Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.22 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH NGA

ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THANH NGA





1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Để quản lý xã hội thì nhà nước phải sử dụng một loại công cụ đặc biệt là
pháp luật. Không có nhà nước nào mà không có hệ thống pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật càng tốt thì việc quản lý trật tự xã hội
của nhà nước đó càng tốt. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng và
xuyên suốt của một quốc gia là ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp
ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay. Một hệ thống pháp luật tốt trước tiên phải bao gồm các
quy phạm pháp luật điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội, đảm bảo được tính
công bằng, dân chủ, khách quan, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các
chủ thể trong các quan hệ xã hội cũng như đảm bảo được tính khả thi trong việc
áp dụng, thực hiện các quy phạm pháp luật trên thực tiễn.
Chế định chứng minh và chứng cứ trong TTDS Việt Nam là một trong
những chế định cơ bản của pháp luật TTDS. BLTTDS được Quốc hội khóa XI
thông qua ngày 15/06/2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2005, được sửa đổi bổ
sung bằng Luật số 65/2011/QH12 năm 2011 thông qua ngày 29/03/2011 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2012 với chế định chứng minh và chứng cứ được kế
thừa và đánh dấu bước phát triển lập pháp hoàn thiện hơn trong luật. Trên cơ sở
kế thừa và phát triển PLTTGQCVADS năm 1989; PLTTGQCVAKT năm 1994
và PLTTGQCTCLĐ năm 1996, cũng như tiếp thu những thành tựu lập pháp của
nhiều nước trên thế giới, BLTTDS đã nâng cao tính dân chủ trong hoạt động
TTDS nói chung và trong hoạt động chứng minh nói riêng. Quyền tự định đoạt
của các đương sự và đảm bảo quyền, nghĩa vụ chứng minh trong TTDS là
những dấu ấn thực sự được ghi nhận trong luật. Theo đó, các đương sự là chủ

thể trung tâm, hoàn toàn chủ động và tích cực trong việc thu thập, cung cấp
chứng cứ, chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc. Điều này đã đáp
ứng được nhu cầu thực tế của xã hội và đảm bảo được mục đích của công cuộc
cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới. Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới đã nêu lên quan điểm chỉ đạo đối với công tác tư pháp:
“phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [22,


2

tr3] và nhiệm vụ trọng tâm là “khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan;…; việc
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết
phục và trong thời gian ptôháp luật quy định” [22, tr4]. Nghị quyết 49/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
nhấn mạnh cần tiếp tục đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong xét
xử, tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Vấn đề là, nhìn từ thực tiễn xét xử tỷ lệ án bị hủy, bị sửa, phải qua nhiều
cấp xét xử, xử đi, xử lại nhiều lần vẫn chiếm tỷ lệ khá cao mà một trong những
nguyên nhân chủ yếu là liên quan đến vấn đề chứng minh và chứng cứ. Nguyên
nhân của tình trạng này xuất phát từ việc chưa thực sự có thay đổi trong nhận
thức về vai trò của các chủ thể trong hoạt động chứng minh, chưa đảm bảo được
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, các quy định
của pháp luật còn chưa thực sự hoàn thiện, còn có các cách hiểu mâu thuẫn khi

áp dụng cùng một điều luật trong thực tế,…
Xoay quanh vấn đề này, liên quan đến chế định chứng minh và chứng cứ
trong TTDS Việt Nam, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu đề cập một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp về những khía cạnh khác nhau của chế định, tuy
nhiên chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc về khía cạnh đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự trong TTDS Việt Nam đặc biệt kể từ thời điểm Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLTTDS có hiệu lực thi hành. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong pháp luật
TTDS Việt Nam” là một vấn đề có ý nghĩa khoa học trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện chế định chứng minh và
chứng cứ trong pháp luật TTDS Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư
pháp mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI


3

Sau khi BLTTDS có hiệu lực, cũng đã có một số công trình nghiên cứu đề
cập đến việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong TTDS Việt Nam, tuy nhiên các công trình này mới chỉ đề cập đến trong
những đề tài liên quan khác như về hoạt động chứng minh trong TTDS Việt Nam,
về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam. Các công
trình nghiên cứu đó là:
- Luận văn “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong TTDS Việt Nam”
của tác giả Vũ Trọng Hiếu (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại trường Đại học
Luật Hà Nội năm 1998);
- Luận văn “Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong BLTTDS” của tác giả
Vũ Văn Đồng (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội

năm 2006);
- Luận án “Chế định chứng minh trong TTDS Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Minh Hằng (Luận án tiến sỹ luật học, bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2007);
- Sách chuyên khảo “Hoạt động chứng minh trong pháp luật TTDS Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng - Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính,
năm 2009.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một
nội dung nào đó của chế định chứng cứ, chứng minh trong TTDS như:
- Bài viết “Về quyền định đoạt của đương sự trong TTDS” của tác giả
Phạm Hữu Nghị, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000;
- Bài viết “Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự” của tác giả Bùi
Thị Huyền,Tạp chí luật học số 1/2002;
- Bài viết “Tập quán - Nguồn luật hay nguồn chứng cứ” của tác giả
Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí Tòa án, số 9/5-2004;
- Bài viết “Các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam” của tác giả
Đinh Trung Tụng, Đặc san chuyên đề về BLTTDS - Tạp chí TAND, số 8-2004;
- Bài viết “Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng cứ” của tác giả
Nguyễn Văn Khuê, Tạp chí Kiểm sát số 10/2004;
- Bài viết “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy
định trong BLTTDS” của tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án, số 10/2004
và số tháng 11/2004;


