Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.38 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN DUY NAM

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2013

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này có lẽ đã không viết nên được nếu thiếu sự động viên và
giúp đỡ, góp ý tận tình của gia đình, thầy cô và bạn bè cả trong và ngoài ngôi
tôi đang học. Lời cảm ơn chân thành này tôi xin gửi đến tất cả họ. Tôi xin bày
tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc tới người thầy hướng dẫn luận văn


của tôi PGS. TS. Trần Ngọc Dũng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, luôn động
viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này. Thầy đã đọc và góp ý chân
tình từ những đoạn viết ngắn, đến bố cục, nội dung, các thuật ngữ trong các
chương bản thảo. Những hiểu biết và những góp ý tỉ mỉ của thầy khiến tôi cố
gắng nhiều hơn và hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin cảm ơn cha mẹ tôi những người tôi mang ơn suốt đời vì công
ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Tôi cũng xin cảm ơn các anh chị của tôi, những
người luôn động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn
thành tốt luận văn này.

Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Duy Nam

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BOT

Xây dựng – kinh doanh – chuyển giao

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài


ĐTTN

Đầu tư trong nước

FDI

Foreign direct investment: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài

ODA

Official development assistance: Hỗ trợ phát triển
chính thức

QLNN

Quản lý nhà nước

UBND

Ủy ban nhân dân

XTĐT

Xúc tiến đầu tư

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM ..................................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở
Việt Nam. ............................................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đầu tư ........................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ............... 7
1.1.3. Bản chất của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ................ 7
1.2. Mục đích, vai trò của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ........... 8
1.2.1. Mục đích của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ................ 8
1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ............. 10
1.3. Hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam – Quá trình hình
thành và phát triển. ............................................................................................. 12
1.4. Nội dung của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam. ................. 17
1.4.1. Nội dung của việc quản lý nhà nước về đầu tư .......................................... 17
1.4.2. Trách nhiệm của quản lý nhà nước về đầu tư. ........................................... 18
1.4.3. Quản lý đầu tư theo quy hoạch. ................................................................ 18
1.4.4. Theo dõi, đánh giá các hoạt động đầu tư. ................................................. 19
1.4.5. Thanh tra hoạt động đầu tư....................................................................... 19
1.4.6. Giải quyết, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đầu tư. ..................................... 19
1.5. Pháp luật của một số nước về quản lý nhà nước về đầu tư và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. ........................................................................................ 20
1.5.1. Pháp luật của một số nước về quản lý nhà nước về đầu tư ........................ 20
1.5.2. Bài học kinh nghiệm của các nước về quản lý nhà nước về đầu tư cho Việt
Nam .................................................................................................................... 23
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU
TƯ Ở VIỆT NAM ................................................................................................ 25

2.1. Các quy định về nội dung quản lý nhà nước về đầu tư ................................. 25
2.2. Các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư............................. 41

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


2.3. Các quy định về quản lý đầu tư theo quy hoạch. .......................................... 49
2.4. Các quy định về theo dõi, đánh giá hoạt động đầu tư. .................................. 53
2.5. Các quy định về thanh tra hoạt động đầu tư ................................................. 55
2.6. Các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đầu tư. ............... 56
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ ......................................................... 58
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu
tư ở Việt Nam. .................................................................................................... 58
3.1.1. Ban hành thêm một số văn bản pháp luật cụ thể hóa hoạt động quản lý nhà
nước về đầu tư. ................................................................................................... 59
3.1.2. Tăng cường phân cấp cho các địa phương, các ban quản lý khu công
nghiệp, khu chế xuất thực hiện những công việc thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước
về đầu tư. ............................................................................................................ 60
3.1.3. Tăng cường tham khảo các kinh nghiệm và pháp luật của các nước khác
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư. ......................................................... 62
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở
Việt Nam. ........................................................................................................... 62
3.2.1. Mở rộng lĩnh vực đầu tư. .......................................................................... 63
3.2.2. Tiếp tục đơn giản hóa và hoàn thiện thủ tục cấp phép............................... 64
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch.................................................. 64
3.2.4. Nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư. ........................................................... 65
3.2.5. Ưu đãi tài chính ở mức hợp lý. .................................................................. 65

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 70

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Hơn hai mươi lăm năm qua, sự nghiệp mở cửa, đổi mới toàn diện của Việt
Nam đã đạt được nhiều thành công to lớn. Nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra
cho các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước nhiều cơ hội thuận lợi, góp
phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về cơ bản, các nhà đầu tư đã
có quyền bình đẳng trên một sân chơi chung.
Trong cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp trước đây, Nhà nước đã can thiệp
khá sâu vào việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhà nước. Nhưng trong cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước
không còn can thiệp sâu rộng vào việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp.
Nhà nước đã và đang tạo các điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp có các quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, để họ phát huy được sự chủ động,
năng động, sáng tạo trong quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm tạo ra năng
suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Nhà nước hiện nay chỉ quản lý nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô, như xây
dựng quy hoạch, kế hoạch và đề ra những chủ trương, chính sách lớn, xây dựng hệ
thống pháp luật quản lý kinh tế nói chung, quản lý đầu tư nói riêng, tạo môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư phát huy mạnh mẽ các tiềm năng,

khả năng, kinh nghiệm cũng như lòng say mê kinh doanh của họ.
Chính vì vậy, trong hơn hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua, hàng chục nghìn
dự án sản xuất, kinh doanh với 98 tỷ USD của các nhà đầu tư nước ngoài và hàng
trăm nghìn tỷ đồng của các nhà đầu tư trong nước đã được đầu tư trong nhiều lĩnh
vực của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Tuy vậy, các quy định pháp lý trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư cũng
như thực tiễn thi hành các quy định này vẫn còn một số nhược điểm, hạn chế, bất
cập nhất định. Những điều đó đã gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến quá trình thu
hút các nguồn vốn đầu tư từ trong nước và từ nước ngoài.

