Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.77 KB, 13 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Thể dục thể thao là một hoạt động không thể thiếu trong đời sống xã hội, ngoài
mục đích nâng cao sức khoẻ cho mọi người nó còn là một hoạt động vui chơi giải trí,
phương tiện giao tiếp về văn hoá, nghệ thuật có tác dụng giúp con người phát triển cả
về “Đức – Trí – Thể – Mỹ”. TDTT còn là phương tiện giao lưu văn hoá giữa các dân
tộc, quốc gia nhằm thắt chặt tình hữu nghị trên toàn thế giới.
Trong hệ thống các môn thể dục thể thao thì điền kinh là một trong những môn
được nhiều người quan tâm tập luyện, đặc biệt phổ biến trong các trường học bởi nó là
một môn cơ bản, dễ học, dễ phổ biến cho tất cả học sinh – sinh viên tham gia. Tập
luyện điền kinh không những nâng cao sức khoẻ cho người tập mà còn là cơ sở để phát
triển các tố chất thể lực khác như: nhanh - mạnh - bền - khéo léo.
Bộ môn điền kinh bao gồm nhiều môn thi đấu trong đó môn nhảy cao nói
chung, nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng là môn được tập luyện và thi đấu rộng rãi
trong các trường phổ thông, các hội khoẻ, các giải thi đấu từ trung ương đến địa
phương. Tuy nhiên qua thực tế tìm hiểu thì thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng của
học sinh là chưa cao. Bởi vậy việc giảng dạy môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng ngày
càng được chú trọng song vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Các trường THPT nằm trên địa bàn miền núi nên nền tảng thể lực của học sinh
còn hạn chế, riêng thành tích môn nhảy cao nằm nghiêng của học sinh khối lớp 11 còn
thấp so với thành tích môn nhảy cao nằm nghiêng của các trường trong huyện.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:“Lựa chọn một số
bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng
cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT ”
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để giải quyết nhịêm vụ trên của đề tài tôi sử dụng các phương pháp sau :
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu là quá trình tham khảo các tài liệu
chung và chuyên môn liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sở đọc và phân tích tài liệu có liên quan đến đề tài, phương pháp này
chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu cơ sở khoa học


của các hình thức tổ chức tập luỵên trong môn học tự chọn Bóng Đá cho học sinh
trừơng THPT .
2. Phương pháp phỏng vấn toạ đàm.
Chúng tôi sử dụng phuơng pháp này để phỏng vấn trực tiếp và gián tiếp phiếu hỏi
các giáo viên thể dục của trừơng THPT. Các vấn đề phỏng vấn tập trung vào việc tìm
hiểu một số biện pháp và hình thức tổ chức tập luyện môn học tự chọn Bóng Đá thông
1


qua đó thu thập số liệu cần thiết làm cơ sở cho việc lựa chọn các biện pháp và hình
thức tổ chức tập luyện.
3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo dục dựa
trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động của giáo viên, học sinh và cán bộ quản lí
giáo dục.
Trong quá trình học tập tại trừơng đã sử dụng quan sát sư phạm dự giờ các thầy cô
giáo trong môn Bóng đá, qua đó rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn kết hợp với cơ
sở lí luận để xác định áp dụng hình thức tổ chức tập lụyên môn học tự chọn Bóng đá làm
căn cứ cho viêc tổ chức thực nghiệm sư phạm.
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Là phương pháp nghiên cứu có hệ thống và logic một hiện tượng, một quá trình
giáo dục nhằm trả lời câu hỏi “nếu quá trình đó được thực hiện trong điều kiện đã
được khống chế, phát triển, về tính liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả”.
Để giải quyết nhiệm vụ đề tài, thực hiện phương pháp này bằng cách thực thực
nghiệm song song. Trong quá trình nghiên cứu đã phân thành hai nhóm, mổi nhóm 30
học sinh có cùng lứa tuổi, giới tính, cùng địa bàn dân cư, tương đương nhau về sức
khoẻ, thành tích.

