp hơn. Điều đó xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước đông dân,
đất không rộng, đi từ một nước nông nghiệp lên xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng thể
hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong điều kiện nước ta.
- Những đặc điểm của đô thị.
Đó là các trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của vùng và của cả nước, có
vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế; có những vấn đề xã hội luôn luôn tiềm ẩn,
như: tội phạm, tệ nạn xã hội, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…;
có các thách thức về kinh tế luôn được đặt ra: cung cấp dịch vụ, đất đai, nhà ở, đảm
bảo công ăn việc làm, giao thông, đi lại…; có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh hoặc đã
được quy hoạch và hoàn chỉnh từng phần, mật độ các công trình cao là những đặc
trưng cơ bản của đô thị. Cơ sở hạ tầng, mật độ dân số cao và quy mô dân số là
những yếu tố tạo ra những lợi thế, hiệu quả kinh tế về tính tập trung của đô thị; có
cơ cấu lao động, sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa cao là tiền đề
cơ bản của việc nâng cao năng suất lao động, là cơ sở đời sống kinh tế - xã hội của
đô thị; có cấu trúc xã hội, công nghiệp khác với làng, xã và người dân đô thị gắn với
cuộc sống thương mại, công nghiệp.


13

- Khái niệm "quản lý đô thị".
Quản lý đô thị đã trở nên một chủ đề rất quan trọng đối với tất cả các nước
và các tổ chức phát triển quốc tế trên thế giới, vì vậy có nhiều cách hiểu và nhìn
nhận khác nhau để đưa ra các khái niệm về quản lý đô thị: Quản lý đô thị là sự tác
động bằng các cơ chế, chính sách của các chủ thể quản lý đô thị (các cấp chính
quyền, các tổ chức xã hội, các sở, ban, ngành chức năng) vào các hoạt động đô thị

để thay đổi hoặc duy trì hoạt động đó nhằm mục tiêu đảm bảo cho sự phát triển đô
thị ổn định, trật tự và bền vững trong quá trình tạo dựng môi trường sống cho dân
cư và cá nhân trên cơ sở kết hợp tổng hợp nhiều yếu tố với các hệ thống đồng bộ về
chính sách, công cụ, phương pháp và biện pháp; huy động mọi nguồn lực vào công
tác qui hoạch, hoạch định các chương trình phát triển và duy trì các hoạt động đó để
đạt được các mục tiêu phát triển của đô thị. [34. tr. 25].
Quản lý đô thị là hoạt động liên tục bao gồm kiểm soát và huy động các
nguồn tài nguyên khác nhau được phối hợp để hoạch định lập chương trình, xây
dựng, vận hành, bảo trì, bảo đảm cung ứng dịch vụ công và bảo vệ môi trường [34.
tr. 26]. Song các khái niệm trên cũng chưa thể hiện được đầy đủ các nội hàm cần
thiết của hoạt động quản lý như chủ thể quản lý, đối tượng quản lý.
Quản lý nhà nước đối với đô thị là sự can thiệp bằng quyền lực của mình
(bằng pháp luật, thông qua pháp luật) vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
đô thị nhằm phát triển đô thị theo định hướng nhất định [45. tr. 12].
Mục tiêu chung của quản lý đô thị là nâng cao hiệu quả và tính hợp lý trong
quá trình sử dụng các nguồn lực của đô thị (con người, kỹ thuật, vật liệu, thông tin,
dịch vụ, cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế của sản xuất). Cụ thể là: nâng cao chất
lượng và sự hoạt động một cách tổng thể của đô thị; đảm bảo sự phát triển và tái tạo
bền vững của các khu đô thị; cung cấp các dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng cơ bản để
đáp ứng các nhu cầu chức năng của đô thị và các cư dân sống và làm việc trong đô
thị đó, nhằm cải thiện chất lượng sống và sức khỏe của cư dân đô thị.
- Khái niệm "quản lý nhà nước về đô thị".
Quản lý nhà nước về đô thị là sự tổ chức, điều hành, điều chỉnh và tác động
của chính quyền nhà nước và các cơ quan chức năng chuyên môn các cấp từ trung