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


2

Nhà nước và xã hội cũng như đời sống kinh tế đòi hỏi có các công trình khoa
học pháp lý xem xét và nghiên cứu hệ thống các quy định trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đầu tư để làm rõ các thành công và ưu điểm cũng như chỉ rõ các nhược
điểm và bất cập của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư
trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên, tôi đã chọn vấn đề “Pháp luật quản lý nhà nước
về đầu tư – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao
học Luật của mình với mong muốn đóng ghóp một phần nhỏ bé vào việc tiếp tục
hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư nói
riêng và hoàn thiện pháp luật kinh tế ở Việt Nam nói chung.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Quản lý nhà nước về đầu tư là một vấn đề rất rộng và luôn là vấn đề thời sự.
Trong những năm qua đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu pháp luật trong lĩnh

vực quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam, ví dụ như: “Quản lý nhà nước về đăng
ký kinh doanh và thuế đối với công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư
nhân” – Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Tố Hoa(1996); “Một số vấn đề quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh” – Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quốc Khánh
(1997); “Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” – Luận văn
thạc sĩ của Phạm Thị Kim Hoàn (1997); “Quản lý nhà nước đối với hoạt động đăng
ký kinh doanh đối với doanh nghiệp ở Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị
Kim Tiên (2002); “Pháp luật về quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài – Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” – Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Kim Oanh
(2005); “Quản lý nhà nước về đầu tư theo Luật Đầu tư (2005) – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” – Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Minh Thúy (2005)…
Việc nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố này cho thấy, với
những mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, những công trình nghiên cứu này chủ yếu
đề cập đến pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc ở một vài khía cạnh của
quản lý nhà nước về đầu tư. Có luận văn có nhắc tới nhưng chưa đi sâu nghiên cứu
một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc chế định quản lý nhà nước đối với cả đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


3

Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc chế
định quản lý nhà nước về đầu tư đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài,
đồng thời đưa ra phương hướng và những giải pháp hoàn thiện cũng như thi hành
các quy định về quản lý nhà nước về đầu tư là một đòi hỏi cấp bách đối với khoa
học pháp lý ở nước ta.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi nghiên cứu đề tài đã chọn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hoặc sự liên quan đến quản lý nhà nước về đầu tư ở nước ta. Đề tài này sẽ nghiên
cứu các vần đề sau đây: Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư; Trách nhiệm quản lý
nhà nước về đầu tư; Quản lý đầu tư theo quy hoạch; Theo dõi, đánh giá các hoạt
động về đầu tư; Thanh tra các hoạt động đầu tư; Giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện về đầu tư.
Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước trên thế giới nhằm rút ra những bài học
kinh nghiệm cho nước ta trong quá trình hoàn thiện pháp luật đầu tư nói chung, hoàn
thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư nói riêng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật
và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra,
tác giả còn dùng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích;
Phương pháp chứng minh; Phương pháp diễn giải; Phương pháp lịch sử; Phương
pháp thống kê; phương pháp quy nạp; phương pháp so sánh; v.v…
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
5.1. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày một cách có hệ thống
và phân tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định của pháp luật trước đây
cũng như hiện tại về lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư, để thấy được quá trình
hình thành, phát triển và hoàn thiện từng bước qua từng giai đoạn của chế định quản
lý nhà nước về đầu tư ở nước ta.
Ngoài ra, tác giả luận văn cũng trình bày những thành công và ưu điểm của
chế định pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư; đồng thời. cố gắng trình bày đầy đủ
những khuyết điểm và bất cập của các quy định pháp lý trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đầu tư.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam



4

5.2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là lập luận một cách có sức thuyết
phục về việc cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về đầu tư, luận văn đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ
thể, sát thực tế để hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đầu tư.
Luận văn cũng nêu ra các giải pháp để thực thi có hiệu quả các quy định pháp
luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư trong thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Luận văn là một trong những công trình NCKH nghiên cứu sớm nhất các quy
định pháp lý trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư sau khi Nhà nước ban hành
Luật đầu tư (2005).
Luận văn phân tích sâu sắc một số chế định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước
về đầu tư, chỉ rõ những ưu điểm và thành công cũng như nêu rõ những nhược điểm,
bất cập của các quy định hiện hành về quản lý nhà nước về đầu tư.
Luận văn nghiên cứu và phân tích một số quy định pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước ASEAN cũng như trên thế giới; Từ đó,
rút ra những kinh nghiệm phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đầu tư trong điều kiện và hoàn cảnh của nước ta.
Luận văn trình bày, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
Luận văn cũng đề xuất một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy
định pháp luật về quản lý nhà nước về đầu tư trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở

Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước
về đầu tư.

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của pháp luật quản lý nhà nước về đầu
tư ở Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đầu tư
QLNN (Quản lý nhà nước) là sự tác động và điều chỉnh mang tính quyền lực
nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước đối với các quá trình phát triển xã hội để
điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người. QLNN là một
hoạt động cơ bản của bất kỳ một quốc gia nào. QLNN ở bất kỳ lĩnh vực nào, suy
cho cùng, cũng là hoạt động của nhà nước. Chủ thể của QLNN là một tập hợp các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và viên chức nhà nước trong cơ quan
đó.[2]
Như vậy, nói QLNN là nói tới hoạt động của Nhà nước, nói tới các quá trình
tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước bằng pháp luật đến các
đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước. QLNN ở đây
không phải là quản lý tổ chức chính trị mà là hoạt động chấp hành và điều hành
của Nhà nước, được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính

nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết
của cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực
tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị của
Nhà nước.
Trong các chức năng quản lý chính của Nhà nước, quản lý kinh tế đóng vai trò
chủ đạo, bởi lẽ bất cứ Nhà nước nào muốn duy trì, tồn tại và phát triển đều phải xây
dựng và củng cố nền kinh tế của mình. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh
tế thông qua các hoạt động có tổ chức như: xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội, hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, thực hiện kiểm
soát Nhà nước, quản lý và kiểm soát sử dụng tài sản quốc gia…

