Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Hợp đồng nhượng quyền thương mại ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.32 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BÁCH THẮNG

HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - 2013


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CP:

Chính phủ

EC:

Cộng đồng chung Châu Âu


EEC:

Cộng đồng kinh tế Châu Âu

EU:

Liên minh Châu Âu

FTC:

Ủy ban Thương mại Liên bang

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

IFA:

Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế

KFC:

Gà rán Kentucky

NQTM:

Nhượng quyền Thương mại

SHCN:


Sở hữu công nghiệp

SHTT:

Sở hữu trí tuệ

WTO:

Tổ chức Thương mại thế giới


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ………………………………………………………………

3

Chương 1.
Những vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại và hợp đồng
nhượng quyền thương mại ………………………………………………

8

1.1. Khái quát về nhượng quyền thương mại ………………………….

11

1.1.1. Lịch sử hình thành nhượng quyền thương mại …………………..

11


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của nhượng quyền
thương mại ………………………………………………………………

13

1.1.2.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại ………………………….

13

1.1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại ………………………

17

1.1.2.3. Ý nghĩa của nhượng quyền thương mại ………………………...

19

1.2. Khái quát về hợp đồng nhượng quyền thương mại …………………

23

1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại …………………

23

1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại ……………...

26


1.2.3. Phân loại hợp đồng nhượng quyền thương mại …………………..

30

1.2.4. Phân biệt hợp đồng nhượng quyền thương mại với một số hợp
đồng thương mại khác …………………………………………………...

33

Chương 2.
Thực trạng pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam ……………………………………………………………………...

36

2.1. Các quy định về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại ...

37
1


2.2. Các quy định về hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại ….

42

2.3. Các quy định về nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại

44

2.4. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia nhượng

quyền thương mại ………………………………………………………..

46

2.5. Một số quy định liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại

54

Chương 3.
Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam ………………………………………………….

60

3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam ………………………………….

60

3.1.1. Cần nêu ra khái niệm hoàn chỉnh về nhượng quyền thương mại …

60

3.1.2. Sửa đổi quy định về điều kiện trở thành chủ thể nhượng quyền
thương mại theo hướng đơn giản hơn …………………………………...

61

3.1.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại …………………………...


61

3.1.4. Sửa đổi quy định về thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền
trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại ………………….

62

3.1.5. Hoàn thiện quy định về bản giới thiệu nhượng quyền thương mại

63

3.2. Một số kiến nghị đối với các bên trong quan hệ hợp đồng nhượng
quyền thương mại ………………………………………………………..

64

Kết luận ………………………………………………………………….

67

Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………………

69

2


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh phổ biến trên thế
giới. Hiện nay, phương thức kinh doanh này đã được sử dụng trong hơn 75 ngành
công nghiệp khác nhau, từ dịch vụ mua bán và chăm sóc ô tô đến dịch vụ giải trí,
từ hoạt động kinh doanh nhà hàng đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhượng quyền
thương mại xuất hiện trong mọi lĩnh vực kinh tế. Điều đó có nghĩa lĩnh vực
nhượng quyền thương mại có thể đáp ứng nhiều nhu cầu của người tiêu dùng.
Nhượng quyền thương mại mang đến cơ hội kinh doanh cho nhiều người, nhiều
người có khả năng làm chủ một cơ sở kinh doanh nhưng không phải tự xoay sở
một mình. Hàng ngàn công ty hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại
trên toàn cầu đã tạo ra hàng triệu cơ hội kinh doanh và việc làm. Ở Việt Nam, mặc
dù thị trường nhượng quyền thương mại hiện vẫn còn mới mẻ so với các quốc gia
khác; nhưng, với tình hình chính trị ổn định, và một thị trường tiềm năng hơn 80
triệu dân, hạ tầng dịch vụ ngày càng hoàn thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng
năm đạt trên 7%, số lượng doanh nghiệp tăng đáng kể...thì tiềm năng phát triển của
thị trường này ở Việt Nam là rất lớn. Thị trường này sẽ còn được mở rộng hơn nữa
khi Việt Nam chính thức mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết với WTO vào năm
2014. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, sau khi gia nhập WTO, nhượng
quyền thương mại ở nước ta sẽ có cơ hội phát triển nhanh do sự đầu tư của các
công ty và tập đoàn lớn chuyên về nhượng quyền thương mại. Điều này dự báo sự
phát triển vượt bậc của hình thức kinh doanh mới mẻ này trong thời gian sắp tới ở
Việt Nam. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường bán lẻ cũng đồng nghĩa với việc các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn để tồn tại và phát
triển[45]. Thực tế trên thị trường tài chính trong vài năm gần đây cho thấy, nhiều
thương hiệu Việt có lịch sử phát triển vài chục cho tới cả trăm năm đã bị các đại
gia nước ngoài thâu tóm, khiến nhiều thương hiệu dần mất dạng trên thị trường. Vụ
“đại gia ngoại” Highlands Coffee thâu tóm “thương hiệu Việt” Phở 24 hồi tháng 4
năm 2012 là một ví dụ điển hình. Phở 24 là một thương hiệu rất nổi tiếng của Việt
Nam trong thời kỳ đầu, thế nhưng sau 9 năm phát triển nó đã bị Highlands Coffee
thâu tóm. Vụ việc này diễn ra nhanh chóng tới mức giới kinh doanh gần như chỉ
biết đến giao dịch M&A giữa Highlands Coffee và Phở 24 khi nó kết thúc với việc

100% vốn cổ phần Phở 24 thuộc về Highlands Coffee và giá cho giao dịch nói trên
là hơn 20 triệu USD và đây là một bước trong lộ trình thâu tóm toàn bộ Highlands
3


lẫn Phở 24 của Jollibee - một tập đoàn bán lẻ Philippines. Thông tin chi tiết được
các bên liên quan giữ kín, còn ông chủ Phở 24 Lý Quí Trung thì không hề lên tiếng
[46].
Trước thực trạng phát triển của nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện
nay, việc nghiên cứu thực trạng kinh doanh nhượng quyền thương mại, cũng như
thực trạng pháp luật về nhượng quyền thương mại Việt Nam nhằm hoàn thiện cơ
sở pháp lý cho việc xây dựng các hợp đồng nhượng quyền chặt chẽ, đúng luật, là
một nhu cầu cấp thiết. Hợp đồng nhượng quyền thương mại đóng vai trò chủ chốt
trong quan hệ nhượng quyền thương mại giữa các chủ thể kinh doanh. Hợp đồng là
căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời là căn cứ
quan trọng để giải quyết các tranh chấp giữa các bên (nếu có), đồng thời cũng là cơ
sở để nhà nước tham gia điều chỉnh mối quan hệ phức tạp này. Với những lý do
nêu trên, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề “Hợp đồng nhượng quyền thương mại ở
Việt Nam – Những đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn cao học Luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Đầu tiên có thể kể đến các công trình
nghiên cứu của Vũ Đặng Hải Yến về lĩnh vực nhượng quyền thương mại, đó là:
Pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Hành chính, Hà Nội 2011 ; Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2008 ; Nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Luật học.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 03/2005, tr. 46 – 52; Mối quan hệ giữa hoạt động