4

- Bài viết “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS” của tác giả
Trần Văn Trung, Tạp chí Kiểm sát số 12/2004;
- Bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS” của tác giả Dương
Quốc Thành, Tạp chí tạp chí Tòa án số 01/2004;

- Bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS” của tác giả Hoàng
Ngọc Thỉnh, Tạp chí luật học năm 2004 - Đặc san góp ý Dự thảo BLTTDS;
- Bài viết “Nhập, tách VADS - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Trần Anh Tuấn, Tạp chí Tòa án số 3/2005;
- Bài viết “Bàn về khái niệm chứng cứ trong Luật TTDS Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí kiểm sát, số 2/01-2005;
- Bài viết “Các quy định về chứng minh trong TTDS” của tác giả Nguyễn
Công Bình, Tạp chí luật học năm 2005. Đặc san về BLTTDS;
- Bài viết “Nguyên tắc quyền định đoạt của đương sự trong BLTTDS”,
của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5-2005;
- Bài viết “Những chức năng cơ bản trong TTDS” của tác giả Nguyễn
Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005;
- Bài viết “Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong TTDS” của tác
giả Phạm Thái Quý, Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số 12/2008;
- Bài viết “Bàn về vượt quá phạm vi khởi kiện” của tác giả Hoàng Tuấn
Trọng, Tạp chí Toà án tháng 12/2008;
- Bài viết “Quyền khởi kiện và xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác
giả Trần Anh Tuấn, Tạp chí Toà án tháng 12/2008;
- Bài viết “Một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các quy
định của BLTTDS về giám định, chi phí giám định, định giá, án phí cùng một số
kiến nghị” của tác giả Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án số 8/2008;...
Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại ở
việc đề cập một cách gián tiếp hoặc nghiên cứu một góc độ lý luận về quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam. Cho đến nay, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về việc đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam.
Trước tình hình đó, tác giả đã chọn đề tài “Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trong pháp luật TTDS Việt Nam” làm luận văn của
mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về đảm bảo trên



5

thực tế việc thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong pháp
luật TTDS Việt Nam.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

* Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng như
nội dung về việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong TTDS Việt Nam. Qua đó, phát hiện những điểm còn thiếu sót
hoặc chưa hợp lý trong các quy định hiện hành và đề xuất, kiến nghị một số giải
pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam trong việc đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam,
đồng thời nâng cao hiệu quả trong việc thực thi các quy định đó trên thực tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trong pháp luật TTDS;
- Nghiên cứu nội dung các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện
hành về việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự trong TTDS;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, phát hiện một số
vướng mắc và đề xuất giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt
Nam về đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong
TTDS bao quát trên nhiều phương diện, từ phương diện đảm bảo bằng các quy
định của pháp luật TTDS, pháp luật nội dung (các quan hệ dân sự theo nghĩa

rộng), đảm bảo bằng thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, đảm bảo bằng ý thức pháp luật, ý chí chủ quan của các chủ thể …
và đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS
cũng bao gồm nhiều giai đoạn xét xử.
Với góc độ là một luận văn thạc sỹ, trong thời gian nghiên cứu có hạn, tác
giả chỉ đi sâu nghiên cứu về việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự TTDS Việt Nam trong các VADS dưới phương diện là các


6

quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về đảm bảo thực hiện các quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của triết
học Mác - Lênin, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, lôgíc, lịch
sử, qui nạp, tham khảo ý kiến của những nhà khoa học chuyên ngành và những
người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề nghiên cứu trong nội dung luận văn.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn

diện và sâu sắc về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong TTDS Việt Nam. Những đóng góp của luận văn thể hiện trên
một số phương diện sau đây:
- Xây dựng được khái niệm về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam. Phân tích làm rõ cơ sở lý
luận hình thành các quy định về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trong TTDS Việt Nam;
- Hệ thống được các quy định pháp luật TTDS Việt Nam về đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự ở các giai đoạn xét xử
VADS;
- Phát hiện các vấn đề và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được


7

kết cấu bởi 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trong pháp luật TTDS
Chƣơng 2: Nội dung các quy định về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS
Việt Nam và một số kiến nghị