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


6

Với tư cách là một yếu tố quan trọng của nền kinh tế, các hoạt động đầu tư
cũng chịu tác động của QLNN thông qua các cơ chế quản lý kinh tế. QLNN về đầu
tư là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh quá trình đầu tư tại Việt Nam bằng quyền
lực nhà nước để đảm bảo trật tự pháp luật, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư cũng như lợi ích của đất nước.
Nhà nước quản lý đầu tư bằng pháp luật. QLNN về kinh tế nói chung và quản
lý về hoạt động đầu tư nói riêng đã thay đổi căn bản so với trước đây. Nhà nước
chuyển dần từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp bằng công cụ pháp luật, kế
hoạch và các chính sách với các chức năng như xây dựng hành lang pháp lý, tạo
môi trường đầu tư thuận lợi cho các chủ thể hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp
luật, định hướng phát triển kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng

kết cấu hạ tầng, đầu tư có trọng điểm, xây dựng một số ngành nghề mũi nhọn…
Xét dưới góc độ pháp lý, pháp luật đầu tư được tạo thành bởi ba bộ phận là
Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành; Các quy phạm có liên quan được
quy định trong các đạo luật khác; Các quy phạm có liên quan đến đầu tư được quy
định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
Pháp luật về đầu tư là hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam
như: quan hệ giữa nhà đầu tư với Nhà nước Việt Nam, mà đại diện là các cơ quan
có thẩm quyền; quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa các nhà đầu tư, quan
hệ giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư với người lao động, với cơ quan tài phán
trong nước và quốc tế…
Trong bối cảnh của một nền kinh tế đang từng bước theo xu hướng toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế như ở nước ta hiện nay thì hoạt động đầu tư diễn ra
ngày một sôi động và phức tạp trở thành một hiện tượng tất yếu. Điều đó đòi hỏi
Nhà nước phải có một chuẩn mực pháp lý để hướng các quan hệ đầu tư phục vụ cho
lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Hoạt động đầu tư có tác động mạnh mẽ tới công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước, vì thế QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động
đầu tư là vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Cơ chế QLNN càng chặt chẽ, phù
hợp thì các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế quốc dân càng được phát huy hết
tiềm năng, tác dụng. Các hoạt động đầu tư cần phải được quy định rõ ràng trong các

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


7

văn bản pháp luật. Để đảm bảo cho việc tác động bằng pháp luật của Nhà nước đến
các hoạt động đầu tư có hiệu quả, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì

cần phải có phương tiện, biện pháp quản lý cụ thể nhằm thực hiện và áp dụng đúng
pháp luật. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để hoạt động đầu tư được thực hiện bảo
đảm lợi ích của xã hội, của nhà nước và của nhà đầu tư trong điều kiện nền kinh tế
thị trường và đổi mới quan hệ quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
QLNN là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện quyền lực nhà nước.
QLNN nước mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, QLNN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh
lệnh đơn phương của Nhà nước. Trong quản lý, khách thể quản lý phải phục tùng
chủ thể quản lý một cách nghiêm minh. Nếu khách thể làm trái, phải bị truy cứu
trách nhiệm và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, QLNN theo mục tiêu, chiến lược, chương trình và kế hoạch đã định.
Mục tiêu, chiến lược, chương trình và kế hoạch là những công cụ để hoạch định
phát triển. Nghĩa là đặt ra những mục tiêu kinh tế - xã hội cần đạt được trong
khoảng thời gian đã định sẵn và cả cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra.
Đặc điểm này đòi hỏi công tác QLNN phải có chương trình, kế hoạch dài hạn,
trung hạn và ngắn hạn. Có chỉ tiêu khả thi và có biện pháp tổ chức hữu hiệu để thực
hiện chỉ tiêu. Đồng thời, có cả các chỉ tiêu chủ yếu vừa mang tính định hướng vừa
mang tính pháp lệnh.
Ba là, có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt. Trong việc điều hành, phối hợp,
huy động mọi lực lượng phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất và
cuộc sống xã hội trên địa bàn của mình theo sự phân công, phân cấp đúng thẩm
quyền theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Có như vậy trong quản lý hành chính mới
luôn có tính chủ động sáng tạo và linh hoạt.
1.1.3. Bản chất của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước được thể hiện rõ nét thông qua những hoạt động, qua
các chức năng quản lý xã hội, quản lý kinh tế của nó… Bản chất của QLNN về đầu
tư là việc Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý, chủ yếu là pháp luật, để điều
chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể QLNN và đối tượng quản lý là nhà đầu tư. Đây là
mối quan hệ thể hiện tính chất hành chính, rất nhạy cảm trong môi trường đầu tư.

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


8

Các quan hệ pháp luật chủ yếu do pháp luật về đầu tư điều chỉnh bao gồm:
- Quan hệ giữa Nhà nước, mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền, với các nhà
đầu tư trong việc cho phép đầu tư và quản lý các mặt hoạt động liên quan đến thực
hiện dự án đầu tư ở Việt Nam.
- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu
tư trong nước.
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước với Nhà
nước Việt Nam thông qua các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hoạt động của
dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư.
Như vậy, thực chất của QLNN về đầu tư là quá trình tác động có mục đích của
Nhà nước đến các chủ thể của hoạt động đầu tư thông qua hệ thống công cụ mà
quan trọng nhất là hệ thống các văn bản pháp luật. Nói cách khác, QLNN về đầu tư
là việc Nhà nước sử dụng các công cụ để định hướng, quản lý, tạo môi trường cho
hoạt động đầu tư, chứ không đơn thuần chỉ là quản lý về mặt hành chính, thủ tục.
1.2. Mục đích, vai trò của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
1.2.1. Mục đích của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
Pháp luật về đầu tư là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong việc quản lý
các hoạt động đầu tư. Chức năng QLNN trong lĩnh vực đầu tư có phạm vi rộng,
gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần được xác lập như: hoạch định chính sách
thu hút vốn đầu tư, xác định các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, các chế độ
thuế, tài chính, ngân hàng… Toàn bộ quá trình quản lý hoạt động đầu tư đòi hỏi sự
tích cực của Nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình đầu tư
phát triển đúng hướng của nền kinh tế, mang lại hiệu quả thiết thực cho đất nước.

