ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
CHỦ ĐỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH VI MÔ
GVHD: PGS – TS Lê Vũ Nam
Thực hiện: Nhóm đề tài số 1
MỤC LỤC
1
Khái niệm tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô ............................................. 6
2
Các nguyên tắc cơ bản của tổ chức TCVM ............................................................. 8
3
Vai trò của tổ chức TCVM .................................................................................... 11
4
Giới hạn của tổ chức TCVM ................................................................................. 12
5
Thành lập tổ chức TCVM ...................................................................................... 14
6
7
8
9
5.1
Đối tượng thành lập ........................................................................................ 14
5.2
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép ........................................................................... 15
Cơ cấu tổ chức của tổ chức TCVM ....................................................................... 17
6.1
Hội đồng thành viên ........................................................................................ 17
6.2
Chủ tịch Hội đồng thành viên ......................................................................... 18
6.3
Tổng giám đốc (Giám đốc) ............................................................................. 19
6.4
Ban kiểm soát .................................................................................................. 21
Hoạt động của các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát của tổ chức TCVM 21
7.1
Hoạt động của Hội đồng thành viên ............................................................... 21
7.2
Hoạt động của Tổng giám đốc ........................................................................ 22
7.3
Hoạt động của Ban kiểm soát ......................................................................... 23
Hoạt động động kinh doanh cơ bản của tổ chức tài chính vi mô .......................... 24
8.1
Hoạt động huy động vốn ................................................................................. 24
8.2
Hoạt động cấp tín dụng ................................................................................... 26
8.3
Hoạt động khác của chương trình, dự án TCVM ........................................... 28
Bình luận ................................................................................................................ 29
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Danh sách tổ chức tài chính vi mô do Ngân hàng nhà
Bảng 1.1
nước Việt Nam công bố đến 30/6/2017
3
15
DANH MỤC VIẾT TẮT
TCTD
Tổ chức tín dụng
TCVM
Tài chính vi mô
NH
Ngân hàng
HĐTV
Hội đồng thành viên
VN
Việt Nam
4
LỜI MỞ ĐẦU
Sau những năm mở cửa và hội nhập, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể, mức thu nhập của người dân ngày được cải thiện. Tuy vậy, tỷ lệ nghèo của
Việt Nam vẫn còn ở mức khá cao. Với mục tiêu thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2011 - 2020, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã có nhiều chương trình hành động để thu hẹp khoảng chênh lệch giàu nghèo bằng
những chính sách xóa đói giảm nghèo, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động
của các tổ chức tài chính vi mô đã được cấp phép chính thức. Lần đầu tiên loại hình Tổ
chức tài chính vi mô được khẳng định là một loại hình tổ chức tín dụng trong hệ thống
các tổ chức tín dụng của Việt Nam quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng 2010. Tổ
chức tài chính vi mô là một dạng doanh nghiệp xã hội đặc biệt với mục tiêu hoạt động
là cung cấp dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có
thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ. Có thể nói, việc các tổ chức tài chính vi mô
được hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các Tổ chức tín dụng là một bước tiến dài
đối với lĩnh vực tài chính vi mô, đây là nền tảng pháp lý vững chắc để củng cố và phát
triển ổn định đối với các tổ chức tài chính vi mô. Trong bài viết này nhóm chúng tôi sẽ
trình bày về địa vị pháp lý của Tổ chức tài chính vi mô để mọi người có cái nhìn tổng
quan nhất về khuôn khổ pháp lý của tổ chức tài chính vi mô.
5
1
Khái niệm tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô
Khái niệm TCVM được rất nhiều nhà kinh tế và tổ chức đưa ra, dưới đây là một số
khái niệm:
Theo cách hiểu của nhóm tư vấn hỗ trợ người nghèo (CGAP)- The
Consultative Group to Assist the Poor: “TCVM là việc cung cấp các dịch
vụ tài chính cơ bản đáp ứng yêu cầu người nghèo như: “dịch vụ gửi tiết
kiệm, tín dụng, bảo hiểm, lương hưu, chuyển tiền…”
Theo PGS.TS Nguyễn Kim Anh và TS Lê Thanh Tâm thì: “TCVM là một
trong những cách thức phát triển kinh tế nhằm cung cấp các dịch vụ tài
chính, dịch vụ khác cho các đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội để
phục vụ nhu cầu chi tiêu và đầu tư.”