2



PHẦN II. NỘI DUNG
I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN.
1.Thuận lợi.
+ Về đội ngũ giáo viên: tổ bộ môn thể dục hiện tại có 10 giáo viên với trình độ
đạt chuẩn, các giáo viên có tuổi đời công tác lâu năm. Nhìn vào đội ngũ giáo viên của
tổ ta thấy được sức trẻ chiếm ưu thế hơn.
+ Về thực trạng giảng dạy và học tập môn nhảy cao ở các trường phổ thông:
Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kĩ thuật tương
đối đơn giản, dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nhảy cao là một
nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất.
Ở cấp THPT các em được làm quen và tập luyện với kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm
nghiêng . Việc giảng dạy môn nhảy cao trong nhiều năm qua đã được chú trọng (tăng
cường : đệm, cột, sào...) và đạt kết quả nhất định, song cả thầy và trò còn phải phấn đấu
nhiều hơn nữa mới đáp ứng được phong trào ngày càng phát triển mạnh mẽ. Để giảng
dạy tốt hơn nữa kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinhthì giáo viên cần phải nắm
chắc được đối tượng và không ngừng chọn lựa cải tiến, các biện pháp, nội dung giảng
dạy cho phù hợp, gây ảnh hưởng tốt đến sự phát triển toàn diện các bộ phận cơ thể học
sinh.
2. Khó khăn:
- Đa số học sinh đều ở xa trường nên việc tập luyện, ngoại khóa của các em còn
ít.
- Nhiều học sinh chưa có đủ điều kiện đảm bảo cho việc tập luyện thể dục, bố
mẹ các em đa phần đều làm nông thôn nên kinh tế còn khó khăn, do vậy các em đều ăn
chưa no và chưa đủ chất dẫn đến khi tập luyện nhanh bi mệt mỏi.
- Hầu hết các trường THPT được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
dạy học. Song chưa đầy đủ để đáp ứng cho việc dạy và học.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỂN.
1. Cơ sở lý luận của việc giảng dạy kỹ thuật động tác.
Giảng dạy kỹ thuật động tác là một quá trình giúp cho học sinh hình thành kỹ

năng, kỹ xảo vận động, khi tiến hành giảng dạy cần phải tuân thủ theo những nguyên
tắc quá trình giáo dục và giáo dưỡng thể chất. Bất kỳ hoạt động giảng dạy nào dù đơn
giản hay phức tạp đều tuân thủ theo nguyên tắc hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.Giai đoạn dạy học ban đầu rất quan trọng bởi
vì giai đoạn này hình thành nên kỹ thuật động tác, những sai lầm về lệch lạc động tác
nếu không tạo nên sự tiếp thu, thu hút học sinh về động tác kỹ thuật sẽ dẫn đến những
sai lầm như vậy hiệu quả đạt được sẽ không cao.
2. Đặc điểm giải phẩu sinh lí lứa tuổi học sinh THPT.
3


Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đầu thamh niên là thời kì đạt được sự trưởng
thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể
của người lớn. Có nghĩa ở lứa tuổi này cơ thể các em đang phát triển mạnh. Khả năng
hoạt động của các bộ phận cơ thể được nâng cao cụ thể là:
2.1. Về mặt tâm lý.
Ở tuổi này các em đang phát triển các chức năng tâm lý,đây là giai đoạn mà sự
phát triển trí tuệ của các em mang tính chất hưng phấn ,đang dần hình thành năng lực
làm việc cũng như nhân cách được hình thành.Các em phần nào đã ý thức được công
việc mình làm, ở tuổi này các em tỏ ra ham tìm tòi học hỏi và rất nhạy cảm với cái
mới. Tuy nhiên về mặt tâm lý các em hay nóng vội, chủ quan dẫn đến hiệu quả công
việc chưa cao.
2.2. Về Hệ vận động .
+ Hệ xương: ở lứa tuổi này cơ thể các em phát triển mạnh mẽ về chiều dài, bề
dày, hàm lượng các chất hữu cơ trong xương giảm do hàm lựơng magiê, phốt pho, can
xi trong xương tăng. Quá trình cốt hoá xương ở các bộ phận chưa hoàn tất chỉ xuất
hịên sự cốt hoá ở một số bộ phận như mặt. Các tổ chức sụn đựơc thay thế bằng mô
xương nên cùng vơi sự phát triển của xương cột sống không giảm, trái lại tăng lên có
xu hứơng cong vẹo. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy cần tránh cho học sinh tập
luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các họat động gây chấn thương quá