Do tính chất phức tạp và phạm vi rộng của các quan hệ đầu tư, Nhà nước không thể
trực tiếp tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện quản lý ở tầm vĩ
mô, mang tính chất hành chính - kinh tế. Quá trình quản lý hoạt động đầu tư không
thể thực hiện được nếu không có pháp luật về đầu tư.
Ở nước ta, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, việc thu hút các
nguồn lực đầu tư là vấn đề cấp bách nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2020 mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra là biến nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


9

những năm gần đây đã đặt ra những thách thức đối với Chính phủ Việt Nam, đặc
biệt khi chúng ta bước vào thời kì đổi mới với một trình độ kinh tế còn thấp, kĩ năng
quản lý còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh đó, một mặt, để thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, mặt khác nhằm tạo ra cơ hội đưa đất
nước theo kịp đà phát triển kinh tế của khu vực và thế giới, ngay từ khi thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, nhà nước đã có chủ trương: Cùng với việc mở
rộng xuất khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, cần vận dụng nhiều hình thức
đa dạng để phát triển kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, kêu gọi các
nguồn lực đầu tư còn được tiếp tục khẳng định và ngày càng được đẩy mạnh trong
những năm gần đây. Nó đã trở thành mục đích cốt lõi của hoạt động QLNN về kinh
tế nói chung và QLNN về đầu tư nói riêng.
Trong bối cảnh đó, một môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn là điều hết
sức quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư là sự tổng hợp
của rất nhiều yếu tố, trong đó có thể chia thành 2 nhóm chính: nhóm yếu tố khách
quan và yếu tố chủ quan, trong đó, hệ thống chính sách, pháp luật, năng lực quản lý

của các cơ quan nhà nước là những nhân tố chủ quan, có vai trò quan trọng trong
việc tạo nên sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Những năm qua, theo nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều chuyên gia đánh giá, bằng sự nỗ lực của Chính phủ và Nhà nước,
môi trường đầu tư ở Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể. Với chính sách mở cửa
của chúng ta hiện nay, các quan hệ hợp tác đã được đẩy mạnh và diễn ra trên nhiều
tầng nấc khác nhau: với các nước láng giềng có cùng biên giới, với các nước trong
khu vực Đông Nam Á và mở rộng ra các nước châu Á - Thái Bình Dương và tất cả
các nước, các trung tâm kinh tế trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Quá trình đẩy
mạnh thu hút các nguồn lực trong nước được tiến hành đồng thời với quá trình hội
nhập quốc tế đòi hỏi khả năng thích ứng cao của các cơ quan QLNN cũng như các
doanh nghiệp. Đây là một thách thức đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ ở cả
tầm quản lý vĩ mô và bộ máy sản xuất, kinh doanh ở tầm vi mô. Trong bối cảnh đó,
hoạt động đầu tư đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý và chính sách quản lý phù
hợp với tình hình của đất nước, vừa ngang bằng với điều kiện quốc tế. Mục đích của
QLNN về đầu tư hiện nay phải hướng tới mục đích tạo ra được một sân chơi vừa
bình đẳng, thống nhất vừa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước,
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hòa nhập với quốc tế.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


10

1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
Vai trò của pháp luật về QLNN trong việc thúc đẩy sự phát triển và định
hướng cho các hoạt động đầu tư là không thể phủ nhận. Nhờ sự thừa nhận chính
thức của pháp luật mà các quan hệ đầu tư phát sinh và cũng bằng chính pháp luật
quy định về hình thức đầu tư, biện pháp đầu tư “hướng” sự phát triển của các quan
hệ đầu tư vào những “chỗ” cần thiết. Pháp luật QLNN về đầu tư có vai trò quan

trọng, phản ánh mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư, thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài.[2]
Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc
biệt. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong thực tiễn phát triển của nền kinh tế Việt
Nam những năm vừa qua. Những thành tựu của công cuộc đổi mới, nhất là từ khi
Nhà nước ta mở của, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài đến nay, đã góp phần quan
trọng trong việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế để thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là chủ trương đúng đắn, cần thiết, phù hợp với
xu thế chung trên thế giới và thực tiễn phát triển ở nước ta. Những kết quả đạt được
trong thời gian qua về thu hút vốn, tiếp nhận công nghệ, học tập kinh nghiệm quản
lý… phù hợp với ý đồ và lợi ích lâu dài, phương hướng và cơ cấu kinh tế của nước
ta, đáp ứng được những mục tiêu chủ yếu của việc thực hiện Luật Đầu tư, tạo dựng
được những cơ sở bản đầu quan trọng cho hoạt động đầu tư trong tình hình mới.
Những kết quả có được là do nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến vai trò quản lý
của Nhà nước. QLNN là then chốt, là tiền đề, là điều kiện để cho các hoạt động
kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng phát triển. Vai trò QLNN đối với
hoạt động đầu tư ở nước ta những năm vừa qua được thể hiện ở các khía cạnh sau:
-Thông qua các họat động QLNN, nhà nước đã tạo ra môi trường chính trị kinh tế- xã hội thuận lợi cho hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
Trong những năm qua, tình hình trong nước và quốc tế có rất nhiều chuyển
biến quan trọng tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta,
nhất là chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế của
nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm vừa qua, tình hình chính trị - xã hội nước
ta tiếp tục ổn định, chính sách đổi mới, thể chế kinh tế thị trường đã được hoàn
thiện, nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua đã tạo lòng tin cho các
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