nhượng quyền thương mại và các thoả thuận hạn chế cạnh tranh; Tạp chí Luật học.
Trường Đại học luật Hà Nội. Số 2 /2008, tr.58 – 64; Nội dung của hợp đồng
nhượng quyền thương mại; Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội. Số 11
/Năm 2008, Tr 63-69; Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng nhượng
quyền thương mại ; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội, Số
4/2008, tr. 41-45, 62. Có thể nói những nghiên cứu này đã đánh giá một cách hệ
thống và toàn diện những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại, đồng
thời cũng đã chỉ ra được những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện và nâng
4


cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác về vấn đề
nhượng quyền thương mại, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Tác giả
Nguyễn Hồng Hạnh với đề tài khoá luận tốt nghiệp 2007, Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam. Nguyễn Thu Trang
với đề tài khoá luận tốt nghiệp năm 2008 , Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
hợp đồng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Tác giả Hằng Nga với cuốn
sách Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại,
Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh năm 2009. Tác giả Nguyễn Bá Bình với
bài viết Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt
Nam đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp – Văn phòng quốc hội, Số 2/2010.
Tác giả Nguyễn Trần Huyền Trang với đề tài khoá luận tốt nghiệp năm 2011,
Pháp luật điều chỉnh các điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
3. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật về nhượng quyền thương mại được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh trực tiếp các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các thương nhân tiến hành hoạt động
nhượng quyền thương mại, bao gồm: nhóm quy định về hình thức nhượng quyền

thương mại, nhóm quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại, nhóm quy
định liên quan đến sở hữu trí tuệ trong hoạt động nhượng quyền thương mại và
cuối cùng là nhóm quy định liên quan đến cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tác
giả chỉ tập trung làm rõ các đặc điểm cơ bản và các quy định của pháp luật về
hợp đồng nhượng quyền thương mại được quy định trong Luật thương mại
2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ các đặc điểm của nhượng quyền thương mại và hợp đồng
nhượng quyền thương mại, từ đó phân biệt hợp đồng nhượng quyền thương mại
với một số hợp đồng thương mại khác.
Thứ hai, phân tích các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở Việt Nam.
5


Thứ ba, chỉ rõ thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra những kiến nghị thiết thực cho
việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Ngoài ra, luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp so sánh, phương
pháp lịch sử … được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu khái quát về nhượng
quyền thương mại nói chung và hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng
nhằm so sánh hợp đồng nhượng quyền thương mại với các hợp đồng thương mại
khác.
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá

được sử dụng trong chương 2 khi tìm hiểu thực trạng pháp luật về hợp đồng
nhượng quyền thương mại để chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực này.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng ở chương 3
khi xem xét, tìm hiểu phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.
6. Những điểm mới của luận văn
Có thể nói vấn đề pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại được rất
nhiều học giả và chuyên gia pháp lý quan tâm nghiên cứu và đạt được những thành
tựu nhất định. Trên cơ sở kế thừa những bài viết trước đây tác giả đi sâu vào
nghiên cứu về hợp đồng nhượng quyền thương mại, từ đó đưa ra được một số
nghiên cứu mới như: (i) làm rõ các đặc điểm của nhượng quyền thương mại và hợp
đồng nhượng quyền, chỉ rõ sự khác biệt giữa hợp đồng nhượng quyền thương mại
và các loại hợp đồng thương mại khác; (ii) chỉ rõ những điểm đạt được và chưa đạt
được của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại; (iii) đưa ra được
những kiến nghị thiết thực cho việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
7. Kết cấu của luận văn
6


Ngoài Lời nói đầu, Kết, Danh mục tài liệu tham khảo và phần phục lục, luận
văn được kết cấu bởi 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại và hợp đồng
nhượng quyền thương mại;
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở
Việt Nam;
Chương 3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam.


7


CHƢƠNG I.
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
VÀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
Có thể nói nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh có hiệu
quả. Nó không chỉ mang lại lợi ích cho phía nhận quyền và phía nhượng quyền mà
còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Với những lợi ích, hiệu quả
của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã có các chính sách khuyến
khích phát triển nhượng quyền thương mại. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên luật hoá
nhượng quyền thương mại và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh
nghiệp kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. Chính phủ các
nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng ban hành các chính sách
thúc đẩy, phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại, khuyến khích và hỗ trợ
doanh nghiệp trong việc nhượng quyền thương mại ra nước ngoài. Nhiều trung tâm
học thuật, nghiên cứu chính sách về nhượng quyền thương mại của các chính phủ,
tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên ngành về nhượng quyền
thương mại để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác
động của nhượng quyền thương mại đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là
quan trọng và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa. Vì vậy, nhiều chính sách, giải
pháp phát triển kinh tế liên quan đến nhượng quyền thương mại đã được nghiên
cứu, ứng dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt
đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền
(Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển việc
nhượng quyền thương mại ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia láng giềng
của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động
nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn

- nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã
có các chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các
doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường nội địa và quốc tế.
Ở Việt Nam, hoạt động nhượng quyền thương mại bắt nguồn từ trước năm
1975 thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu (gas station) của
Mỹ như Mobil, Exxon (Esso), Shell. Cuối những năm 1980, đầu những năm 1990
8


khi các công ty nước ngoài đã cho phép công ty trong nước tiêu thụ các sản phẩm
của họ kèm với sự hỗ trợ về kỹ thuật, kinh nghiệm, vốn và thương hiệu…Có thể kể
đến như các thương hiệu: rượu Bordeaux của Pháp, điện thoại di động Sony
Ericsson của Nhật Bản, các hãng mỹ phẩm như: Essance, Chanel…Các hãng ôtô
như Toyota, Mitsubishi… sau đó, vào những năm từ 1996, bắt đầu với sự tham gia
của các tên tuổi quốc tế, trong ngành chế biến thức ăn nhanh và giải khát như Five
Star Chicken, Texas Chicken, Carvel, Baskin Robbins (Mỹ), Jollibee (Philippines),
Burger Khan (Hàn Quốc). Như vậy, có thể thấy hoạt động nhượng quyền thương
mại đã xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm. Tuy nhiên, hình thức nhượng quyền lúc
này chưa tạo sự chú ý, đều là nhượng quyền phân phối sản phẩm và chỉ bó hẹp
trong một số lĩnh vực như thực phẩm, ôtô, mỹ phẩm...
Hiện nay, có hơn 75 mạng lưới nhượng quyền thương mại hoạt động tại Việt
Nam – với 39 nhà nhượng quyền thương mại đến từ các nước với hàng loạt các
thương hiệu nổi tiếng nước ngoài đã đến Việt Nam như Baskin Robbins, Coffee
bean & Tea leaf, Gloria Coffee, Domion’s Pizza, Subway, The Body shop, Burger
King…Trong lĩnh vực bán lẻ cũng rất sôi động với những nhãn hiệu Gap, Circlek,
Family Mark, Ministop, LV…Theo thống kê hiện nay có hơn 120 doanh nghiệp
trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại, ấn tượng nhất vẫn là sự xuất hiện và
phát triển của các doanh nghiệp trong nước như Trung Nguyên, Wrap & Roll, Cơm
Tấm Mộc, VietMac [8]. Theo Hiệp hội Nhượng quyền thương mại và Trung tâm
Kinh doanh của Hàn Quốc trong năm 2010 lĩnh vực nhượng quyền thương mại

Việt Nam sẽ kiếm được 36 triệu USD doanh thu, số lượng cửa hàng nhượng quyền
trong nước cũng tăng 50% (trong năm 2008 chỉ có 890 cửa hàng) [40]. Không chỉ
phát triển về số lượng, nhượng quyền thương mại ở Việt Nam còn mở rộng ra
nhiều ngành nghề khác nhau, nếu thống kê theo ngành nghề, các hệ thống nhượng
quyền thương mại của Việt Nam hiện nay hoạt động trong các ngành nghề như:
 Ngành thực phẩm, đồ uống và nhà hàng
Đây là ngành nghề có hoạt động nhượng quyền thương mại sôi động nhất
hiện nay, với rất nhiều tập đoàn thức ăn nhanh nổi tiếng nước ngoài đã có mặt tại
Việt Nam. Có thể điểm qua là thương hiệu Lotteria thuộc Tập Đoàn Lotteria của
Hàn Quốc, KFC, Pizza Hut thuộc tập đoàn Yum! của Mỹ. Và gần đây nhất là
Subway - thương hiệu thức ăn nhanh lớn thứ 2 thế giới sau McDonald’s (Mỹ), đã
chính thức vào Việt Nam (2/2011), hợp tác với hãng nước giải khát Mỹ PepsiCo
9


mở nhà hàng đầu tiên tại “khu phố Tây” trên đường Phạm Ngũ Lão, quận 1
(TP.HCM) [38]. Sắp tới sẽ là các tập đoàn đã chuẩn bị tư thế để vào như người
khổng lồ McDonald’s cũng là một tập đoàn thức ăn nhanh của Mỹ, tập đoàn Psta
Fresca Da Salvatore giới thiệu kinh doanh thực phẩm truyền thống Ý. Ngoài ra,
các nhà kinh doanh thực phẩm nhanh của Singapore như Bread Talk, Cavana,
Koufu... cũng đang ngấp nghé tìm hiểu thị trường Việt Nam để đầu tư.
 Ngành bán lẻ
Chỉ trong vòng 5 năm trở lại đây, hàng loạt các đại siêu thị đã được các nhà
phân phối nước ngoài đã xây dựng ở Việt Nam. Đầu tiên là Metro Cash & Carry,
hiện nay, Metro Cash & Carry - nhà phân phối lớn thứ 5 thế giới, là một trong hai
tập đoàn phân phối có mặt đầu tiên tại Việt Nam - mới đây đã đưa 2 trung tâm
phân phối tại Hải Phòng và Đà Nẵng đi vào hoạt động, nâng tổng số trung tâm
phân phối của tập đoàn này tại Việt Nam lên con số 7; Big C sau khi khai trương
siêu thị ở Hà Nội cũng đang tiếp tục kế hoạch đầu tư 120 triệu USD để mở các siêu
thị tại Cần Thơ, Đà Nẵng cũng như mở thêm nhiều siêu thị tại Hà Nội và TP.Hồ

Chí Minh; tập đoàn Parkson dự định xây dựng 10 trung tâm mua sắm tại Việt
Nam. Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, hiện nay một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế
giới đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, trong đó có
tập đoàn bán lẻ đứng hàng "top" của thế giới với doanh số gần 40 tỷ USD là Tesco
(Anh). Ngoài ra, hai nhà bán lẻ vào loại nhất nhì thế giới là WalMart và Carrefoul
cũng đang có dự định đầu tư vào Việt Nam [37].
 Ngành hàng tiêu dùng
Ngành hàng tiêu dùng cũng sôi động không kém với sự thử nghiệm các mô
hình nhượng quyền thương hiệu (brand franchise hay trademark license) của đồng
hồ Swatch (Thụy Sĩ), mỹ phẩm Clinique, thời trang Pierre Cardin (Pháp), các biểu
tượng hoạt hình Walt Disney, thời trang Manhattan, nước giải khát Orangina (Mỹ),
chuỗi cửa hàng ảnh Mini Lab của Fuji (Nhật), hệ thống cửa hàng mực in Cartridge
(Úc), thiết bị chăm sóc sức khỏe OSIM (Singapore)… [34].
 Các ngành khác
Ngoài các ngành và các tập đoàn nổi bậc đã nêu trên, trong những năm tới,
theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thì hoạt động nhượng quyền của Việt Nam
sẽ không chỉ bó gọn trong các ngành như thực phẩm, bán lẻ, thời trang…nữa mà sẽ
10


mở rộng ra cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác như lĩnh vực xây dựng và trang
trí nội thất (như Da Vinci Group của Mỹ giới thiệu nhãn hiệu kinh doanh đồ nội
thất, đồ trang sức và thời trang…) hay ngành giáo dục (ILA của Mỹ với hệ thống
các trường day tiếng Anh, Tập đoàn giáo dục Crestra của Đức giới thiệu franchise
hệ thống trường mẫu giáo), ngoài ra lĩnh vực spa, bất động sản…sẽ phát triển bằng
hình thức nhượng quyền trong thời gian tới.
Như vậy có thể thấy rằng kể từ khi có mặt ở Việt Nam tới nay nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, trên tất cả lĩnh vực ngành
nghề.
1.1. Khái quát về nhƣợng quyền thƣơng mại