mạnh.
+ Hệ cơ: ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển nhanh để đi đến hoàn thiện
nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ xương, cơ to phát triển nhanh hơn
cơ nhỏ, cơ co phát triển nhanh hơn cơ duổi, khối lựơng cơ tăng lên rất nhanh, đàn tính
cơ không đều chủ yếu là nhỏ và dài. Do vậy khi hoạt động cơ chóng mệt mỏi, vì vậy
khi tập luyện giáo viên giảng dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các em.
+ Hệ tuần hoàn: ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển mạnh để
kịp thời phát triển toàn thân, tim lớn hơn khả năng co bóp của cơ tim phát triển mạnh,
do đó nâng cao khá rõ lưu lượng máu trên phút. Buồng tim đã phát triển tương đối
hoàn chỉnh, mạch đập bình thường của nam là 70-80 lần/phút, nữ là 75-85 lần/phút.
Nhưng khi vận động căng thì tần số nhanh hơn phản ứng của hệ tuần hoàn tương đối
rõ rệt trong hệ vận động, nhưng sau vận động mạch và huyêt áp tăng tương đối nhanh
chóng, tim trở nên hoạt động dẻo dai hơn.
+ Hệ thần kinh: ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh tiếp tục đựơc phát triển để đi
đến hoàn thiện , hoạt động phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn.
Kích thứơc của não và hành tuỷ đạt đến mức của ngừơi trưởng thành. Khả năng tư
duy phân tích tổng hợp của não tăng lên, tư duy trừu tượng được phát triển tạo điều
kiện thuận lợi cho vịêc hình thành nhanh chóng phản xạ có đìêu kiện. Khả năng nhận
hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động vận động được nâng cao. Ngay
từ tuổi thíêu niên đã dĩên ra quá trình hoàn thiện cơ quan phân tích và những chức
4


năng vận động quan trọng nhất, nhất là cảm giác bản thể trong đìêu kiện động tác. ở
lứa tuổi học sinh không chỉ các phần động tác đơn lẽ như trứơc mà chủ yếu từng bứơc
hoàn thiện ghép những phần đã học trứơc thành các liên hợp động tác tương đối hoàn
chỉnh ở điều kiện khác nhau phù hợp với từng học sinh.
Mặt khác do hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm cho
tính hưng phấn cao của hệ thần kinh chiếm ưu thế, gĩưa hưng phấn và ức chế không
cân bằng ảnh hưởng tới hoạt động thể lực, đặc biệt đối vớ nữ, tính nhịp điệu giảm