8

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TTDS
1.1. Khái niệm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đƣơng sự trong TTDS
Tố tụng là kiện thưa tại tòa án nói chung có gốc từ tiếng La tinh procedere
có nghĩa là tiến bước, gợi nên một cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được
mục đích, “tố tụng” thường được sử dụng một cách lẫn lộn với danh từ “thủ tục”
bởi tính chất định trước buộc phải tuân theo trong một việc nhất định. Tố tụng
khác biệt với thủ tục ở chỗ nó được dùng trong các trình tự tại cơ quan tư pháp
đồng thời gợi ra một cách nhìn nhận trong đó có sự tranh tụng [5.tr4]. Tố tụng
được vận dụng vào lĩnh vực pháp luật để đặt tên cho ngành luật và được hiểu là
thủ tục pháp luật quy định để giải quyết các vụ án, vụ kiện ở tòa án [3.tr1].
Hệ thống pháp luật tố tụng ở Việt Nam được chia thành pháp luật tố tụng
hình sự, pháp luật tố tụng hành chính và pháp luật TTDS. Việc phân chia này
được dựa trên nội dung vụ việc được giải quyết ở tòa án. Pháp luật tố tụng hình
sự được áp dụng để giải quyết các vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hành chính
được áp dụng để giải quyết các vụ án hành chính và pháp luật TTDS được áp
dụng để giải quyết các vụ việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS, phạm vi điều chỉnh của BLTTDS bao
gồm các quy định về những nguyên tắc cơ bản trong TTDS, trình tự, thủ tục
khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự, trình tự, thủ tục giải quyết
vụ việc dân sự tại tòa án, thi hành án và các quy định khác phục vụ cho quá trình
giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác và công minh. Vụ việc
dân sự bao gồm VADS và việc dân sự. VADS bao gồm các vụ án về tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc dân sự
bao gồm các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động. Để xác định là VADS thì cần căn cứ vào hai đặc điểm cơ bản là

phải có sự mâu thuẫn dẫn đến các tranh chấp và các tranh chấp này phải nằm
một trong các lĩnh vực về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động.
Bản chất của pháp luật TTDS Việt Nam là phương tiện, công cụ để giải
quyết các vụ việc dân sự. Các vụ việc dân sự xuất phát từ các quan hệ pháp luật


9

dân sự mà đặc trưng cơ bản của các quan hệ này là sự bình đẳng, sự thoả thuận
và sự tự định đoạt của các bên. Do đó, trong pháp luật TTDS Việt Nam, một
trong những chế định quan trọng được hình thành và phát triển ngày càng tiến
bộ, đảm bảo cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự
qua các thời kỳ lịch sử là chế định về chứng minh và chứng cứ. Vấn đề là, chỉ
khi tìm ra sự thật khách quan của vụ việc dân sự thì vụ việc dân sự mới có thể
được giải quyết một cách đúng đắn và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của
các đương sự, chứng minh lại là biện pháp duy nhất để tìm ra sự thật khách quan
đó trên cơ sở các chứng cứ.
Như vậy, mục đích chính của việc giải quyết vụ việc dân sự là bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đương sự trong VADS là“người
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách” [64.tr104]
và là “cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan” (Khoản 1, Điều 56 BLTTDS).
Vì đặc trưng cơ bản của các quan hệ dân sự là sự thỏa thuận, tự định đoạt
nên đương sự trong VADS sẽ là người biết rõ nhất về sự thật khách quan VADS
và các chứng cứ chứng minh sự thật khách quan đó. Do đó, họ phải có quyền và
có nghĩa vụ chứng minh. Nhìn từ góc độ hình thành và phát triển của chế định
chứng minh và chứng cứ trong pháp luật TTDS Việt Nam có thể nhận thấy rõ
dấu ấn của sự phát triển và ngày càng hoàn thiện trong các quy định của pháp

luật, đặc biệt là việc xác định được chính xác vị trí, vai trò của các chủ thể trong
hoạt động chứng minh cũng như trong việc trao quyền và giao nghĩa vụ chứng
minh cho các đương sự. Các đương sự không chỉ có quyền chứng minh để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình mà còn có nghĩa vụ chứng minh để tìm ra sự thật
khách quan của VADS. Song song với việc pháp luật ghi nhận các quyền và
nghĩa vụ chứng minh của các đương sự trong TTDS thì một vấn đề hết quan
trọng là việc đảm bảo cho các đương sự có thể thực hiện việc chứng minh của
mình trên thực tế. Chỉ khi đảm bảo được điều này thì hoạt động chứng minh mới
được thực hiện một cách đầy đủ và trên cơ sở đó mới có thể tìm ra được toàn bộ
sự thật khách quan của VADS.
1.1.1. Khái niệm chứng cứ và chứng minh trong TTDS
Theo Từ điển tiếng Việt, chứng minh là “làm cho thấy rõ là có thật, là


10

đúng bằng sự việc hoặc lí lẽ” [68, tr.186]. Do đó, trong TTDS, chứng minh là
làm cho thấy rõ các tình tiết, sự kiện của VADS là đúng, là có thật bằng cách sử
dụng các chứng cứ, các lý lẽ và lập luận.
Trên cơ sở khái niệm chứng minh theo Từ điển tiếng Việt, các nhà nghiên
cứu pháp luật cũng đưa ra các định nghĩa về chứng minh trong TTDS. Theo tác
giả Nguyễn Minh Hằng, chứng minh trong TTDS là “Tổng thể các hoạt động
của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ nhằm mục đích sử dụng chứng cứ để xác định
sự thật khách quan của vụ, việc dân sự.” [30, tr.9]. Theo tác giả Vũ Văn Đồng,
chứng minh trong TTDS cũng là “hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ để xác
định sự thật khách quan của vụ việc dân sự.” [71, tr.15]. Cũng như hai tác giả
trên, trong cuốn Kỹ năng giải quyết các VADS, chứng minh trong TTDS được
định nghĩa là “một quá trình bao gồm hoạt động của Tòa án và những người

tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng
cứ nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án.” [13, tr.81]. Như vậy,
tất cả các định nghĩa trên đều khẳng định chứng minh trong TTDS là một hoạt
động TTDS bao gồm cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá nhằm mục đích
sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, hay nói cách
khác các tác giả đều quan niệm chứng minh trong TTDS là việc làm rõ sự thật
khách quan của vụ án bằng các chứng cứ.
Theo thuyết vật chất và ý thức của Mác - Lênin, bất kì một sự vật, hiện
tượng nào đã xẩy ra trên thực tế thì không bao giờ mất đi mà luôn để lại các dấu
vết trong thế giới khách quan và chúng có thể tồn tại dưới dạng vật chất trên các
đồ vật hoặc chúng cũng có thể tồn tại duới dạng phi vật chất trong trí nhớ của
con người. Tuy nhiên, dù ở dạng này hay dạng khác, các dấu vết cũng đều có
khả năng tái hiện lại các sự kiện, các tình huống đã xẩy ra trước đó, hay nói cách
khác chúng là căn cứ để chứng minh một sự kiện, hiện tượng nào đó là có thật,
là đúng. Những dấu vết ấy được gọi là chứng cứ. Vậy chứng cứ có thể được hiểu
là những cái tồn tại trong thế giới khách quan mà căn cứ vào đó có thể xác định
được các sự vật, hiện tượng đã xẩy ra trước đó như thế nào. Theo Từ điển tiếng
Việt, chứng cứ là “những điều viện dẫn ra để làm bằng” [67, tr.384], là “cái cụ
thể tỏ rõ điều gì đó là có thật” [68, tr.352].


11

Trong VADS chứng cứ là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác giao nộp cho tòa án hoặc do tòa án thu thập được theo trình
tự, thủ tục do BLTTDS quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu
hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn VADS (Điều 81, BLTTDS)
Như vậy, có thể hiểu chứng cứ trong TTDS là “cái có thật, theo một trình
tự do luật định tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự” [64, tr.153154]. Từ khái niệm này, chứng cứ trong TTDS gồm ba thuộc tính là tính khách

quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Chứng cứ tồn tại một cách độc lập trong
thế giới khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và
phải liên quan đến VADS, phục vụ cho việc giải quyết VADS đồng thời nó phải
được thu thập, sử dụng theo một trình tự luật định.
Chứng cứ và chứng minh trong TTDS có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Bất kì một hoạt động chứng minh nào cũng cần phải căn cứ vào các chứng cứ.
“Chứng cứ là cơ sở duy nhất và cũng là phương tiện duy nhất để chứng minh
trong vụ kiện dân sự, thông qua chứng cứ các sự kiện thực tế được xác định,
khẳng định”[27, tr.4]. Trong khi đó, chứng minh là làm sáng tỏ tất cả những tình
tiết, sự kiện liên quan đến vụ án để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy,
nhận thức đúng đắn về chứng cứ sẽ là cơ sở lí luận, định hướng đúng đắn cho
hoạt động chứng minh VADS.
Bên cạnh việc sử dụng các chứng cứ để chứng minh bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, các chủ thể còn phải làm rõ khía
cạnh pháp lý liên quan đến các tình tiết, sự kiện đó. Vì vậy, việc chứng minh
trong TTDS không phải chỉ dựa vào các chứng cứ mà còn phải dựa vào các quy
định pháp luật, các lý lẽ và lập luận.
Có thể nói, chứng minh trong TTDS được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng
và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, chứng minh trong TTDS là việc các chủ thể làm
rõ tất cả các vấn đề liên quan đến VADS dựa vào các chứng cứ, các căn cứ pháp
lý và các lý lẽ, lập luận. Chứng cứ là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động
chứng minh, là cơ sở thực tiễn của hoạt động chứng minh. Để thực hiện các hoạt
động chứng minh trong TTDS, trước tiên các chủ thể phải thu thập chứng cứ.
Sau khi có được các chứng cứ, các chủ thể phải nghiên cứu, phân tích, tổng hợp,
so sánh, đánh giá chứng cứ cùng với những lý lẽ, lập luận, liên kết các chứng cứ