14

ương đến địa phương vào các quá trình xã hội, các hành vi, hoạt động của các tổ
chức, cá nhân, nhóm cộng đồng dân cư nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh

tế, xã hội, quy hoạch xây dựng, kiến trúc, kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường,
đảm bảo cho các đô thị phát triển bền vững, trật tự và trường tồn trong quá trình tạo
lập môi trường sống cho dân cư đô thị [34. tr.26]. Chủ thể quản lý là các cấp chính
quyền và cơ quan chức năng chuyên môn được ủy quyền từ trung ương cho tới địa
phương, gọi chung là các cơ quan hành chính nhà nước hay còn gọi là hệ thống
hành chính công. Hệ thống hành chính công gắn liền với các cơ quan thực thi quyền
hành pháp của Nhà nước [34. tr 26]. Đối tượng quản lý là tất cả các cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng, nhóm dân cư có các hoạt động
diễn ra trên địa bàn đô thị. Công tác quản lý nhà nước về đô thị có hai đặc điểm cơ
bản là kết hợp quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ; quản lý tổng hợp đa ngành,
đa lĩnh vực. Trong đó, tính kết hợp giữa quản lý ngành và theo lãnh thổ trong quản
lý nhà nước về đô thị có thể thấy rõ như sau tiến hành đồng thời theo các qui định
pháp luật, của nhà nước, cụ thể hóa các qui định quản lý nhà nước và ban hành các
quyết định hành chính cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng của từng địa
phương, nhưng không trái với quy định pháp luật; các quyết định hành chính do
chính quyền và các cơ quan chức năng chuyên môn của đô thị chỉ có giá trị trong
phạm vi địa bàn đô thị; tính quản lý tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực thể hiện rõ khi
hoạt động quản lý nhà nước về đô thị là quản lý tất cả các hành vi, hoạt động của
các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, nhóm cộng đồng dân cư tham gia vào hoạt
động đời sống xã hội của đô thị, do vậy quản lý nhà nước về đô thị là quản lý nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là quản lý về qui hoạch, xây dựng, kiến trúc,
quản lý bất động sản, quản lý khai thác, sử dụng hạ tầng cơ sở, quản lý vệ sinh môi
trường, quản lý trật tự, an ninh, an toàn đô thị, quản lý hành chính đô thị [34. tr. 27,
28]. Hiện nay, các lĩnh vực quản lý nhà nước về đô thị thường được chia thành ba
nhóm, bao gồm các hoạt động quản lý quá trình tạo dựng không gian và cơ sở vật
chất của đô thị; quản lý khai thác sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật của đô thị; quản
lý các lĩnh vực khác như hành chính đô thị, an toàn, trật tự đô thị, phòng chống tệ
nạn xã hội…Quản lý nhà nước về đô thị được phân thành ba nhóm cụ thể là: a,



15

Nhóm thứ nhất: quản lý nhà nước quá trình tạo dựng không gian - vật chất (xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật) của đô thị gồm có qui hoạch cảnh quan và kiến trúc;
xây dựng; đầu tư xây dựng… b, Nhóm thứ hai: quản lý nhà nước quá trình khai thác
và sử dụng các cơ sở - vật chất - kỹ thuật của đô thị: gồm có quản lý nhà nước về
đất đai và thị trường bất động sản; di sản, cảnh quan đô thị; kết cấu hạ tầng; vệ sinh
môi trường đô thị… c, Nhóm thứ ba: quản lý nhà nước các lĩnh vực đời sống xã hội
khác của đô thị, chủ yếu gồm có: quản lý nhà nước về dân số; phòng chống thiên
tai, an toàn đô thị; trật tự đô thị; phòng chống tệ nạn xã hội; chính sách xã hội; tài
chính đô thị; hành chính đô thị [34 tr. 28, 29].
Trong quá trình quản lý nhà nước về đô thị các cấp chính quyền nhà nước
nói chung cần sử dụng các công cụ và biện pháp quản lý. Cụ thể là:
- Về công cụ quản lý nhà nước về đô thị: quản lý nhà nước về đô thị là quản
lý hành chính nhà nước theo lãnh thổ, sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý, trong
đó chú trọng nhất là các công cụ pháp luật, qui hoạch và kế hoạch nhằm mục tiêu
quản lý và phát triển đô thị bền vững, theo các chương trình, dự án, tuân thủ các
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước và địa phương.
Các công cụ quản lý nhà nước về đô thị bao gồm: qui hoạch đô thị; kế hoạch
phát triển đô thị; pháp luật; trong đó qui hoạch đô thị đóng vai trò không thể thiếu
của công tác quản lý nhà nước về đô thị và được coi là tiền đề, là công cụ để tiến
hành công tác quản lý đô thị.
+ Qui hoạch đô thị: qui hoạch đô thị được thể hiện theo nhiều cấp độ và loại
hình khác nhau như: chiến lược hay qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
quốc gia, vùng, Thành phố; định hướng phát triển hệ thống đô thị quốc gia và vùng.
Định hướng phát triển không gian đô thị; qui hoạch sử dụng đất; qui hoạch chung
xây dựng đô thị; qui hoạch chi tiết xây dựng đô thị; qui hoạch phát triển các hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật đô thị…Qui hoạch đô thị đảm bảo
tính thống nhất của nhà nước trong lãnh đạo quản lý đô thị. Qui hoạch đô thị giúp
Nhà nước kiểm soát được tiến trình phát triển đô thị, sử dụng hiệu quả các nguồn