nhanh, khả năng chịu lựơng vận động yếu. Vì vậy khi giảng dạy cần phải thay đổi
nhiều hình thức tập luyện, vận dụng các hình thức trò chơi thi đấu để hoàn thành tốt
những bài tập đề ra.
+ Hệ hô hấp: ở lứa tuổi này, phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều
khung ngực còn nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và lâu không có sự ổn định của dung
tích sống, không khí, vòmg ngực trung bình của nam 67-77 cm, nữ 69-74 cm. Lúc 15
tuổi dung lựơng phổi là 2- 2,5 lít khi 16-18 tuổi là 3-4 lit, Tần số hô hấp gần với người
lớn, tuy nhiên các cơ hô hấp còn yếu nên sức co giãn của lồng ngực ít, chủ yếu co
giãn cơ hoành, đây chính là nguyên nhân làm tần số hô hấp của các em tăng nhanh khi
hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu oxi dẫn đến mệt mỏi.
3. Cơ sở thực tiển:
3.1. Tác dụng của tập luyện môn nhảy cao ở trường phổ thông:
Nhảy cao là một môn thể thao khá phổ biến, được nhiều người ưa thích và
tham gia tập luyện.
Tập luyện nhảy cao có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các tố chất thể lực,
nâng cao khả năng tập trung sức, tự chủ và rèn luyện lòng dũng cảm, tính kiên trì và khắc
phục khó khăn trong rèn luyện. Thông qua các bài tập kĩ thuật của chạy đà và giậm nhảy,
làm tăng cường và phát triển các tố chất sức nhanh, sức mạnh và sức mạnh tốc độ của
người tập. Thực hiện tốt các kỹ thuật trên không và rơi xuống đất, đã rèn luyện được sự
khéo léo, tính chính xác, nâng cao khả năng phối hợp vận động, giúp cho người tập nâng
cao sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần, phục vụ đắc lực cho lao động sản xuất và chiến
đấu.
3.2. Sức mạnh và sức mạnh trong nhảy cao:
Khái niệm về sức mạnh cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau. nhưng
tố chất sức mạnh có thể phân thành : sức mạnh tuyệt đối, sức mạnh tương đối, sức mạnh tốc
độ, sức mạnh bền : trong đó:
- Sức mạnh tuyệt đối: là năng lực khắc phục lực cản lớn nhất.
- Sức mạnh tương đối: là sức mạnh tuyệt đối của vận động viên trên 1 kg thể
trọng của họ.
- Sức mạnh tốc độ: là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh.

- Sức mạnh bền: là năng lực khắc phục lực cản nhỏ trong thời gian dài.
5


Bên cạnh đó, ở nhiều trường hợp còn gặp một dạng sức mạnh rất quan trọng được
gọi là “sức mạnh bột phát”: Dạng sức mạnh này xuất hiện và giữ vai trò quan trọng trong
các môn có hoạt động bật nhảy, được tính theo công thức.

F
I = max
Tmax
Trong đó I là chỉ số đánh giá sức mạnh, tốc độ hay sức mạnh bột phát, F max là
lúc sức mạnh tối đa, Tmax là thời gian để đạt sức mạnh tối đa.
Nhảy cao là nội dung nằm trong hệ thống các môn không có chu kỳ, gồm nhiều
động tác liên kết lại với nhau, thành một kỹ thuật hoàn chỉnh, người ta chia thành 4
giai đoạn: chạy đà, giậm nhảy, tư thế bay trên không và tiếp đất. Trong bốn yếu tố đó,
yếu tố giậm nhảy có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc hình thành kỹ thuật động tác và
quyết định thành tích ở môn này. Nhưng khâu giậm nhảy lại có quan hệ rất lớn với tốc
độ chạy đà, thời gian chống đỡ khi giậm nhảy, góc độ giậm nhảy… Như vậy, có thể
thấy sức mạnh trong nhảy cao là dạng sức mạnh hỗn hợp, mà ta có thể phân ra một
cách tương đối, gắn liền với quá trình thực hiện kỹ thuật bao gồm:
- Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà.
- Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm nhảy (sức
bật).
Theo “Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” hầu hết các môn thể thao đều
cần sức mạnh, những tố chất sức mạnh cần thiết cho từng môn thể thao khác nhau gọi
là sức mạnh đặc thù của môn nào đó. Sức mạnh tối đa đóng vai trò quan trọng nếu
không nói là quyết định trong việc tạo ra sức mạnh đặc thù của môn thể thao.
III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Xác định và ứng dụng một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng

cao thành tích trong môn nhảy cao.
Để xác định một cách khách quan, chúng tôi dùng phiếu phỏng vấn để lấy ý
kiến của các giáo viên thể dục ở các trường THPT trong huyện để xem xét đánh giá
mức độ quan trọng của hai tố chất thể lực trên. Câu hỏi được đưa ra gồm hai yếu tố về
mặt tố chất thể lực được đánh giá theo ba mức sau:
+ Rất quan trọng.
+ Quan trọng.
+ Bình thường.
Phỏng vấn tiến hành một lần đối với 8 giáo viên thể dục ở các trường THPT
trên địa bàn huyện.
Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn vai trò các tố chất thể lực
trong phát triển thành tích nhảy cao.
NHÓM