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) cho rằng: “TCVM là việc cung cấp
các dịch vụ tài chính như tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền
và bảo hiểm cho người nghèo và hộ gia đình có thu nhập thấp hoạt động
kinh danh cá thể và các doanh nghiệp nhỏ của họ”.
Đối chiếu với những quy định của pháp luật, hiện nay Luật TCTD 2010 đã có đề cập
đến tổ chức TCVM nhưng không giải thích khái niệm về TCVM. Tuy nhiên, những
văn bản hướng dẫn trước đây đã có đề cập đến TCVM nhưng lại là TCVM nhỏ. Theo
đó, tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 28/2005/NĐ-CP quy định như sau:
“Tài chính quy mô nhỏ là hoạt động cung cấp một số dịch vụ tài chính, ngân hàng
nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ gia đình
nghèo và người nghèo”
Và dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản ở đây bao gồm: tín dụng quy mô nhỏ;
nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc; tiền gửi tự nguyện; một số dịch vụ thanh toán cho
các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp (Khoản 1 Điều 1 Nghị định 165/2007/NĐCP).
6
Tổng hợp những khái niệm trên ta có thể hiểu TCVM là một trong những cách thức
phát triển kinh tế nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ khác cho các đối tượng
có thu nhập thấp trong xã hội để phục vụ nhu cầu chi tiêu và đầu tư.1
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật TCTD năm 2010 thì tổ chức TCVM là loại
hình TCTD chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
Hiện nay có 4 tổ chức tài chính vi mô do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố theo
bảng 1.1 sau:
DANH SÁCH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ
(Đến 30/6/2017)
TÊN TỔ CHỨC
ĐỊA CHỈ
TT TÀI CHÍNH VI
MÔ
SỐ GIẤY
VỐN
PHÉP
ĐIỀU
NGÀY CẤP
LỆ
SỐ
LƯỢNG
CHI
NHÁNH
Tầng 2 Lô A9/D5 Khu
Tổ chức tài chính vi đô thị mới Cầu Giấy, 16a/GP-NHNN
1
mô TNHH M7
Phường
Dịch
Vọng ngày 13/1/2012
15,5
3
135,8
18
6,1
04
hậu, Cầu Giấy, Hà Nội
Tổ chức tài chính vi Số 20 Thụy Khuê,
2 mô TNHH MTV phường Thụy Khê, Tây
Tình thương
Tổ chức tài chính vi
3 mô TNHH Thanh
Hóa
Hồ, Hà Nội
Số
9
Hàng
phường
Lam
181/GP-NHNN
ngày 17/8/2010
Nan,
Sơn, 65/GP-NHNN
Thành phố Thanh Hóa, ngày 22/8/2014
Thanh Hóa
1
truy cập ngày 28/03/2018
7
Tổ chức tài chính vi
mô TNHH MTV
4 cho người lao động
nghèo tự tạo việc
làm
Số 14C đường Cách
mạng
Tháng
Tám,
Quận 1, TP. Hồ Chí
Minh
1234/GP-HCM
ngày
500
08
28/10/2016
Đơn vị: Tỷ đồng
2
Các nguyên tắc cơ bản của tổ chức TCVM
Theo Luật Các TCTD năm 2010, trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh,
tổ chức TCVM phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tổ chức TCVM chỉ được thực hiện những hoạt động được pháp luật cho
phép và được quy định trong Giấy phép do NHNN quy định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 90 Luật các TCTD 2010: “TCTD không được tiến
hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động NH, hoạt động kinh doanh
khác ghi trong Giấy phép được NHNN cấp cho TCTD.” Như vậy, khác biệt với các
loại hình doanh nghiệp nói chung, sự ràng buộc của pháp luật đối với hoạt động của
TCTD nói chung và tổ chức TCVM nói riêng chặt chẽ hơn rất nhiều. Cụ thể, với
nguyên tắc mở rộng tối đa quyền năng của các chủ thể kinh doanh, pháp luật cho phép
các doanh nghiệp được quyền thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh, trừ những
vấn đề, những lĩnh vực bị cấm bởi chính pháp luật. Nói một cách khác, nguyên tắc
được áp dụng ở đây là: "được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Tuy nhiên,
nguyên tắc này sẽ không được áp dụng đối với các tổ chức TCVM – mặc dù cũng là
một chủ thể kinh doanh – bởi quy định nêu trên. Đối với hoạt động của các tổ chức
TCVM, xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động NH, pháp luật quy định tổ chức
TCVM chỉ được phép thực hiện các hoạt động do pháp luật cho phép và được quy
định trong Giấy phép do NHNN quy định. Nói một cách khác, tổ chức TCVM "chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép” mà thôi.