12

nhằm chứng tỏ các tình tiết, sự kiện của VADS là có thật, là đúng. Trên cơ sở đã

tìm ra được sự thật khách quan của các tình tiết, sự kiện của vụ án, các chủ thể
chỉ rõ các căn cứ pháp lý liên quan nhằm khẳng định yêu cầu, phản yêu cầu hoặc
phản đối yêu cầu của đương sự là hợp pháp hay bất hợp pháp. Như vậy, chứng
minh trong TTDS, theo nghĩa rộng, là việc các chủ thể chỉ ra tất cả các căn cứ
thực tiễn, các căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập luận làm cơ sở cho tòa án giải
quyết VADS được đúng đắn. Theo nghĩa hẹp, chứng minh trong TTDS thường
được hiểu là hoạt động TTDS bao gồm cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ,
bảo quản chứng cứ, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Hoạt động chứng minh
hướng tới đích cuối cùng là sử dụng chứng cứ để làm rõ sự thật khách quan của
VADS. Đây là cách hiểu thông dụng và phổ biến hơn cả về chứng minh trong
TTDS. Mọi hoạt động chứng minh của các chủ thể đều xoay quanh các chứng
cứ, do đó khi nói đến chứng minh trong TTDS người ta thường chỉ tập trung
quan tâm đến vấn đề chứng cứ, đó là cung cấp, thu thập, bảo quản, nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ. Từ những hoạt động này các tình tiết, sự kiện của VADS sẽ
được làm sáng tỏ. Vì vậy, chứng cứ mang tính chất quyết định trong việc làm rõ
sự thật khách quan của VADS. Song như đã phân tích, tìm ra được sự thật khách
quan của VADS thì chỉ mới là tìm ra được căn cứ thực tiễn của VADS, còn để
giải quyết vụ án, các chủ thể còn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, dù theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng thì chứng minh trong TTDS cũng
đều được hiểu là một hoạt động tố tụng làm sáng tỏ sự thật khách quan của
VADS.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận, chứng minh trong TTDS là
hoạt động tố tụng của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng theo quy định
của pháp luật TTDS làm rõ các tình tiết, sự kiện của VADS trên cơ sở các chứng
cứ, các căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập luận.
1.1.2. Khái niệm thực hiện và đảm bảo thực hiện quyền - nghĩa vụ
chứng minh của đƣơng sự trong TTDS
Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành là để quản lý xã
hội, điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Tuy nhiên để đạt được mục đích này
thì nội dung của các quy phạm pháp luật phải được thực hiện trên thực tế bởi các chủ

thể của xã hội là các tổ chức và các cá nhân. Do đó, điều quan trọng không phải chỉ
là ban hành các quy phạm pháp luật mà còn phải thực hiện các quy phạm pháp luật


13

trong đời sống, làm cho các quy định này trở thành hiện thực. Cũng như vậy, việc ghi
nhận các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong các văn bản pháp luật
TTDS đã là một bước quan trọng nhưng điều quan trọng hơn nữa là nó được trở
thành hiện thực như thế nào, các tổ chức, cá nhân có tôn trọng và tự giác thực hiện
một cách chính xác và đầy đủ các quy định đó không? Từ sự phân tích trên đây có
thể hiểu một cách thông dụng về thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong TTDS là một hay nhiều hành vi của các tổ chức, cá nhân làm cho các
quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong các văn bản TTDS
trở thành hiện thực, tức là nó được thể hiện trong đời sống xã hội.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, hai chữ “thực hiện“ có nghĩa là “1. Làm cho trở
thành cái có thật bằng hoạt động cụ thể; 2. Làm theo trình tự, thao tác nhất định”
[6.tr1615].
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của trường Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2005, thực hiện pháp luật được định nghĩa là “một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [65.tr494]. Về lý
luận, thực hiện pháp luật gồm có bốn hình thức:
Thứ nhất là tuân theo pháp luật: các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến
hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm;
Thứ hai là thi hành pháp luật: các chủ thể pháp luật tiến hành những hoạt động
tích cực mà pháp luật bắt buộc hay nói cách khác là các chủ thể có nghĩa vụ tiến
hành các hoạt động đó;
Thứ ba là sử dụng pháp luật: các chủ thể pháp luật tiến hành những hành động
mà pháp luật cho phép, có thể tiến hành hoặc không tiến hành những hành động này,

nó phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể pháp luật hay nói cách khác đây là quyền của
các chủ thể pháp luật;
Thứ tư là áp dụng pháp luật, đây là hình thức luôn luôn có sự tham gia của
nhà nước. Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định
của pháp luật đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan
hệ pháp luật cụ thể.
Việc thực hiện pháp luật nói chung hay thực hiện các quyền và nghĩa vụ
chứng minh của các đương sự trong TTDS nói riêng là giai đoạn sau khi đã có các


14

văn bản pháp luật và nó là hoạt động hay là các hành vi của các chủ thể pháp luật
trong việc đưa nội dung quy định pháp luật vào trong đời sống, các hoạt động, hành
vi này mang tính mục đích của các chủ thể pháp luật. Ví dụ, đối với các đương sự
thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ tức là bằng hành vi mang chứng cứ
đến giao nộp cho tòa án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của mình, còn đối với tòa án
thực hiện quyền và nghĩa vụ yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ thì bằng hành vi
ra văn bản yêu cầu, tống đạt văn bản yêu cầu của mình đến các đương sự để các
đương sự giao nộp chứng cứ nhằm làm sáng tỏ một tình tiết VADS nào đó phục vụ
cho việc giải quyết VADS được đúng đắn.
Qua khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật nói chung, vận dụng vào
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của các đương sự trong TTDS nói
riêng thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của các đương sự trong
TTDS vừa phụ thuộc vào nội dung của các quy định pháp luật TTDS về quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự, vừa phụ thuộc vào ý chí chủ quan, ý thức tuân
thủ của các chủ thể pháp luật TTDS. Đối với nội dung quy định pháp luật TTDS về
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự nó phụ thuộc ở chỗ quy định pháp luật
đó cho phép hay không cho phép, bắt buộc hay không bắt buộc, cấm hay không cấm