1.1.1. Lịch sử hình thành Nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại (Franchising) được coi là cách thức tổ chức kinh
doanh đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực phân phối hàng hóa và dịch
vụ trong hầu khắp các ngành nghề và làm thay đổi tình hình kinh tế của hầu hết
quốc gia có sự hiện diện của cách thức phân phối này. “Ngày nay phương thức
nhượng quyền thương mại được sử dụng trong hơn 75 ngành công nghiệp khác
nhau, từ dịch vụ mua bán và chăm sóc ô tô đến dịch vụ giải trí, từ hoạt động kinh
doanh nhà hàng đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhượng quyền thương mại đã
xuất hiện trong mọi lĩnh vực kinh tế và có thể đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu
dùng, và điều đó cũng có nghĩa rằng nhượng quyền thương mại mang đến cơ hội
kinh doanh cho tất cả mọi người, cơ hội mọi người có thể làm chủ một cơ sở kinh
doanh nhưng không phải tự xoay sở một mình. Hàng ngàn công ty hoạt động trong
lĩnh vực nhượng quyền thương mại trên toàn cầu đã tạo ra hàng triệu cơ hội kinh
doanh và việc làm. Nhượng quyền kinh doanh có một lịch sử và sự phát triển
không ngừng đầy thú vị” (Theo Matthew R.Shay - Tổng Giám Đốc Hiệp hội
Nhượng quyền Quốc tế).
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của kinh doanh nhượng
quyền thương mại đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên,
hoạt động nhượng quyền thương mại được chính thức thừa nhận tại Hoa Kỳ vào
giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng
nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác của mình. Vào những năm 1850
Công ty Singer đã sản xuất máy khâu nhưng không có đủ vốn để chi trả lương cho
các nhân viên kinh doanh. Để khắc phục, họ đã tạo ra một hệ thống các đại lý. Các
11


chủ nhân nhận nhượng quyền thương mại đầu tiên đã trả Singer một khoản phí để
làm việc trong một khu vực nhất định và kiếm tiền đối với mỗi lần bán một máy
khâu mà họ mua từ công ty và sau đó được bán lại. Ý nghĩa đặc biệt ban đầu của
nhượng quyền thương mại và các cơ hội kinh doanh mà nó tạo ra từ các hợp đồng

cho đến ngày nay vẫn được sử dụng giữa chủ doanh nghiệp ban đầu và chủ doanh
nghiệp mới. Nhiều người thấy rằng loại hợp đồng này đã thực sự khuấy động
phương thức nhượng quyền thương mại trong tương lai vì nó cho phép các chủ
doanh nghiệp duy trì một số cách thức điều hành, kiểm soát các bên nhận nhượng
quyền. Ngoài việc phân phối máy khâu ra ngoài khu vực địa lý của mình, Singer
cũng cung cấp các khóa đào tạo cho khách hàng và bắt đầu bán giấy phép bản
quyền cho các doanh nhân tại nhiều nơi khác nhau trong nước.
Ra đời từ những năm 1850, tuy nhiên Franchise chỉ thực sự phát triển mạnh,
bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc), với sự
ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và các hệ thống kinh doanh,
phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục
vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương thức
này. Một số hệ thống nhượng quyền thương mại nổi tiếng xuất hiện trong thời kỳ
này là thương hiệu gà rán KFC vào năm 1930, bánh hamburger Burger Kinh vào
năm 1954 và chuỗi cửa hàng ăn nhanh McDonald’s vào năm 1955. Từ những năm
60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công không chỉ
tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp... Sự lớn mạnh
của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu trong
lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn-nhà hàng đã góp phần “truyền bá”
và phát triển franchise trên khắp thế giới. Ngày nay, nhượng quyền thương mại có
mặt ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và phát triển rộng khắp trên phạm vi
toàn cầu. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có một hệ thống nhượng
quyền mới ra đời. Theo một kết quả nghiên cứu, gần 90% công ty kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 7 năm, trong khi chỉ
còn lại khoảng 20% công ty độc lập còn tồn tại. Điều này đồng nghĩa với việc 80%
công ty độc lập phải đóng cửa sau 7 năm ra đời[44]. Điều đó cho thấy sự bùng nổ
hình thức này trên thế giới là điều tất yếu. Có thể kể đến một vài con số ấn tượng
về sự phát triển của nhượng quyền thương mại trên thế giới như: Ở Châu Âu, tổng
cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với 167.500 cửa hàng
nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro, tạo ra hơn 1.5 triệu

12


việc làm. Riêng ở Anh, nhượng quyền thương mại là một trong những hoạt động
tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 doanh nghiệp nhượng
quyền, doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh, thu hút một lượng lao động khoảng
317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ. Tại Úc, tổng cửa hàng
nhượng quyền thương mại khoảng 54.000, đóng góp 12% vào GDP và tạo hàng
trăm ngàn việc làm cho người lao động. Theo Hiệp hội Nhượng quyền Quốc tế
(IFA) thì nhượng quyền kinh doanh ở châu Á đã tạo doanh thu hơn 500 tỷ USD
mỗi năm. Một số nước có hệ thống nhượng quyền đóng góp vai trò quan trọng
trong sự phát triển của mình như: Tại Thái Lan, số hợp đồng nhượng quyền đang
tăng rất nhanh, trong đó có tới 67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với
số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng 20.000-65.000 USD [30].
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của nhượng quyền thương
mại
1.1.2.1 Khái niệm nhƣợng quyền thƣơng mại
Đối với Việt Nam, hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại được du
nhập từ những năm 1990. Nhiều thương hiệu nổi tiếng toàn cầu chuyên về thức ăn
nhanh và đồ uống như McDonald's, Kentucky Fried Chicken (KFC), Qualitea,
Dilmah... đã nhanh chóng thâm nhập thị trường Việt Nam trong những năm qua,
nay đã quen thuộc với người tiêu dùng. Theo những thông tin được đưa ra tại hội
thảo “Nhượng quyền thương mại-Xu hướng phát triển mới, cơ hội và tiềm năng”
do Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu phía Nam-Cục xúc tiến thương mại (Bộ Công
Thương) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11/5/2012 thì hiện nay tại Việt
Nam có khoảng 200 hệ thống đang hoạt động. Điều này cho thấy sự phát triển
mạnh mẽ của loại hình kinh doanh này ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhượng quyền
thương mại vẫn được xem như một thuật ngữ khá mới mẻ trong khoa học pháp lý
Việt Nam. Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra
khái niệm đầy đủ về nhượng quyền thương mại, và thậm chí trên thế giới hiện nay

vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nhượng quyền thương mại. Có thể kể
đến một số định nghĩa sau:
Theo Hiệp hội Nhượng quyền Thương mại Quốc tế (IFA) hiệp hội lớn nhất
nước Mỹ và thế giới đã định nghĩa nhượng quyền thương mại như sau:“nhượng
quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng giữa bên nhượng quyền với bên
nhận quyền, theo đó bên nhượng quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên
13


tục tới doanh nghiệp của bên nhận quyền trên các khía cạnh như: bí quyết kinh
doanh, đào tạo nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa,
phương thức, phương pháp kinh doanh do bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm
soát; và bên nhận quyền đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh
nghiệp bằng nguồn lực của mình”[33]. Theo định nghĩa này, vai trò của bên nhận
quyền kinh doanh trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt
nhấn mạnh so với trách nhiệm của bên giao quyền.
Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC) lại định nghĩa hợp đồng
nhượng quyền kinh doanh là hợp đồng theo đó Bên giao: (i) hỗ trợ đáng kể cho
Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương
pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận. (ii) li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận
để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và (iii)
yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu [43]. Như vậy,
khác với định nghĩa của IFA, định nghĩa của FTC nhấn mạnh tới việc Bên giao
quyền kinh doanh hỗ trợ và kiểm soát Bên nhận trong hoạt động nhượng quyền
thương mại.
Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU) lại định nghĩa
nhượng quyền kinh doanh theo hướng nhấn mạnh tới quyền của Bên nhận, khi sử
dụng một tập hợp quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù ghi nhận vai trò của thương hiệu và
hệ thống, bí quyết kinh doanh của Bên giao quyền, định nghĩa này không đề cập
tới những đặc điểm khác của việc nhượng quyền kinh doanh. EC định nghĩa quyền

kinh doanh là một "tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên
quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để
bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng" [43]. Nhượng
quyền kinh doanh có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được định
nghĩa ở trên.
Luật Sở hữu Công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
"Nhượng quyền kinh doanh tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một
thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ
thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ
đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động
thương mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập,
14


với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch
vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó"[43]. Định nghĩa này phản ánh một
phần quan điểm của Mêhicô là một nước đang phát triển có nhu cầu rất lớn trong
việc nhập khẩu công nghệ và bí quyết kinh doanh từ nước ngoài.
Chương 54, Bộ luật Dân sự của liên bang Nga định nghĩa bản chất pháp lý
của "sự nhượng quyền thương mại" như sau: "Theo Hợp đồng nhượng quyền
thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một
khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong
các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của
bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với
bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng
khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.." [43]. Định nghĩa này tương
tự như định nghĩa của EU đều nhấn mạnh tới việc Bên giao chuyển giao một số
quyền sở hữu trí tuệ độc quyền cho Bên nhận để đổi lấy những khoản phí nhất
định, mà không đề cập đến vai trò, nghĩa vụ của bên nhận.

Ở Việt Nam, Điều 284, Luật Thương mại (2005) đã đưa ra khái niệm về hoạt
động nhượng quyền thương mại: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương
mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền được quyền
tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau
đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh”
Với khái niệm này, pháp luật thương mại của Việt Nam khẳng định hoạt động
nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, vì vậy, hoạt động này phải do
thương nhân thực hiện và có mục đích kinh doanh. Ngoài ra, khái niệm này cũng chỉ rõ
tính chất ràng buộc qua lại giữa các bên có liên quan, nhất là khẳng định sự giám sát
của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền thương mại.
Như vậy, dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước lại có
những định nghĩa khác nhau về nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, dựa trên
15


những điểm chung trong tất cả các hoạt động này có thể đưa ra định nghĩa chung
nhất về nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền thương mại là một
quan hệ pháp luật được thiết lập trên cơ sở hợp đồng giữa các bên, trong đó, bên
nhượng quyền thương mại cho phép bên nhận quyền thương mại sử dụng một “gói”
các quyền thương mại của mình mà chủ yếu là các quyền liên quan đến đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành kinh doanh với một tư cách pháp lý độc lập. Đổi lại,
bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền thương mại, phí
này có thể bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí nhượng quyền định kỳ trả dựa
trên doanh thu hàng tháng, hàng năm của bên nhận quyền thương mại. Ngoài ra, bên

nhượng quyền thương mại có thể ràng buộc bên nhận quyền thương mại bởi các thoả
thuận nhằm duy trì tính hệ thống hoặc để kiểm soát hoạt động của bên nhận quyền
thương mại trên cơ sở có hỗ trợ về mặt kỹ thuật và đào tạo nhân lực cũng như một số
cơ sở vật chất cần thiết cho bên nhận quyền thương mại.
Có thể nói, cho dù nhượng quyền thương mại được nhìn nhận dưới nhiều góc
độ khác nhau, ở những nơi khác nhau, hoạt động này được gọi bằng những cái tên
không giống nhau, nhưng nhượng quyền thương mại luôn được xác định với
những đặc trưng cơ bản trong các vấn đề nổi bật sau đây:
Một là, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, tính chất độc lập của các bên
nhượng quyền và nhận quyền được thể hiện rõ nét. Mặc dù, có sự hỗ trợ và kiểm
soát qua lại giữa các bên, nhưng tư cách pháp lý và trách nhiệm tài chính của các
bên luôn độc lập với nhau. Theo đó, bên nhượng quyền đồng ý trao cho bên nhận
quyền quyền khai thác các nội dung chủ yếu của “quyền thương mại” và thực hiện
quyền kiểm soát đối với bên nhận quyền. Bên nhận quyền trả phí nhượng quyền cho
bên nhượng quyền và tuân thủ những quy định cũng như chịu sự giám sát của bên
này.
Hai là, sự thống nhất, đồng bộ về mặt hình thức biểu hiện đối với cách thức
tiến hành hoạt động thương mại của bên nhượng quyền và bên nhận quyền, hay
rộng hơn, trong cả hệ thống nhượng quyền là đặc điểm không thể thiếu ở quan hệ
nhượng quyền thương mại. Sự thống nhất này có được và được quy định bởi tính
chất đặc biệt của quan hệ nhượng quyền thương mại. Xuất phát từ việc cùng nhau
sử dụng những nội dung của “quyền thương mại”, các chủ thể cùng hệ thống
nhượng quyền thương mại sẽ được hưởng, đồng thời cùng chịu rủi ro từ tính thống
nhất đặc trưng này của quan hệ nhượng quyền thương mại.
16