NỘI DUNG

Rất quan trọng

Quan trọng

Bình thường
6


Các tố chất

SL

TL %


SL

TL %

SL

TL %

Sức mạnh tốc độ

6

88%

2

12%

0

0%

Sức mạnh bộc phát

7

94%

1


6%

0

0%

Kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng 1, chứng tỏ hầu hết các thầy cô đều cho
rằng các tố chất phát triển sức mạnh bột phát và sức mạnh tốc độ có tác động lớn đến việc
nâng cao thành tích nhảy cao.
Trên thực tế trong sách giáo khoa thể dục lớp 11 có giới thiệu một số trò chơi, bài
tập bổ trợ, bài tập phát triển thể lực phát triển sức mạnh chân (trang 83- 86) trong sách
giáo khoa thể dục lớp 12 có giới thiệu một số bài tập bổ trợ, bài tập phát triển thể lực phát
triển sức mạnh chân (trang 85). Cũng dựa trên cơ sở hai tố chất thể lực phát triển sức
mạnh trên, chúng tôi xác định thêm được một số bài tập sau:
STT Bài tập về sức mạnh tốc độ

STT Bài tập về sức mạnh bộc phát

1

Chạy 30m xuất phát cao.

1

Bật xa tại chỗ

2

Chạy 30m tốc độ cao


2

Bật cao tại chỗ

3

Chạy 60m xuất phát cao

3

Bật cóc 15m

4

Chạy đạp sau 30m

4

Lò cò nhanh một chân 30m

Xong để xác định được các bài tập này có độ tin cậy và có giá trị sử dụng hay
không chúng tôi tiến hành phỏng vấn các giáo viên thể dục để đánh giá xác định độ tin
cậy của các bài tập đã đưa ra.
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn các bài tập phát triển sức mạnh
để nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh
T
T

SỐ PHIẾU
NỘI DUNG


ĐỒNG Ý KHÔNG ĐỒNG Ý

PHÁT
RA

THU
VÀO

SL

TL%

SL

TL%

1 Chạy 30 m xuất phát cao

8

8

7

94%

1

6%


2 Chạy 30 m tốc độc cao

8

8

7

94%

1

6%

3 Chạy 60 m xuất phát cao

8

8

5

89%

2

11%

4 Chạy đạp sau 30 m


8

8

8

100%

0

0%

5 Bật xa tại chỗ

8

8

7

94%

1

6%

6 Bật cao tại chỗ

8


8

8

100%

0

0%

7 Bật cao ôm gối trên hố cát

8

8

8

100%

0

0%

8 Lò cò một chân 30 m

8

8


8

100%

0

0%

Qua kết quả phỏng vấn thấy rằng trong 8 bài tập ở phiếu phỏng vấn đưa ra có tỷ
lệ đồng ý cao. Điều đó cho thấy độ tin cậy của các bài tập có giá trị thực tiễn trong huấn
7


luyện và giảng dạy. Từ kết quả trên tôi đưa toàn bộ 8 bài tập phát triển sức mạnh này
vào thực nghiệm.
2. Đánh giá hiệu quả của các bài tập trong quá trình giảng dạy
* Kết quả kiểm tra trước và sau tập luyện
- Trước khi tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành kiểm tra kết quả lần 1 (từ
20/10/2014) ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng và kiểm tra lần 2 sau 16 tuần
thực nghiệm (24/02/2015) tôi kiểm tra lần 2 để so sánh đánh giá thành tích giữa hai
nhóm nhằm đánh giá hiệu quả của các bài tập đã đưa vào thực nghiệm.
Sau khi tiến hành tính toán các số liệu thu thập được, chúng tôi có các tham số:
giá trị trung bình ( X ), độ lệch chuẩn ( δ ), Hệ số biến thiên (Cv%), Sai số tương đối ( ε
), T-student (t) của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Bảng 3.3: Kết quả kiểm tra của 2 nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm
(đơn vị tính : cm)
δx