các chủ thể pháp luật TTDS tiến hành các hoạt động. Đối với yếu tố chủ thể pháp
luật TTDS, đây là yếu tố quan trọng, gần như mang tính chất quyết định trong việc
đưa nội dung các quy định pháp luật TTDS đó vào cuộc sống đặc biệt trong hình
thức sử dụng pháp luật, các chủ thể pháp luật có mong muốn tiến hành các hoạt động
được phép, có tự giác chấp hành các hoạt động bắt buộc không hay tự giác không
tiến hành các hoạt động bị cấm, hay khi các tổ chức, cá nhân trong xã hội không
chấp hành các quy định của pháp luật thì nhà nước có phát hiện ra ban hành quyết
định xử lý theo quy định của pháp luật hay không .....
Mặt khác, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong TTDS gồm có hai giai đoạn và trong một số trường hợp đặc biệt sẽ gồm có ba
giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất phải là giai đoạn phát sinh quan hệ TTDS, phải có quan
hệ TTDS thì mới đặt vấn đề đưa các nội dung pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự vào thực tế. Quan hệ này được phát sinh khi bắt đầu có
người khởi kiện VADS, quan hệ TTDS đầu tiên là giữa tòa án với người khởi kiện,
rồi sau khi tòa án thụ lý mới phát sinh quan hệ tố tụng giữa bị đơn, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan với nguyên đơn ... Giai đoạn thứ hai là giai đoạn các chủ


15

thể pháp luật TTDS tiến hành các hoạt động chứng minh của mình. Hai giai đoạn
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn một là tiền đề cho giai đoạn hai và
giai đoạn hai là hệ quả phát sinh tất yếu từ giai đoạn một. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp sẽ phát sinh giai đoạn ba tức là giai đoạn khi các chủ thể TTDS không tự
giác thực hiện nghĩa vụ của mình dẫn tới cơ quan nhà nước phải tiến hành ra quyết
định buộc thực hiện, ví dụ như khi đương sự thực hiện quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước cung cấp chứng cứ liên quan đến VADS nhưng các cơ quan nhà nước không
cung cấp mà không có lý do chính đáng, thì theo yêu cầu của đương sự tòa án ra văn
bản yêu cầu cơ quan nhà nước đó phải cung cấp chứng cứ, khi đó cơ quan nhà nước
đó có nghĩa vụ phải cung cấp, không cung cấp được đầy đủ và kịp thời thì bị xử lý

theo quy định của pháp luật. Như vậy, giai đoạn này không phải trường hợp nào
cũng có, nếu như các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp chứng cứ ngay từ
đầu thì sẽ không có việc tòa án phải ra văn bản yêu cầu cung cấp chứng cứ và đương
nhiên không có việc xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khái niệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự trong TTDS là một hành vi hay một chuỗi hành vi có mục đích của các chủ thể
pháp luật TTDS nhằm đưa các quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong TTDS được áp dụng trên thực tế đời sống xã hội khi phát sinh các
quan hệ TTDS.
Từ khái niệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong TTDS, có thể thấy việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong TTDS không chỉ có ý nghĩa tạo sức sống cho các quy định của pháp
luật TTDS về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà còn là một tấm
gương phản chiếu lại tính phù hợp của các quy định pháp luật TTDS về quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Khi các quy định về quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trong TTDS được thực hiện trên thực tế sẽ bộc lộ ra những điểm
phù hợp và những điểm bấp cập, không phù hợp với đời sống xã hội. Từ đó các chủ
thể có thẩm quyền phát hiện ra dựa vào chính thực tiễn đó và kết hợp với các học
thuyết, lý luận đề xuất, kiến nghị các giải pháp sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ những nội
dung pháp luật không hợp lý, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi....
Với ý nghĩa của hoạt động chứng minh và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong TTDS, vấn đề đặt ra là việc đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS trên thực tế. Nhằm đảm


16

bảo cho các đương sự thực hiện hoạt động chứng minh của mình một cách hợp pháp
và có hiệu quả thì cần phải có những giải pháp đồng bộ. Bên cạnh những quy định
cụ thể về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự được pháp luật ghi nhận cụ