Ba là, hoạt động nhượng quyền thương mại chính là sự kết hợp của nhiều
hoạt động thương mại khác nhau như: li-xăng, chuyển giao công nghệ; đại
lý..v..v. Những hoạt động thương mại này có thể được các thương nhân thực

hiện độc lập, tuy nhiên, trong hoạt động nhượng quyền thương mại, không thể
tìm thấy sự độc lập này. Vì vậy, có thể coi hợp đồng nhượng quyền thương
mại là một tập hợp các hợp đồng không thể tách rời, thể hiện tính chất của các
loại hợp đồng li-xăng, chuyển giao công nghệ và đại lý. Đây chính là điểm đặc
biệt của hoạt động nhượng quyền thương mại trong tương quan so sánh với các
loại hợp đồng thương mại cùng loại khác.
Có thể nói, nhượng quyền thương mại, với những đặc điểm của mình đã
khẳng định được tính chất độc lập khi được đặt cạnh những hoạt động thương mại
khác. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, với ít nhất hai đặc điểm tưởng như mâu
thuẫn: Tính độc lập và tính đồng bộ, nhượng quyền thương mại chính là một hoạt
động thương mại có rất nhiều khía cạnh pháp lý đáng phải nghiên cứu và làm sáng
tỏ.
1.1.2.2 Đặc điểm của nhƣợng quyền thƣơng mại
Dựa vào bản chất đã được phân tích qua khái niệm nêu trên, hoạt động
nhượng quyền thương mại mang những đặc điểm đặc trưng, thông qua đó có thể
phân biệt dễ dàng hoạt động này với một số hoạt động thương mại cùng loại khác
như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, bên nhận quyền và bên nhượng quyền trong quan hệ
nhượng quyền thương mại phải có tư cách thương nhân. Sở dĩ có đặc điểm này là
do, để đáp ứng điều kiện thực tế nhằm làm cho việc nhượng quyền có tính khả thi,
bên nhượng quyền bắt buộc phải có một hệ thống, cơ sở kinh doanh có lợi thế cạnh
tranh trên thị trường. Hệ thống kinh doanh này phải có sự trải nghiệm thị trường đủ
để tạo ra một giá trị “quyền thương mại” hợp lý và tạo niềm tin cho bên nhận
quyền. Mặt khác, dưới góc độ pháp luật, để đáp ứng yêu cầu của pháp luật, bên
nhận quyền là một doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý, tài chính và đầu tư, đồng
thời chấp nhận rủi ro đối với vốn bỏ ra để thực hiện việc tham gia vào hệ thống
nhượng quyền của bên nhượng quyền. Mặt khác, nhượng quyền thương mại là một
hoạt động đặc trưng của thương mại, vì vậy, hầu như hoạt động này chỉ dành riêng
cho các thương nhân.
Thứ hai, hoạt động nhượng quyền thương mại có hình thức thể hiện đa dạng.

17


Hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm rất nhiều loại, phân biệt với nhau
dựa theo một số tiêu chí cụ thể sau đây: Theo tiêu chí nội dung của hoạt động kinh
doanh, có thể có nhượng quyền sản xuất (processing- franchise), nhượng quyền
phân phối (distribution - franchise) và nhượng quyền thực hiện dịch vụ (service franchise); theo tiêu chí hình thức hoạt động kinh doanh, có thể có nhượng quyền
sơ cấp (master franchise), nhượng quyền đa cơ sở (multi-franchise), nhượng quyền
liên kết (pluri-franchise) và nhượng quyền góc (corner- franchise); theo tiêu chí
lãnh thổ, có thể có nhượng quyền nội địa và nhượng quyền quốc tế. Tính chất đa
dạng của nhượng quyền thương mại phát triển tỷ lệ thuận với những lợi ích mà
nhượng quyền thương mại đem lại cho các bên trong quan hệ cũng như cho nền
kinh tế - xã hội.
Thứ ba, về nội dung của khái niệm “quyền thương mại” - đối tượng của
hoạt động nhượng quyền thương mại, cũng phát triển rất phong phú, bao gồm:
hàng tiêu dùng; công việc kinh doanh; dịch vụ; dịch vụ chuyên môn; dịch vụ đặc
biệt (thuộc Chính phủ); các phương thức kinh doanh. “Quyền thương mại” trong
hoạt động nhượng quyền thương mại là một khái niệm mở, cho phép các chủ thể
của quan hệ nhượng quyền cụ thể hoá từng nội dung bao gồm trong đó. “Quyền
thương mại” có thể chỉ đơn giản là bí quyết kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu
hàng hoá, công nghệ sản xuất nhất định hoặc là tổng hợp tất cả những quyền đối
với hầu hết các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ để bên nhận quyền có thể sử
dụng để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ giống với những sản phẩm hoặc dịch vụ
mà bên nhượng quyền tạo ra. Sự phức tạp của nội dung khái niệm “quyền thương
mại” làm cho hoạt động nhượng quyền thương mại khác biệt so với các hoạt động
thương mại khác có liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Trong một bối cảnh chung
là chưa có bất cứ một khái niệm chính thức nào định nghĩa rõ ràng về “quyền
thương mại” thì nội dung của “quyền thương mại” sẽ phụ thuộc vào sự giải thích
của các bên trong từng quan hệ nhượng quyền thương mại cụ thể. Tuy nhiên, tính
chất “tổng hợp”, “kết hợp” giữa các quyền đối với các đối tượng của sở hữu trí tuệ

là yếu tố không thể thiếu của “quyền thương mại”, giúp cho hoạt động nhượng
quyền thương mại có thể được phân biệt một cách tương đối trong tương quan so
sánh với những quan hệ thương mại tương tự khác. Tóm lại, đối tượng của quan hệ
nhượng quyền thương mại là một chỉnh thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố kết
hợp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với tên thương mại hoặc nhãn
hiệu hàng hoá, dịch vụ thuộc sở hữu của thương nhân nhượng quyền.
18