X


Test

ε

CV%

TN

ĐC

TN

ĐC

TN

ĐC

TN

ĐC

Bật cao tại chổ

49.45

49.35

1.64


1.87

3.31

3.79

0.02

0.02

Nhảy cao có đà

127.75

128.00

8.81

8.94

6.89

6.99

0.03

0.03

Vậy thì sự khác biệt ở bảng trên có ý nghĩa không ? sẽ được tính và thể hiện

trong bảng: 3.4
Bảng 3.4. Sự khác biệt của nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm.
TN

ĐC

X ±δ

X ±δ

1 Bật cao tại chổ

49.45 ± 1.64

2 Nhảy cao có đà

127.75 ± 8.81

T
T

TÊN TEST

t

p

49.35 ±1.87

0.18


>0.05

128.00 ±8.94

0.04

>0.05

Qua bảng 3.4 cho thấy:
- Bật cao tại chỗ.
Có ttính = 0.18 < tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu
không có ý nghĩa thống kê.
- Nhảy cao có đà.
Có ttính = 0.04 < tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu
không có ý nghĩa thống kê.
Hay nói cách khác là có sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng nhưng không có ý nghĩa toán học. Vậy cho phép trong việc nghiên cứu.
Tôi thấy rằng các số liệu thu được trước và sau tập luyện đều có: Hệ số biến
thiên (Cv%) của các test đều nhỏ hơn 10%, phản ánh được đám đông số liệu là tương
8


đối đồng đều; Sai số tương đối ( ε ) đều < 0.05, nên giá trị trung bình mẫu đủ tính đại
diện.
Bảng 3.5. So sánh sự phát triển của nhóm thực nghiệm
trước (TTN) và sau thực nghiệm (STN).
TT

TÊN TEST


TTN

STN

X ±δ

X ±δ

W%

t

p

1

Bật cao tại chổ

49.45 ± 1.64

53.75 ± 2.22

8.33 17.79 <0.05

2

Nhảy cao có đà

127.75 ± 8.81


134.50 ± 7.05

5.15 9.00 <0.05

Qua bảng 3.5 cho thấy nhóm thực nghiệm có sự phát triển về sức mạnh tốc độ
trước và sau tập luyện cụ thể như sau:
- Bật cao tại chỗ.
+ Trước thực nghiệm có: X = 49.45 ± 1.64
+ Sau thực nghiệm có: X = 53.75 ± 2.22
So sánh cho thấy có sự phát triển với nhịp tăng trưởng W=8.83% với ttính =
17.79 > tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có ý nghĩa thống
kê.
- Nhảy cao có đà.
+ Trước thực nghiệm có: X = 127.75 ± 8.81
+ Sau thực nghiệm có: X = 134.50 ± 7.05
So sánh cho thấy có sự phát triển với nhịp tăng trưởng W=5.15% với
ttính = 9.00 > tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 3.6. So sánh sự phát triển của nhóm đối chứng
trước (TTN) và sau thực nghiệm (STN).
TT

TÊN TEST

TTN

STN

X ±δ


X ±δ

W%

t

p

1

Bật cao tại chổ

49.35 ± 1.87

51.45 ± 2.04

4.38 13.08 <0.05

2

Nhảy cao có đà

128.00 ± 8.94

129.75± 6.74

1.36 2.67

<0.05


Qua bảng 3.6 cho thấy nhóm đối chứng có sự phát triển về sức mạnh tốc độ
trước và sau tập luyện cụ thể như sau:
- Bật cao tại chỗ.
+ Trước thực nghiệm có: X = 49.35 ± 1.87
+ Sau thực nghiệm có: X = 51.45 ± 2.04
9