thể, cần có những quy định tạo cơ chế, điều kiện cho các chủ thể pháp luật TTDS
thực hiện, cũng như những chế tài bắt buộc các chủ thể TTDS thực hiện; Vấn đề về ý
thức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định pháp luật của các chủ thể pháp
luật TTDS và những giải pháp khác.... Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ đề
cập đến yếu tố thứ nhất là các nội dung pháp luật. BLTTDS đã có một bước tiến mới
trong chế định chứng minh, tạo cho các đương sự tính chủ động, tích cực trong hoạt
động chứng minh làm sáng tỏ các sự kiện, tình tiết của VADS để bảo vệ quyền, lợi
ích của mình, chứng minh vừa quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự, đồng thời cũng
đã có những quy định tạo cơ chế đảm bảo việc thực hiện đó trên thực tế. Để hệ thống
được các quy định về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự trong TTDS cũng như phát hiện ra những bấp cập, vướng mắc và đề xuất giải
pháp tạo cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong TTDS, trước hết cần phải hiểu về khái niệm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trong TTDS.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin năm
1999,“đảm bảo” được hiểu là “1. Cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì đó; 2. Làm
cho có được điều gì” [6.tr582]. Theo từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm
1998 thì “đảm bảo” nghĩa là “ làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được,
hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [66.tr 36]. Như vậy “đảm bảo” nghĩa là làm cho
một vấn đề nào đó được thực thi trên thực tế. Để làm được cho một vấn đề nào đó có
tính khả thi, đòi hỏi phải có một cơ chế phù hợp với từng vấn đề cần thực hiện. Áp
dụng khái niệm này thì đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự trong TTDS có nghĩa là làm cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh
của đương sự trong TTDS được trở thành hiện thực, các quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trong TTDS được các chủ thể tôn trọng, tự giác thực hiện và có
thể thực hiện được trên thực tế.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm đảm bảo thực hiện quyền
và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam dưới hai khía cạnh.
Thứ nhất là đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong
TTDS Việt Nam từ các quy định của pháp luật TTDS về hoạt động chứng minh của



17

đương sự và pháp luật nội dung liên quan đến VADS. Thứ hai là đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS Việt Nam từ góc độ áp
dụng pháp luật hay là thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngoài ra, việc đảm bảo thực hiện còn bị phụ thuộc và ảnh hưởng bởi các yếu tố xã
hội khác như trình độ hiểu biết và năng lực chứng minh của đương sự, của đội ngũ
luật sư, phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia tố tụng....
Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS
từ các quy định của pháp luật TTDS về hoạt động chứng minh của đương sự và pháp
luật nội dung liên quan đến VADS bao gồm: các quy định trong TTDS về quyền và
nghĩa vụ chứng minh phải rõ ràng, cụ thể khả thi, phù hợp với thực tiễn khách quan,
các quy định tạo cơ chế để đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh
của mình như cơ chế thu thập chứng cứ, cơ chế giao nộp chứng cứ, cơ chế được biết,
được sao chụp các chứng cứ, cơ chế yêu cầu luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự, cơ chế tranh tụng tại phiên tòa,...., các quy định tạo ra sự
khách quan, minh bạch trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS
từ góc độ áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm ý
thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và khả năng năng lực của cán bộ các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết VADS. Nhìn từ góc độ này thì để đảm
bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS, cần phải có
các quy định đảm bảo việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước một cách
khách quan, minh bạch. Các quy định của pháp luật nội dung liên quan đến VADS
như pháp luật về dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình, ... phải rõ ràng, cụ thể để
xác định chứng cứ gì là cần thiết và những vấn đề cần chứng minh, làm rõ những
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Các quy định của pháp luật nội dung càng cụ thể

bao nhiêu thì càng có hiệu quả tốt trong việc áp dụng pháp luật đồng bộ, không có sự
chồng chéo, tránh cách hiểu đa nghĩa khiến cán bộ áp dụng pháp luật lúng túng và
không thống nhất. Bên cạnh đó cần phải có các cơ chế hỗ trợ khác nhằm phục vụ cho
các cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật một cách đúng đắn và hiệu quả như cơ chế
đào tạo nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cho
các cán bộ thực thi pháp luật, ....
Ngoài ra, nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương


18

sự trong TTDS thì cũng cần phải quan tâm đến các yếu tố xã hội, đặc biệt cần phải
nâng cao nhận thức và sự hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và của các
đương sự nói riêng để các đương sự biết được mình có các quyền và nghĩa vụ gì,
nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ luật sư cũng như sự tiếp cận các dịch vụ
pháp lý của người dân ....
Qua sự phân tích trên đây, có thể kết luận: “Đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS là làm cho các chủ thể TTDS theo
quy định của pháp luật TTDS có đủ những điều kiện cần thiết để quyền và nghĩa
vụ chứng minh của đương sự được thực hiện trên thực tế.”
1.2. Ý nghĩa về sự hình thành các quy định đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự trong pháp luật TTDS
Theo quy định của Điều 51, Hiến pháp năm 1992 “Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân.” Do đó, việc pháp luật TTDS Việt Nam
quy định đương sự vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ chứng minh là hoàn toàn phù
hợp với quy định của Hiến pháp. Đồng thời, quy định này của pháp luật TTDS
Việt Nam cũng đảm bảo được đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ hội
nhập quốc tế cần tiếp tục đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong xét
xử, tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thể hiện trong Nghị quyết số

08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bên cạnh đó, quy định quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong
TTDS Việt Nam còn đảm bảo được tính thực tiễn bởi các đương sự là những
người đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc phản đối yêu cầu của
người khác đối với mình, có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến VADS,
vì vậy họ thường chủ động và tích cực tham gia hoạt động chứng minh để chứng
tỏ sự tồn tại quyền lợi của mình, đồng thời các chủ thể này cũng là chủ thể của
các quan hệ dân sự là tiền đề dẫn tới VADS nên họ biết rõ nhất các tình tiết, các
sự kiện liên quan đến vụ án, có điều kiện tốt nhất trong việc xác minh, thu thập
và cung cấp chứng cứ cho tòa án. Do đó, hoạt động chứng minh trong TTDS
trước hết phải là quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Đây là điểm khác biệt căn
bản giữa TTDS và tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng


19

minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng hình
sự. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội.
Sự khác biệt này là hoàn toàn hợp lí, bởi trong TTDS, mối quan hệ cần giải
quyết là quan hệ dân sự giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau, mà bản
chất của các quan hệ dân sự là sự thỏa thuận của các bên, do đó các bên có
quyền tự định đoạt cách thức giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Khác với
TTDS, mối quan hệ cần giải quyết trong tố tụng hình sự là mối quan hệ giữa nhà
nước và kẻ phạm tội, trong đó kẻ phạm tội là kẻ đã có hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội, cho cộng đồng, mà nhà nước là chủ thể có chức năng bảo vệ xã hội
và cộng đồng. Với chức năng đó, nhà nước, thông qua các cơ quan tiến hành tố
tụng của mình, phải có trách nhiệm chứng minh tội phạm để đảm bảo trật tự kỉ
cương xã hội, đảm bảo lợi ích của cộng đồng.

Việc quy định quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong TTDS
Việt Nam còn phù hợp với thực tiễn hiện nay khi trình độ nhận thức, hiểu biết
pháp luật của người dân được nâng cao thì việc trao quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong TTDS Việt Nam là hoàn toàn phù hợp và là tất yếu. Đặc biệt
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng toàn cầu của đất nước ngày
càng đòi hỏi sự đảm bảo tính dân chủ, khách quan trong TTDS Việt Nam cũng
ngày càng cao. Muốn làm được điều đó pháp luật TTDS Việt Nam cần nâng cao
vai trò của đương sự tạo nên sự chủ động, tích cực tham gia hoạt động chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Như vậy, việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong pháp luật TTDS được thực hiện trên thực tế có ý nghĩa rất lớn, đảm bảo cho
các quy định của pháp luật trở thành các quy định “sống”. Việc hình thành và
hoàn thiện các quy định đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của các
đương sự trong TTDS vừa phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong
việc cải cách tư pháp vừa phù hợp với Hiến pháp vừa đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ với các quy định khác của pháp luật. Trên cơ sở đó đảm bảo quyền con
người, quyền cơ bản của công dân là được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Điều 3 của Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước đảm bảo và không
ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của công dân, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh …”, Điều 51 quy định:


20

“Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ
của mình đối với Nhà nước và xã hội”. Trên nguyên tắc chung ấy, Luật Tổ chức
Toà án nhân dân năm 2002 quy định: “Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật…” (Điều 8), “Toà án đảm bảo… quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” (Điều 9)…

Đặc biệt, các VADS phát sinh từ những tranh chấp dân sự, các tranh chấp
dân sự phát sinh từ các quan hệ dân sự. Nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự
là tự do, tự nguyện, bình đẳng. Cụ thể, trong Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định
về nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận:
“Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn
cản bên nào. Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối
với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.” (Điều
4); nguyên tắc bình đẳng: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng,
không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn
cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử
không bình đẳng với nhau.” (Điều 5); Nguyên tắc thiện chí, trung thực: “Trong
quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào.” (Điều 6);
Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự “(1) Tất cả các quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. (2)
Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo
vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
a) Công nhận quyền dân sự của mình; b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; c)
Buộc xin lỗi, cải chính công khai; d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) Buộc
bồi thường thiệt hại” (Điều 9).

Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tại khoản 1 Điều 2 quy định
về nguyên tắc cơ bản của chế độ HNGĐ: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ,
một chồng, vợ chồng bình đẳng.”
Trong Bộ luật Lao động năm 2012, khoản 1 Điều 7 quy định: “Quan hệ
lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động
được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự



21

nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
nhau.”
Trong Luật Thương mại năm 2005, Điều 10 quy định nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại: “Thương
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động
thương mại”. Điều 11 quy định nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt
động thương mại: “(1) Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các
quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ các quyền đó. (2) Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ,
ngăn cản bên nào.”
Từ các quy định của pháp luật nội dung đến các quy định của pháp luật
TTDS có thể thấy, các quy định về đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự được xây dựng trên nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự
là đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự là hoàn toàn phù hợp, tạo sự đồng
bộ với pháp luật nội dung điều chỉnh các quan hệ dân sự.
Điều 5 của BLTTDS quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi
có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”


Với nguyên tắc này, các đương sự có toàn quyền quyết định giới hạn,
quyết định việc thay đổi phạm vi giải quyết VADS, tòa án chỉ giải quyết trong
phạm vi nội dung yêu cầu của đương sự. Từ đó, việc thu thập, cung cấp, nghiên
cứu, phân tích chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của VADS cũng được giới
hạn trong phạm vi yêu cầu, khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có quyền
và nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn
đưa ra yêu cầu phản tố hoặc phản bác đối với yêu cầu của nguyên đơn thì họ có


×