Thứ hai, tổ chức TCVM phải công bố công khai lãi suất và các mức phí cung ứng
dịch vụ Điều 91 Luật các TCTD 2010 quy định: “TCTD được quyền ấn định và phải
niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt
8
động kinh doanh của TCTD; TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất,
phí cấp tín dụng trong hoạt động NH của TCTD theo quy định của pháp luật; Trong
trường hợp hoạt động NH có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống
TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh
doanh của TCTD.”
Như vậy, trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức TCVM vấn đề "giá cả" cho các
dịch vụ mà chủ thể này cung ứng buộc phải được công bố công khai. Tuy nhiên, đối
với vấn đề lãi suất thì việc công khai cũng chỉ buộc phải đặt ra với lãi suất huy động.
Điều này có nghĩa là, việc huy động vốn của tổ chức TCVM không được phép thực
hiện khác so với mức đã công bố (không uộc họp của BKS cũng cần phải được ghi vào sổ biên bản của tổ chức TCVM và chủ
tọa cũng với thư ký phiên họp phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác
của biên bản đó.
23
8
Hoạt động động kinh doanh cơ bản của tổ chức tài chính vi mô
Về mặt bản chất, tổ chức TCVM là loại hình TCTD nhỏ và chủ yếu cung ứng các
dịnh vụ NH nhỏ, đơn giản cho đối tượng khách hàng là những đối tượng có thu nhập
thấp trong xã hội nên những hoạt động kinh doanh của chủ thể này cũng khá đơn
giản. Bao gồm các hoạt động sau:
8.1 Hoạt động huy động vốn
Đây là một nội dung vô cùng quan trọng đối với các TCTD nói chung và tổ chức
TCVM nói riêng bởi huy động vốn chính là hoạt động tạo ra phương tiện để thực hiện
các hoạt động kinh doanh khác của tổ chức TCVM. Nói một cách khác, hoạt động này
có thể hiểu là nền tảng để tổ chức TCVM xúc tiến các hoạt động kinh doanh khác
nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Việc huy động vốn của các TCTD rất đa dạng
vì có thể được thực hiện dưới rất nhiều các hình thức khác nhau như nhận tiền gửi,
phát hành các loại giấy tờ có giá hay đi vay của các chủ thể khác. Tuy nhiên, do đặc
thù của tổ chức TCVM là những TCTD có quy mô nhỏ, đối tượng khách hàng chủ
yếu là người có thu nhập thấp và nội dung hoạt động cũng chỉ là những hoạt động NH
đơn giản nên hoạt động huy động vốn của tổ chức TCVM cũng có nhiều hạn chế
hơn so với các loại hình TCTD khác. Cụ thể, theo quy định tại Điều 119 Luật các
TCTD 2010, tổ chức TCVM chỉ được huy động vốn dưới các hình thức sau đây:
Thứ nhất, nhận tiền gửi tiết kiệm bằng tiền đồng Việt Nam. Cụ thể, tổ chức TCVM
có thể nhận tiền gửi tiết kiệm dưới cả hai hình thức: (i) tiết kiệm bắt buộc và tiết kiệm
tự nguyện.