11


nhà đầu tư. Quan hệ chính trị giữa Việt Nam và hầu hết các nước đều diễn ra theo
chiều hướng tích cực cũng là những nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến quan
hệ kinh tế, đầu tư.
Vị thế của Việt nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao hơn sau khi
Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (Tổ chức thương mại thế giới), tổ
chức thành công hội nghị APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương) lần thứ 14 và được Quốc hội Hoa Kì thông qua PNTR (Quy chế quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn) vào năm 2006.
-Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, nâng cao tính cạnh tranh của
thị trường.
Bằng các công cụ quản lý chủ yếu là hệ thống pháp luật, chính sách QLNN đã
cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta trong những năm vừa qua. Trong bối cảnh
nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng lớn và sự cạnh tranh ngày càng cao giữa các
nước trong việc thu hút đầu tư, quốc gia nào có chính sách đầu tư hấp dẫn, đưa ra
được nhiều biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đầu tư một cách hợp lý sẽ là quốc gia
dành được nhiều lợi thế trong cuộc đua giành vốn đầu tư.
Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trong khu vực đều đang ra sức sửa đổi, bổ
sung nhiều quy định pháp luật hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn. Ví dụ điển
hình phải kể đến Thái Lan, nhờ cải thiện tích cực môi trường đầu tư, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài mà nền kinh tế Thái Lan đã nhanh chóng đi vào thế ổn định. Ở
Việt Nam, việc ban hành các văn bản pháp luật về đầu tư được tiến hành từ khá sớm
và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình mới. Nhờ những
nỗ lực này mà cho đến nay, môi trường đầu tư ở Việt Nam được các nhà đầu tư
đánh giá khá cao so với các nước trong khu vực. Trong một báo cáo gần đây của
Ngân hàng Thế giới (WB), môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được đánh giá khá
cao, nhất là những thành công trong việc cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục
đầu tư và đưa ra được các biện pháp đảm bảo và khuyến khích đầu tư khá hợp lý.
Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về
đầu tư, kinh doanh của nước ta nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, tăng

cường khả năng cạnh tranh, tạo ra sự bình đẳng về mặt pháp lý cho các nhà đầu tư
là yếu tố rất quan trọng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Việc ban hành Luật Đầu
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


12

tư và luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Sở hữu trí tuệ và một số đạo luật
khác từ năm 2005 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa nền kinh
tế thị trường và đường lối mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư của Việt Nam.
1.3. Hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam – Quá
trình hình thành và phát triển.
Việc QLNN đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam lần đầu tiên được thể hiện
bằng văn bản pháp luật với sự ra đời của Điều lệ ĐTNN (Đầu tư nước ngoài) do
Hội đồng Chính phủ (nay là Chính Phủ) ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP
ngày 18/4/1977. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước quy định các vấn
đề cơ bản về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với những chế định chủ yếu sau:
- Quy định về lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư, thủ tục đầu tư.
- Quy định về hình thức đầu tư, thời hạn đầu tư, góp vốn đầu tư.
- Quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của bên nước ngoài.
- Quy định về Giải thể và thanh lý các xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư của
nước ngoài.
Với những nội dung trên, điều lệ ĐTNN (1977) được coi là văn kiện pháp lý
đầu tiên hướng vào nền kinh tế thị trường, thể hiện bước đầu quan điểm mở cửa của
Đảng và Nhà nước. Điều lệ khuyến khích ĐTNN vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
trừ một số ngành nghề bị cấm. Điều lệ ĐTNN (1977) chưa quy định chức năng
QLNN về đầu tư thành một chế định cụ thể. Điều lệ ĐTNN (1977) được xem như là
một tín hiệu tích cực được các nhà ĐTNN quan tâm vì đã đưa ra nhiều ưu đãi đối

với ĐTNN ở Việt Nam. Tuy nhiên, điều lệ ĐTNN (1977) nói chung vẫn là sự thể
chế hóa chính sách quản lý kinh tế thời bao cấp, nên còn thiếu các quy định cụ thể
về ngân hàng, quản lý ngoại tệ, đất đai, lao động, sử dụng tài nguyên…, do đó chưa
tạo được một cơ sở pháp lý đầy đủ, có hiệu lực pháp lý cao và đồng bộ hấp dẫn cho
các nhà ĐTNN. Mặt khác từ năm 1977 đến 1986, do những điều kiện quốc tế và
trong nước như sự cấm vận, bao vây kinh tế của Mỹ, những khó khăn về kinh tế xã hội của đất nước, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ đã làm
cho hoạt động ĐTNN không có điều kiện thuận lợi để phát triển.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối đổi
mới quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


13

thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Chính sách ĐTNN đứng trước đòi hỏi phải thay đổi để đáp ứng được yêu
cầu của tình hình mới”[3]. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, ngày 29/12/1987,
Quốc hội đã ban hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Theo luật ĐTNN (1987) để tuy tụ
các hoạt động quản lý ĐTNN vào một mối, đồng thời để thống nhất quản lý các
hoạt động đầu tư trên phạm vi cả nước, cơ quan nhà nước quản lý ĐTNN là Ủy ban
nhà nước về hợp tác đầu tư – là cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm trước Chính
phủ, chỉ đạo, quản lý thống nhất mọi hình thức ĐTNN tại Việt Nam.
Về khía cạnh QLNN, giai đoạn thực hiện Luật ĐTNN (1987) là giai đoạn vừa
học vừa làm của Nhà nước Việt Nam, là giai đoạn thu hút nguồn ĐTNN vào Việt
Nam, thử nghiệm cơ chế quản lý mới trong lĩnh vực ĐTNN ở nước ta. Luật ĐTNN
1987 cũng có nhiều quy định thể hiện tính cởi mở cao, hấp dẫn, tạo ra những lợi thế
so sánh trong cạnh tranh với các nước trong khu vực. Ví dụ: cho phép nhà đầu tư
nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (điều này khác với