Thứ tư, tính đồng bộ và tính hệ thống là đặc trưng không thể thiếu của quan
hệ nhượng quyền thương mại. Mục đích chính của bên nhượng quyền, khi chấp
nhận nhượng lại “quyền thương mại” của mình cho người khác, sau đó tiếp tục
cùng kinh doanh với “quyền thương mại” ấy là để mở rộng hệ thống sản xuất, phân
phối hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ. Sở dĩ, có thể gọi đó là hệ thống, bởi vì hầu
hết các cơ sở nhượng quyền - dù ở vị trí địa lý nào - đều phải đạt tiêu chuẩn theo
một mô hình đã được thiết kế trước với ý tưởng của bên nhượng quyền. Sự giống
nhau trong chất lượng và hình thức của hàng hoá, dịch vụ, cách thức phục vụ của
nhân viên khi cung ứng các sản phẩm trên thị trường tạo nên tính hệ thống của
quan hệ nhượng quyền thương mại. Bằng cách này hay cách khác, những đặc trưng
cơ bản nhất của hàng hoá, dịch vụ và cách thức cung ứng của bên nhượng quyền
phải được bên nhận quyền lặp lại. Mọi sự phát triển và sáng tạo không xuất phát từ
ý chí của bên nhượng quyền hoặc không có sự cho phép của bên nhượng quyền sẽ
phá hỏng tính hệ thống của mạng lưới cung ứng sản phẩm được tạo ra từ quan hệ
nhượng quyền thương mại. Hậu quả, mục đích chính của quan hệ nhượng quyền
thương mại là hướng tới sự đồng bộ và phát triển hệ thống nhượng quyền sẽ không
được thoả mãn, trong khi từng bên chủ thể riêng lẻ trong quan hệ nhượng quyền
thương mại vẫn có thể thu về lợi nhuận. Vì vậy, tính đồng bộ, hệ thống chính là
đặc trưng cơ bản và quan trọng trong quan hệ nhượng quyền thương mại và đây
chính là một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà các bên, nhất là bên nhượng
quyền hướng tới trong khi thiết lập các quan hệ nhượng quyền thương mại với các

bên nhận quyền thương mại.
Như vậy, nhượng quyền thương mại mang bốn đặc trưng cơ bản, đó là (i) Chủ
thể thực hiện nhượng quyền thương mại là thương nhân; (ii) hoạt động nhượng
quyền thương mại có hình thức thể hiện đa dạng; (iii) nội dung của khái niệm
“quyền thương mại” phong phú; (iv) quan hệ nhượng quyền thương mại mang
tính đồng bộ và tính hệ thống.
1.1.2.3 Ý nghĩa của nhƣợng quyền thƣơng mại
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh phổ biến trong kinh
doanh trên thế giới, nhiều thương hiệu nổi tiếng đã dùng phương cách này để mở
rộng thị phần cũng như quảng bá tên tuổi của mình một cách rộng rãi. Những
nghiên cứu gần đây nhất đã cho thấy 90% công ty theo hợp đồng thương hiệu tại
Hoa Kỳ tiếp tục hoạt động sau 10 năm, trong khi 82% công ty độc lập phải đóng
19


cửa và cũng chỉ có 5% công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu
tiên so với 38% công ty độc lập [41]. Ở Việt Nam, mặc dù nhượng quyền thương
mại mới chỉ du nhập vào khoảng 15 năm qua, nhưng một số doanh nghiệp đã biết
sử dụng phương thức kinh doanh hiệu quả này và gặt hái được những thành công
lớn. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Nhượng quyền thương mại đã được nhiều
doanh nghiệp Việt Nam đưa vào kế hoạch phát triển lâu dài. Có thể nhận thấy, hoạt
động nhượng quyền thương mại với những bước phát triển của nó, có những tác
động không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó
phải kể đến tác động của hoạt động này đối với các bên trực tiếp tham gia quan hệ
cũng như vai trò của nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế - xã hội với
những đặc điểm khá đặc thù của Việt Nam.
 Ý nghĩa của nhƣợng quyền thƣơng mại đối với bên nhận quyền
Khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền thương mại bên nhận quyền có được
rất nhiều ưu thế hơn so với phương thức kinh doanh thông thường, có thể kể đến
“bốn cái lợi” của bên nhận quyền khi nhận quyền thương mại như sau:

Thứ nhất, là giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Nếu như việc mở cửa hàng,
cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao, do người quản lý là
những người mới bước vào nghề, không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời
gian cho việc tìm hiểu các đặc trưng riêng của từng loại hình kinh doanh, thì trong
quan hệ nhượng quyền thương mại, khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên
nhận quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí
quyết thành công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã
tích luỹ được từ những lần trải nghiệm trên thị trường. Bên nhận quyền không phải
trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu. Bên nhượng quyền sẽ hướng dẫn
bên nhận quyền các nguyên tắc chung. Như vậy, rõ ràng nhượng quyền thương mại
giúp cho bên nhận quyền có thể giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải trong giai
đoạn đầu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, bên nhận quyền được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền.
Ngày nay, trên thị trường có hàng ngàn sản phẩm và dịch vụ có cùng giá trị sử
dụng nhưng được cung cấp bởi các nhà sản xuất khác nhau. Do đó, việc cố gắng
tạo dựng một thương hiệu nổi tiếng, được khách hàng tin cậy và nhớ đến là vấn đề
sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trong khi đó, với phương thức nhượng quyền
20


thương mại bên nhận quyền có quyền sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền
mà không mất nhiều thời gian để xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình.
Thứ ba, tận dụng các nguồn lực. Trong quan hệ nhượng quyền thương mại,
bên nhận quyền chỉ tập trung vào việc điều hành hoạt động kinh doanh. Việc xây
dựng chiến lược tiếp thị, qui trình vận hành, chiến lược kinh doanh sẽ do bên
nhượng quyền đảm trách và chuyển giao. Do đó, bên nhận quyền có thể chuyên
tâm điều hành hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Thứ tƣ, bên nhận quyền được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi: bên
nhượng quyền luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu
cho bên bên nhận quyền. Do đó, bên nhận quyền được mua sản phẩm hoặc nguyên