Tiết kiệm bắt buộc, theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg là
số tiền mà khách hàng tài chính vi mô phải gửi theo quy định của chương trình, dự án
tài chính vi mô. Còn theo Khoản 8 Điều 3 Thông tư 03/2018/TT-NHNN Quy định về
cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô sắp có hiệu lực vào
15/4/2018 thì còn bổ sung thêm “Tổ chức tài chính vi mô có trách nhiệm quy định và
phải công bố công khai mức tiền gửi tiết kiệm bắt buộc và mức lãi suất tiết kiệm bắt
buộc.” Như vậy, tổ chức TCVM chắc chắn có được một nguồn vốn nhất định, dù
không thực sự lớn, từ kênh huy động này.
Tiết kiệm tự nguyện, theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg
là số tiền khách hàng tài chính vi mô tự nguyện gửi vào chương trình, dự án tài chính
24
vi mô. Còn theo Khoản 8 Điều 3 Thông tư 03/2018/TT-NHNN Quy định về cấp Giấy
phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô sắp có hiệu lực vào 15/4/2018
thì cụ thể hóa và bổ sung thêm điều kiện: Tiền gửi tự nguyện là tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm (không bao gồm tiết kiệm bắt buộc), trừ tiền
gửi nhằm mục đích thanh toán của khách hàng tài chính vi mô, tổ chức, cá nhân khác
tại tổ chức tài chính vi mô.
Trong trường hợp này, việc gửi – nhận tiền gửi giữa khách hàng và tổ chức TCVM
xuất hiện hoàn toàn dựa trên cơ sở sự tự do ý chí của các bên, tức là cũng giống như
việc khách hàng gửi tiền tiết kiệm tại các TCTD được nhận tiền gửi tiết kiệm khác
trong xã hội.
Thứ hai, hoạt động vay vốn của tổ chức TCVM. Do nguồn vốn huy động được từ
kênh nhận tiền gửi tiết kiệm là không lớn nên để đảm bảo tổ chức TCVM có đủ nguồn
vốn để hoạt động, Luật các TCTD 2010 và các văn bản pháp luật hiện hành cho phép
tổ chức TCVM được huy động vốn thông qua việc đi vay của các chủ thể khác dưới
các hình thức sau đây12:
Tiếp nhận vốn tài trợ, viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại của chính phủ, tổ
chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
Ở hình thức này, thực chất khoản 2 Điều 119 Luật các TCTD 2010 chỉ ghi nhận việc
”vay vốn” mà không đề cập đến hoạt động ”tài trợ” tuy nhiên, Điểm 53.1 Thông tư
02/2008/TT-NHNN có quy định về hoạt động ”tài trợ” của cá nhân, tổ chức nước
ngoài đối với các tổ chức TCVM. Sở dĩ chúng tôi đưa hoạt động tài trợ vào phương
thức huy động vốn này bởi hai lý do: (i) hoạt động này có được quy định bởi pháp luật
và (ii) theo khảo sát thực tế, tuyệt đại đa số các chương trình, dự án hoạt động TCVM
ở Việt Nam đều bắt đầu bằng những nguồn vốn tài trợ (không hoàn lại) của các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài, thậm chí chính những tổ chức TCVM đang tồn tại
hiện nay thực chất là được chuyển đổi từ một số các chương trình, dự án hoạt động
TCVM và các chương trình, dự án này được hình thành chính bởi các nguồn tài trợ
Khoản 1 Điều 13 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg Quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi
mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức phi Chính phủ.
12
25
nước ngoài13. Điều cần lưu ý là, khác với hai hình thức huy động vốn nêu trên, ở hình
thức này tổ chức TCVM có thể nhận tiền vay, tiền tài trợ bằng ngoại tệ nhưng phải
thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc, tiền gửi tiết kiệm tự nguyện của khách hàng
tài chính vi mô. Tổng mức tiền gửi tiết kiệm tự nguyện không vượt quá 30%
tổng vốn được cấp của chương trình, dự án tài chính vi mô;
Vay tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, tổ chức trong nước và nước ngoài theo
quy định của pháp luật.