quy định của một số nước trong khu vực) Cũng với nhiều quy định thông thoáng về
đối tác đầu tư, các ưu tiên về thuế… Luật ĐTNN (1987) có ý nghĩa như là một công
cụ mở thực hiện chính sách thu hút ĐTNN vào Việt Nam.
Như vậy, so với Điều lệ ĐTNN (1977), luật ĐTNN (1987) đã có một bước tiến
vượt bậc về nội dung, đặc biệt là các quy định về QLNN đối với đầu tư. Đây thực
sự là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN, góp phần phát huy các tiềm năng dồi dào của đất nước, tạo cơ sở pháp lý
thự hiện chính sách đổi mới quản lý kinh tế và mở rộng hợp tác với nước ngoài của
Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, do ra đời trong khung cảnh pháp luật hiện hành chưa có đầy đủ các
quy định về nền kinh tế thị trường, các quy định pháp lý liên quan đến QLNN về
ĐTNN chưa phản ánh hết những quy luật của nền kinh tế thị trường nên chưa đảm
bảo yếu tố cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về đầu
tư, ngày 30/6/1990, Quốc hội đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật ĐTNN năm 1987. Tiếp đó, năm 1992, Luật này lại tiếp tục được sửa đổi và bổ
sung một lần nữa. Luật ĐTNN năm 1990 và 1992 đã thể hiện một số nguyên tắc
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


14

chủ yếu của nền kinh tế thị trường, thể hiện sự nỗ lực của Nhà nước trong việc quản
lý các hoạt động kinh tế theo đúng cơ chế vận động khách quan của nền kinh tế.
Tuy chưa thật hoàn chỉnh, pháp luật về việc quản lý ĐTNN đã phản ánh rõ
chính sách huy động vốn ĐTTN (Đầu tư trong nước) và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực vào việc phát triển kinh tế. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh quan điểm “huy động mọi nguồn

lực, đặc biệt là phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước, nhằm góp phần phát
triển kinh tế, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”[4]. Đảng
và Nhà nước ta đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển kinh
tế. Ngày 22/6/1994, Quốc hội đã thông qua Luật Khuyến khích ĐTTN. Đây là văn
bản pháp lý điều chỉnh việc khuyến khích ĐTTN, tạo động lực thúc đẩy các nhà đầu
tư thuộc mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Trên phương diện QLNN, sự ra đời của Luật Khuyến khích ĐTTN cho thấy
một bước tiến trong nhận thức của Nhà nước về việc tạo ra sự bình đẳng giữa các
nhà ĐTTN và nhà đầu tư ngoài nước. Tuy nhiên, do môi trường đầu tư chưa thông
thoáng, thủ tục đầu tư còn nhiều khó khăn, phức tạp…nên hiệu quả trên thực tế của
Luật Khuyến khích ĐTTN (1994) còn thấp.
Ngày 12/11/1996, Quốc hội thông qua Luật ĐTNN tại Việt Nam trên cơ sở
sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật ĐTNN (1987), Luật ĐTNN (sửa đổi) năm
1990, Luật ĐTNN (sửa đổi) 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện
chính sách nhất quán thu hút ĐTNN vào Việt Nam theo chính sách của Đảng và
Nhà nước ta.
Điều 54 Luật ĐTNN (1996) quy định nội dung QLNN về ĐTNN bao gồm:
1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách ĐTNN;
2. Ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động ĐTNN;
3. Hướng dẫn các ngành, địa phương thực hiện các hoạt động liên quan tới hợp
tác ĐTNN;
4. Cấp, thu hồi giấy phép đầu tư;
5. Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt
động ĐTNN;
6. Kiểm tra, thanh tra và giám sát các hoạt động ĐTNN.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam



15

So với Luật ĐTNN (1987) thì Luật ĐTNN (1996) quy định rõ hơn thẩm
quyền, chức năng và sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan QLNN về ĐTNN với
các Bộ, ngành, UBND(Ủy ban nhân dân) cấp tỉnh; quy định các biện pháp tăng
cường QLNN đối với ĐTNN như giám định, nghiệm thu, quyết toán công trình, đấu
thầu, kiểm toán, giao cho Chính phủ quy định việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, quyết định việc phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho UBND cấp
tỉnh nếu xét thấy có đủ điều kiện; quy định việc cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự
án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đối với ĐTNN, để thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, đẩy
mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực
và trên thế giới. Quốc hội đã thông qua Luật Khuyến khích ĐTTN (sửa đổi) vào
ngày 20/5/1998. Ưu điểm của Luật Khuyến khích ĐTTN (1998) là sự bảo hộ của
Nhà nước, khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
ĐTTN. Nhà ĐTTN có quyền được “bảo lưu” quyền lợi trong các trường hợp có
thay đổi về pháp luật không có lợi cho nhà đầu tư.
Luật ĐTNN (sửa đổi năm 2000) và Nghị định số 24/2000/NĐ – CP ngày
31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam, đã
quy định rõ hơn về hoạt động QLNN đối với ĐTNN, cụ thể là: quy định rõ trách
nhiệm và thẩm quyền QLNN của các Bộ, ngành, địa phương; cơ chế phối hợp, báo
cáo giữa các cơ quan cấp Giấy phép đầu tư với nhau và với các Bộ, ngành trong
việc thực hiện chức năng QLNN đối với ĐTNN.
Luật ĐTNN (sửa đổi) năm 2000 là một bước tiến quan trọng của nhận thức về
QLNN đối với ĐTNN. Đạo luật này có các quy định mới như giảm bớt các vấn đề
được quyết định theo nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị, trừ việc bổ nhiệm
Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất và sửa đổi, bổ sung Điều lệ doanh
nghiệp (Điều 14); cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp
đồng hợp tác liên doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển đổi hình thức