liệu với khối lượng lớn theo một tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá của các sản
phẩm, nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn. Nếu
trên thị trường có những biến động lớn như khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng
quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận quyền trước. Điều này giúp cho bên nhận
quyền ổn định đầu vào, tránh được những tổn thất từ biến động thị trường.
 Ý nghĩa của nhƣợng quyền thƣơng mại đối với bên nhƣợng quyền
Nếu như nhượng quyền thương mại mang lại “bốn cái lợi” cho bên nhận
quyền thì đối với bên nhượng quyền, nhượng quyền thương mại cũng có ý nghĩa
rất quan trọng. Lợi ích đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh
NQTM là nhân rộng mô hình kinh doanh mà không cần bỏ ra nhiều chi phí. Đây là
điều mà bất kì thương nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ mô hình kinh doanh được
nhân rộng đồng nghĩa với thương hiệu của mình sẽ mạnh lên, có chỗ đứng trên thị
trường và tăng khả năng cạnh tranh với các thương hiệu khác. Đối với một thương
nhân không kinh doanh theo mô hình NQTM thì điều này rất khó khăn bởi chủ
thương hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản chi phí để xây dựng hệ thống cửa hàng của
mình, phải tìm hiểu phong tục tập quán địa phương nơi mình định đặt cửa hàng để
có hướng kinh doanh phù hợp, phải tổ chức quản lí một cách đồng bộ hệ thống
kinh doanh. Nhưng với những thương nhân kinh doanh NQTM thì những vấn đề
trên không còn là trở ngại. Đây chính là lợi ích lớn nhất mà bên nhượng quyền
nhận được khi kinh doanh theo phương thức NQTM.
Khi thực hiện NQTM, bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ bên
nhận quyền. Các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí hàng
tháng và các loại phí khác. Đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên nhượng
21


quyền, thương hiệu càng mạnh thì các khoản phí này càng cao. Như vậy, ngoài
doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình, bên nhượng quyền còn được hưởng
một khoản tiền lớn mà chỉ khi kinh doanh NQTM mới có, hay nói cách khác kinh
doanh NQTM giúp bên nhượng quyền tăng doanh thu của mình một cách đáng kể.

Lợi ích tiếp theo mà bên nhượng quyền nhận được chính là việc tiết giảm các
chi phí như phí quảng cáo, tiếp thị, các khoản chi mua nguyên liệu đặc thù. Đối với
các nguyên liệu đặc thù, bên nhận quyền phải mua với số lượng lớn để phân phối
cho cả hệ thống cửa hàng nhượng quyền của mình. Khi mua với số lượng lớn, bên
nhượng quyền sẽ mua được nguyên liệu với giá thấp hơn so với giá thông thường
của hàng hóa đó. Các chi phí về quảng cáo, tiếp thị cũng được tiết giảm nhờ ưu thế
chia nhỏ ra cho nhiều đơn vị cùng mang một nhãn hiệu chia sẻ với nhau thông qua
phí hàng tháng của bên nhận quyền.
 Ý nghĩa của NQTM đối với nền kinh tế
Đối với nền kinh tế, xã hội nói chung, sự phát triển của hoạt động nhượng
quyền thương mại cũng có những tác động không nhỏ. Một mặt hoạt động nhượng
quyền thương mại giúp người tiêu dùng thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với hàng
hoá, dịch vụ với một hệ thống bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ đồ sộ. Mặt khác,
nền kinh tế theo đó cũng phát triển được cả về bề rộng và chiều sâu. Bên nhượng
quyền mở rộng hệ thống kinh doanh và tiếp nhận thêm nhiều bên nhận quyền mới
là những doanh nghiệp nhỏ, những doanh nghiệp khó có thể tự mình gây dựng một
thương hiệu để tham gia thị trường.
Tuy nhiên, không thể không kể đến một số tác động tiêu cực mà nhượng
quyền thương mại có thể gây ra đối với nền kinh tế xã hội, nhất là đối với nền kinh
tế chưa hề có tiền lệ như ở Việt Nam. Mạng lưới nhượng quyền dễ dàng và nhanh
chóng được mở rộng bao nhiêu thì việc đổ vỡ hệ thống (nếu xảy ra) sẽ có tác động
xấu bấy nhiêu tới sự ổn định của nền kinh tế. Nhượng quyền thương mại là phương
thức kinh doanh liên quan rất nhiều tới quyền sở hữu trí tuệ, vì vậy, sự vi phạm và
lạm dụng hình thức kinh doanh này sẽ gây ra những tác động nghiêm trọng tới
những cố gắng bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Sự phát triển trái chiều của việc mở rộng hệ thống và hành vi lạm dụng, vi phạm
trong quan hệ nhượng quyền thương mại sẽ đặt nền kinh tế - xã hội trước những
thách thức và buộc Nhà nước phải ban hành những văn bản pháp luật đủ chặt chẽ
để điều chỉnh đúng mực hoạt động thương mại đặc biệt này.
22



Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng phát triển, đời sống
của dân cư được cải thiện, kèm theo đó là những nhu cầu về việc tiêu dùng những
hàng hoá, dịch vụ đạt tiêu chuẩn cao. Để cung cấp được những dịch vụ này đến
cộng đồng dân cư, các nhà kinh doanh không nhất thiết phải là người xây dựng nên
những tên thương mại nổi tiếng hay những sản phẩm đạt chất lượng cao mà có thể
dùng phương thức nhượng quyền thương mại để vừa có thể cung cấp cho xã hội
những hàng hoá, dịch vụ chất lượng cao, lại vừa không tốn nhiều công sức để xây
dựng tên thương mại cũng như tiết kiệm được rất nhiều các chi phí xúc tiến thương
mại. Một lần nữa có thể khẳng định, sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam là rất cần thiết. Khi đã được ghi nhận với tư
cách là một hoạt động thương mại độc lập, hoạt động nhượng quyền thương mại
chứng tỏ được sự phù hợp và vị trí không thể thiếu của nó trong đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay.
1.2. Khái quát về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại là cơ
sở nền tảng cho việc ký kết và thi hành hợp đồng NQTM. Xuất phát từ bản chất
kinh tế cũng như bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại, hợp
đồng nhượng quyền thương mại là sự thoả thuận của các bên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại về những vấn đề chính trong nội dung của quan hệ này.
Đây chính là cơ sở phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động NQTM
và cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình các
bên thực hiện hợp đồng.
Cũng giống như khái niệm nhượng quyền thương mại, đến nay vẫn chưa có
một khái niệm thống nhất về hợp đồng nhượng quyền thương mại. Đã có khá nhiều
định nghĩa được đưa ra. Đầu tiên có thể kể đến định nghĩa hợp đồng NQTM được
ghi nhận trong Hiệp ước EEC, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thoả
thuận, trong đó một bên là bên nhượng quyền cấp phép cho một bên khác là bên
nhận quyền khả năng được khai thác một “quyền thương mại” nhằm mục đích xúc

tiến thương mại đối với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ đặc thù để đổi lại một cách
trực tiếp hay gián tiếp một khoản tiền nhất định. Hợp đồng này phải quy định
những nghĩa vụ tối thiểu của các bên, liên quan đến: việc sử dụng tên thông thường
hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một cách thức chung; việc trao đổi công nghệ
23


×