So sánh cho thấy có sự phát triển với nhịp tăng trưởng W= 4.38% với ttính =
13.08 > tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có ý nghĩa thống
kê.
- Nhảy cao có đà.
+ Trước thực nghiệm có: X = 128.00 ± 8.94
+ Sau thực nghiệm có: X = 129.75± 6.74
So sánh cho thấy có sự phát triển với nhịp tăng trưởng W=1.36% với
ttính = 2.67 > tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 3.7. So sánh sự phát triển của nhóm TN và nhóm ĐC sau thực nghiệm.
TT

TÊN TEST

Nhóm TN

Nhóm ĐC

X ±δ

X ±δ


t

p

1

Bật cao tại chổ

53.75 ± 2.22

51.45 ± 2.04

3.41

<0.05

2

Nhảy cao có đà

134.50 ± 7.05

129.75 ± 6.74

2.11

<0.05

Qua bảng 3.7 cho thấy:

- Bật cao tại chỗ.
Có ttính = 3.41> tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu
có ý nghĩa thống kê.
- Nhảy cao có đà.
Có ttính = 2.11> tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu
Test
có ý nghĩa thống kê.
Hay nói cách khác là có sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng.
Diễn biến nhịp độ tăng trưởng của hai nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng đều
tăng sau 16 tuần tập luyện. Kết quả kiểm tra của nhóm thực nghiệm có sự tăng trưởng cao,
đồng đều và ổn định hơn so với nhóm đối chứng.
Tóm lại: từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy qua 2 nội dung kiểm tra, nhóm
thực nghiệm đều phát triển hơn nhóm đối chứng, đạt sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với ngưỡng xác suất p < 0.05.
Hệ thống bài tập phát triển sức mạnh đã thể hiện tính hiệu quả đến việc huấn
luyện nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT.
Từ kết quả nghiên cứu cho phép nhận xét:
Qua nghiên cứu đã chọn được 8 bài tập phát triển sức mạnh cho học sinh nam
khối lớp 11 trường THPT .
10


Qua kiểm tra diễn biến nhịp tăng trưởng thành tích của học sinh ở 2 nhóm
thực nghiệm và đối chứng đều tăng, nhưng nhóm thực nghiệm có sự tăng trưởng cao,
đồng đều và ổn định hơn nhóm đối chứng.
Sau 16 tuần thực nghiệm sư phạm ở học sinh nam khối lớp 11 trường THPT
các bài tập huấn luyện phát triển sức mạnh có hiệu quả với độ tin cậy ở ngưỡng xác
suất thống kê P < 0.05.


11


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Từ những kết quả nghiên cứu trên cho phép rút ra những kết luận như sau:
1. Qua các bước nghiên cứu đề tài đã xác định được 8 bài tập phát triển sức
mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT
đảm bảo có giá trị thông báo và đủ độ tin cậy đó là:
STT Bài tập về sức mạnh tốc độ

STT Bài tập về sức mạnh bộc phát

1

Chạy 30m xuất phát cao.

1

Bật xa tại chỗ

2

Chạy 30m tốc độ cao

2

Bật cao tại chỗ

3


Chạy 60m xuất phát cao

3

Bật cóc 15m

4

Chạy đạp sau 30m

4

Lò cò nhanh một chân 30m

2. Sau 18 tuần tập luyện thành tích của cả 2 nhóm đều tăng vói nhịp tăng
trưởng từ 1,36%-8,33%. Tuy nhiên nhóm thực nghiệm tăng cao và đồng đều hơn nhóm
đối chứng.
II. Kiến nghị:
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài cho phép có một số kiến nghị như sau:
- Có thể sử dụng hệ thống các bài tập trên để đưa vào quá trình giảng dạy và
huấn luyện nội dung nhảy cao cho các trường
- Do chương trình ở bậc THPT chỉ có 2 tiết/tuần, vì vậy cần tăng cường thời
gian để tập luyện ngoại khóa cho học sinh, góp phần nâng cao sức khỏe.
- Cần mở rộng nghiên cứu này trên các đối tượng khác để hình thành hệ thống
bài tập phù hợp với các đối tượng, các lứa tuổi khác.

Vũ Quang, ngày 11 tháng 01 năm 2017
Người viết


Trần Văn Sỹ

12


13



×