đầu tư, chia, tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp … (Điều 19a); cho phép các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được
mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại … Chính phủ bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


16

tệ cho các dự án xây dựng công trình kết cầu hạ tầng và một số dự án quan trọng
khác (Điều 33); các bên trong liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn
của mình… nhưng phải ưu tiên cho các bên trong doanh nghiệp (Điều 34); các
doanh nghiệp sau khi đã làm nghĩa vụ thuế với Nhà nước mà bị lỗ thì được chuyển
lỗ sang năm sau (Điều 40); doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn
liền với giá trị quyền sử dụng đất khi vay vốn tín dụng (Điều 46) và các quy định
việc thanh tra khá rõ ràng như: việc thanh tra thường niên không quá một lần trong
một năm đối với các doanh nghiệp; thanh tra bất thường chỉ được thực hiện khi có
dấu hiệu vi phạm pháp luật (Điều 64) … Luật ĐTNN (sửa đổi) năm 2000 đã thực sự
tạo ra sự thông thoáng, hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN.
Trong bối cảnh của việc mở rộng hội nhập quốc tế và tăng cường thu hút các
nguồn lực nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong
những năm qua, hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã góp
phần điều chỉnh khá toàn diện hoạt động đầu tư trong và ngoài nước. So với pháp
luật hiện hành về đầu tư, nhất là ĐTNN, pháp luật của Việt Nam được đánh giá là
khá thông thoáng, cởi mở và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mà
trực tiếp nhất là thực hiện các thỏa thuận trong Hiệp định Đầu tư khu vực ASEAN
(Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á), Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ,
pháp luật về đầu tư ở Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục. Sự chưa

hoàn thiện và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh nói chung chính là trở ngại lớn nhất cho các nhà đầu tư tại Việt Nam.
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu về việc phải không ngừng hoàn thiện môi trường
pháp lý về đầu tư. Trong nhiều nỗ lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư của Việt
Nam thời gian qua, tâm điểm phải kể đến việc Quốc hội thông qua Luật Đầu tư
ngày 29/11/2005. Việc ban hành Luật đầu tư (2005) là một bước phát triển lớn
trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng vào việc tạo cơ sở pháp lý bình đẳng,
thống nhất trong khuyến khích và đảm bảo đầu tư trong và ngoài nước.
Trong Luật đầu tư (2005), chế định QLNN về đầu tư được quy định rất rõ ràng
và cụ thể. So với các văn bản pháp luật về đầu tư trước đây, có thể nói đây là đạo
luật có những quy định chi tiết nhất về nội dung, trách nhiệm của QLNN về đầu tư.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


17

1.4. Nội dung của pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam.
1.4.1. Nội dung của việc quản lý nhà nước về đầu tư
QLNN đối với hoạt động đầu tư là hoạt động quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả của hoạt động đầu tư, được thể hiện trên một bình diện rộng, gồm
nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, đa dạng và phức tạp. Nội dung của QLNN về đầu tư
bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược và chính sách đầu tư.
- Ban hành và tổ chức thực hiên hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư.
- Hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết các vướng
mắc, yêu cầu của nhà đầu tư.
- Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư.
- Hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động

đầu tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động
đầu tư.
- Tổ chức xúc tiến đầu tư.
Đây là những chế định quan trọng trong QLNN đối với đầu tư. Trên cơ sở
chiến lược, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước
đề ra mục tiêu của hoạt động đầu tư, xác định cơ cấu đầu tư theo ngành, lãnh thổ,
theo thành phần kinh tế và theo thị trường. Nhà nước khuyến khích đầu tư vào các
ngành đòi hỏi vốn lớn, kĩ thuật cao, quản lý phức tạp và sản phẩm dành nhiều cho
xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, thanh tra,
kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư, giúp cho nhà đầu tư thực hiện các hoạt
động đầu tư của mình đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhà
đầu tư.
Hệ thống các văn bản pháp luật quy định trực tiếp hoặc có liên quan đến các
hoạt động đầu tư là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý các dự án đầu tư.
Nhà nước quản lý nền kinh tế ở tầm vĩ mô (bao gồm cả các hoạt động đầu tư) thông
qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, sử dụng pháp luật để điều
tiết, giám sát các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững
của nền kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị, chế độ kinh tế - xã hội và những định
hướng phát triển đã lựa chọn.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


18

1.4.2. Trách nhiệm của quản lý nhà nước về đầu tư.
Ở nước ta, Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ
và nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Trong đó, các
cơ quan ở Trung ương có trách nhiệm quản lý những vấn đề then chốt của nền kinh

tế quốc dân, còn có cơ quan nhà nước ở địa phương có nhiệm vụ quản lý kinh tế
trong phạm vi địa phương, gắn kinh tế trên địa bàn địa phương với kinh tế chung
của từng vùng theo địa giới hành chính.
Đối với hoạt động đầu tư, việc QLNN cũng được thực hiện theo cơ sở phân
cấp quản lý, trong đó các cơ quan nhà nước ở các cấp khác nhau có những trách
nhiệm và thẩm quyền nhất định trong việc quản lý hoạt động đầu tư. Việc phân cấp
quản lý nhằm mục đích xác định rõ nội dung và sự phân công, phân cấp giữa các cơ
quan nhà nước, tránh trùng lặp, nhiều khâu, nhiều đầu mối, không gây phiền hà,
không buông lỏng, đảm bảo quản lý chặt chẽ, có hiệu quả.
1.4.3. Quản lý đầu tư theo quy hoạch.
Như đã nêu trên, xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển
đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của QLNN về đầu tư. Các chiến
lược phát triển, chương trình quy hoạch thể hiện việc lựa chọn một cách có căn cứ
khoa học các mục tiêu dài hạn và cơ bản nhất của sự nhiệp phát triển kinh tế - xã
hội, gắn liền với việc lựa chọn các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt được mục
tiêu đó. Chính sách cơ cấu chỉ có thể thực hiện tốt nếu như có một quy hoạch tổng
thể tốt. Chiến lược chung cần bao quát chiến lược ngành, lĩnh vực và địa bàn thu
hút đầu tư, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, gắn liền với tiến trình hội nhập, nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Xây dựng quy hoạch đầu tư là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch tổng thể các
nguồn lực chung của cả nước, gồm vốn trong nước, vốn ODA (Hỗ trợ phát triển
chính thức), vốn ĐTNN… phải gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm
chủ yếu và đặt trong chiến lược chung.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng quy hoạch ngành, vùng, sản phẩm, dự báo nhu
cầu thị trường cũng là những hoạt động quan trọng của QLNN đối với hoạt động
đầu tư.

Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam



19

1.4.4. Theo dõi, đánh giá các hoạt động đầu tư.
Sau khi các dự án được cấp phép đầu tư và triển khai hoạt động, Nhà nước
không thể buông lỏng quản lý, song cũng không thể can thiệp quá sâu vào hoạt
động của nhà đầu tư. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải quản lý hoạt động của các dự
án như thế nào để vừa có hiệu quả, vừa thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển, ngăn
chặn được những vi phạm có thể xảy ra, đồng thời lại nâng cao hiệu lực của
QLNN. Chính vì vậy công tác theo dõi, đánh giá các hoạt động đầu tư của Nhà
nước được đặt ra giúp cho nhà đầu tư thực hiện đúng các cam kết của mình khi
tham gia đầu tư.
1.4.5. Thanh tra hoạt động đầu tư.
Thanh tra hoạt động đầu tư là nội dung hết sức quan trọng của QLNN về đầu
tư. Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra đối với hoạt động đầu tư là giúp cho
việc thực thi pháp luật về đầu tư của các nhà đầu tư được đúng đắn. Thanh tra hoạt
động đầu tư giám sát việc thực hiện góp vốn, thực hiện các quy định của giấy phép
đầu tư và các văn bản pháp luật có liên quan, giám sát việc thực hiện các quy định
về nghĩa vụ tài chính, quan hệ lao động, tiền lương, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ
môi trường sinh thái… đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và các vấn đề phát
sinh cần giải quyết.
Đồng thời, việc thanh tra đối với các hoạt động đầu tư còn nhằm phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật về đầu tư. Trong các trường hợp có xảy ra
tranh chấp về đầu tư, việc thanh tra sẽ giúp các cơ quan QLNN có thẩm quyền xác
minh các khiếu nại, tố cáo giúp cho việc giải quyết được công minh và đảm bảo lợi
ích của các nhà đầu tư.
1.4.6. Giải quyết, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đầu tư.
Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện nói chung là quyền của bất kì công dân nào
và đã được công nhận bởi Hiến Pháp. Đối với hoạt động đầu tư, khi có những tranh

chấp giữa các tổ chức, cá nhân với các tổ chức, cá nhân hoặc các cơ quan nhà nước
thì đều được giải quyết theo quy định của pháp luật. Nhà nước, với chức năng quản
lý của mình, thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đầu tư đúng
pháp luật, đảm bảo cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vốn, công nghệ… vào sản
xuất, kinh doanh.
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


20

1.5. Pháp luật của một số nước về quản lý nhà nước về đầu tư và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.5.1. Pháp luật của một số nước về quản lý nhà nước về đầu tư
1.5.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan trong quản lý nhà nước về đầu tư.
Thái Lan là một trong những nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về
điều kiện tự nhiên, xã hội, dân số phần lớn sống ở nông thôn và về trình độ phát
triển kinh tế.
Tuy vậy những năm gần đây nền kinh tế Thái Lan đã có sự phát triển vượt bậc,
trở thành một trong những ngôi sao trong khu vực Đông Nam Á. Để đạt được điều
đó, Chính phủ Thái Lan đã khéo léo kết hợp chính sách của từng thời kì phù hợp
với mục tiêu của từng dự án đầu tư. Để QLNN về đầu tư, Thái Lan duy trì chính
sách thương mại tự do, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và không phân
việt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Sau khủng hoảng tài chính 1997 Thái Lan đã điều chỉnh chính sách trong
việc thu hút vốn đầu tư. Năm 1999 Luật kinh doanh nước ngoài mới được ban hành
thay thế cho luật năm 1972. Luật kinh doanh nước ngoài mới có hiệu lực từ năm
2000. Bên cạnh đó còn có các đạo luật điều chỉnh các quan hệ về đất đai và các hoạt
động chuyên ngành, như luật về ngân hàng, tài chính và vận tải đường thủy…

Để thực hiện chiến lược thu hút đầu tư trên đây, Thái Lan đã thành lập cơ quan
chuyên trách về đầu tư (hội đồng đầu tư) của Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu, có
trách nhiệm thúc đẩy việc thực thi Bộ Luật khuyến khích đầu tư và định hướng
chính sách tổng thể phù hợp với nội dung của chiến lược thu hút đầu tư. Về quản lý
ngoại tệ, ngân hàng Thái Lan giao cho các ngân hàng thương mại có thẩm quyền
xem xét, giải quyết các thanh toán bằng ngoại tệ. Phần lớn các giao dịch thương mại
bao gồm cả việc mua bán ngoại tệ đều được phép nhanh chóng.[1]
1.5.1.2. Kinh nghiệm của Malaysia trong quản lý nhà nước về đầu tư.
Tại Malaysia, Luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành năm 1986,
bên cạnh đó còn có các luật Thuế thu nhập 19867, Luật Hải quan 1967, luật thuế
hàng hóa 1972, luật thuế tiêu thụ đặc biệt 1976, luật các khu tự do 1990. Các luật
này quy định các hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực: sản xuất, nông nghiệp, du
lịch (bao gồm cả khách sạn), dịch vụ, nghiên cứu phát triển, giáo dục đào tạo và bảo
Luận văn Thạc sĩ

Nguyễn Duy Nam


×