lực của đô thị, giữ gìn trật tự đô thị, giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm. Các
chỉ tiêu được xác định trong đồ án qui hoạch được duyệt là căn cứ quan trọng để lập


16

kế hoạch phát triển đô thị. Qui hoạch đô thị xác định rõ địa giới, nguồn lực có thể sử
dụng của từng cá nhân và tổ chức được giao quyền xây dựng, khai thác, phát triển
đất đai, bất động sản hoặc dịch vụ công cộng đô thị… Khi được coi là công cụ quản
lý nhà nước về đô thị, qui hoạch đô thị phải bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ,
tính khoa học, tính dự báo và tầm nhìn hướng tới tương lai. Các loại đồ án qui
hoạch đô thị nói chung và qui hoạch xây dựng đô thị nói riêng được cấp có thẩm
quyền phê duyệt là cơ sở pháp lý để tiến hành quản lý đô thị, tiến hành đầu tư cải
tạo, chỉnh trang, phát triển đô thị phải được thể hiện trên bản đồ qui hoạch và được
công khai hóa nhằm ngăn chặn các hành vi trục lợi. Việc tuân thủ các qui hoạch đô
thị được duyệt là thước đo đánh giá chất lượng của công tác quản lý nhà nước về đô
thị [34. tr. 29, 30].
+ Kế hoạch phát triển đô thị: kế hoạch phát triển đô thị được lập để xác định
phương hướng, mục tiêu, và các biện pháp để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu phát
triển đô thị trên các mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Kế hoạch phát triển đô
thị đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt được mục tiêu. Các kế hoạch
phát triển đô thị là công cụ để điều tiết theo định hướng của nhà nước đối với các tổ
chức, cá nhân có các hoạt động liên quan tới các nguồn lực của đô thị như đất, khí,
nước, công trình xây dựng, không gian đô thị, dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội và kỹ thuật đô thị… Kế hoạch phát triển đô thị là cơ sở để đảm bảo
tiến trình thực hiện các chiến lược về qui hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ
môi trường, và qui hoạch đô thị. Vì vậy, kế hoạch phát triển đô thị là công cụ quan
trọng nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của nhà nước đối với tiến trình
phát triển đô thị. Kế hoạch phát triển đô thị thường được xác lập theo khung thời
gian dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và theo các chủ thể quản lý như kế hoạch cấp nhà

nước, cấp vùng, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cấp huyện, cấp xã. Các
kế hoạch phát triển đô thị cần dựa vào nhu cầu phát triển của các thị trường đô thị,
kết hợp với các công cụ kinh tế hoặc tài chính đô thị để định hướng kiểm soát và
điều tiết tiến trình phát triển đô thị [34. tr. 31].
+ Pháp luật: pháp luật được coi là một công cụ quản lý không thể thiếu được
của mọi nhà nước nói chung. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà


17

nước về đô thị để duy trì trật tự, kỷ cương và an toàn xã hội. Pháp luật là buộc các
cá nhân và tổ chức thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ được qui định trong quá trình
quản lý và phát triển đô thị. Pháp luật được sử dụng để đảm bảo công bằng về lợi
ích giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong việc sử dụng các nguồn lực đô
thị. Pháp luật tạo điều kiện áp dụng các loại công cụ quản lý nhà nước khác có hiệu
quả và hiệu lực. Do đó việc sử dụng công cụ này hiệu quả nhất khi pháp luật được
phổ biến giáo dục rộng rãi để các đối tượng và chủ thể quản lý đều thông hiểu và
thực thi nghiêm chỉnh, cũng như có các cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
thực thi và xử lý các vi phạm [34. tr. 32].
Bên cạnh đó, Nhà nước còn sử dụng các phương pháp quản lý nhà nước về
đô thị để đảm bảo một trật tự thống nhất trong quản lý. Các phương pháp quản lý
nhà nước về đô thị là tổng thể các cách thức tác động của Nhà nước đối với các đối
tượng quản lý trong đô thị nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Các phương pháp quản
lý nhà nước về đô thị thường được áp dụng gồm có các phương pháp hành chính,
kinh tế, thống kê, điều tra xã hội học, tuyên truyền giáo dục để tác động trực tiếp
hay gián tiếp đến đối tượng quản lý. Các phương pháp quản lý cụ thể là:
Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học hiện nay được sử dụng phổ biến
trong công tác quản lý nhà nước. Thông qua phương pháp thống kê, điều tra xã hội
học, từ đó có thể phân tích được tình hình, xác định được xu thế phát triển, các tiến
trình, các qui luật vận động và thiết lập phương cách tác động điều chỉnh theo định

hướng và mục tiêu mong đợi. [34. tr. 33]
Phương pháp hành chính thường được áp dụng khi Nhà nước cần tác động
trực tiếp và bắt buộc mọi cá nhân, mọi tổ chức phải tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật,
mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Phương pháp hành chính được dùng
khi có sự phân công, phân quyền rõ ràng để đảm bảo các hoạt động phối kết hợp
của các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác quản lý nhà nước về đô thị. Vì
vậy, phương pháp hành chính thường được dùng để xác lập trật tự, kỷ cương xã hội.
Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp hành chính cần được bổ trợ của các phương
pháp khác, nhằm tránh căn bệnh quan liêu, mệnh lệnh hành chính của nhà nước và
cán bộ nhà nước thực hiện. [34. tr. 33]


18

Phương pháp kinh tế thường được áp dụng khi nhà nước sử dụng các lợi ích
kinh tế để điều chỉnh một cách gián tiếp các đối tượng quản lý. Phương pháp kinh tế
thường được coi là phương pháp quản lý mềm dẻo nhất và ngày càng trở nên thông
dụng do sự tác động của nó khiến cho đối tượng quản lý thiết lập và lựa chon mục
tiêu phát triển phù hợp với mục tiêu chung của xã hội. Phương pháp này cho phép
mở rộng sự tham gia của các cá nhân và tổ chức vào các công việc thuộc trách
nhiệm kiểm tra, giám sát của nhà nước để giảm các chi phí và tính cứng nhắc, mệnh
lệnh hành chính đơn thuần, đồng thời có thêm được các giải pháp sáng tạo khác.
Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn phải đi cùng với các cơ chế chính sách về
đầu tư, khai thác, sử dụng các nguồn lực đô thị và đòi hỏi năng lực quản lý cao để
giám sát việc thực hiện một cách công bằng [34. tr. 33].
Phương pháp tuyên truyền giáo dục thường được sử dụng để tác động gián
tiếp thông qua việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các đối tượng quản lý và
thường được kết hợp cùng với phương pháp khác để nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về đô thị. Việc tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm
của từng cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan tới phát triển và quản lý đô thị nhằm

nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước nói chung và về đô thị
nói riêng đã và đang được áp dụng thành công ở nước ta thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng thông báo công khai các vi phạm trên địa bàn để nhắc nhở, răn
đe. Thiết lập các hệ thống thông tin để thu thập nguồn tin do quần chúng nhân dân
cung cấp. Phương pháp này cho phép phối kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan Đảng,
chính quyền, cơ quan chức năng chuyên môn, với các tổ chức chính trị xã hội, các
tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức quần chúng tại cộng đồng dân cư
tạo thành một bộ máy quản lý đồng bộ, phát hiện, ngăn ngừa, vận động, thuyết phục
để hạn chế, giảm dần các vi phạm về quản lý đô thị, duy trì trật tự kỷ cương đô thị.
[34. tr. 34].
1.3 Nội dung quản lý nhà nƣớc về đô thị
Quản lý và phát triển đô thị là hoạt động có tính tổng thể, có sự tham gia của
toàn xã hội, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ thể. Vai trò của Nhà nước được thể
hiện ở những điểm cơ bản sau đây:


×