Lưu ý việc vay vốn chỉ được thực hiện với đồng tiền giao dịch là tiền đồng Việt
Nam14. Như vậy, hoạt động huy động vốn của các tổ chức TCVM chỉ bao gồm ba
hình thức kể trên. Điều này có nghĩa là tổ chức TCVM không được phép thực hiện
việc huy động vốn dưới bất kỳ hình thức nào khác. Kể cả việc phát hành các loại giấy
tờ có giá hay vay trực tiếp từ NHNN...Nói một cách ngắn gọn, hoạt động huy động
vốn của tổ chức TCVM khá đơn giản và thể hiện đúng bản chất của tổ chức TCVM là
”thực hiện một số hoạt động NH đơn giản”.
8.2 Hoạt động cấp tín dụng
Bên cạnh hoạt động huy động vốn, một nội dung khác trong hoạt động NH của các tổ
chức TCVM chính là hoạt động cấp tín dụng. Đây là hoạt động hết sức quan trọng với
tổ chức TCVM bởi phần lớn nguồn thu nhập của tổ chức được tạo ra từ chính hoạt
động này. Ngoài ra, khách hàng TCVM tiếp cận đến các nguồn tài chính của TCVM
cũng được thực hiện thông qua hoạt động này. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 120
Luật các TCTD 2010 và khoản 1 Điều 3 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg thì Hoạt động
tài chính vi mô bao gồm việc cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng tài
chính vi mô, nhận tiền gửi tiết kiệm của khách hàng tài chính vi mô dưới hình thức
tiền gửi tiết kiệm bắt buộc, tiền gửi tiết kiệm tự nguyện. Như vậy hiểu là hoạt động
Quỹ TYM được thành lập năm 1992 do SIDA Thụy Điển và UNFPA tài trợ; Mạng lưới M7 được hình thành
bởi nguồn tài trợ của ACTIONAID năm 1993.
14
Điểm 53.1 Thông tư 02/2008/TT-NHNN Hướng dẫn thực hiện nghị định số 28/2005/nđ-cp ngày 09 tháng 3
năm 2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt nam và Nghị định
số 165/2007/nđ-cp ngày 15 tháng 11 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị
định số 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính
quy mô nhỏ tại VN
13
26
cấp tín dụng của tổ chức TCVM chỉ được thực hiện dưới duy nhất hình thức cho vay
và cũng chỉ được cho vay bằng tiền đồng Việt Nam mà thôi. Đây cũng là điều dễ hiểu
bởi đối tượng khách hàng chủ yếu của TCVM là cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận
nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình, cá nhân có thu nhập thấp,
doanh nghiệp siêu nhỏ. Họ chỉ thực hiện những khoản vay có giá trị nhỏ để thực hiện
các hoạt động kinh doanh nhỏ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản
thân cũng như của gia đình nên không phát sinh nhu cầu sử dụng ngoại tệ.
Điều này nhắm đến mục đich đáp ứng nhu cầu của khách hàng tài chính vi mô, không
vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần tạo việc làm, thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Vì thế
mà việc bảo đảm nghĩa vụ trả nợ thông thường được thực hiện dựa trên khoản tiền tiết
kiệm bắt buộc mà khách hàng phải gửi tại tổ chức TCVM và/hoặc sự bảo đảm của
nhóm khách hàng tiết kiệm và vay vốn. Có thể nói, đây chính là đặc trưng hết sức cơ
bản thể hiện sự khác biệt căn bản của TCVM với các hoạt động cấp tín dụng của các
TCTD khác trong xã hội. Việc cho vay đối với khách hàng tài chính vi mô theo
nguyên tắc:15
Tự chủ trong hoạt động cho vay và chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của
mình;
Theo thỏa thuận giữa chương trình, dự án tài chính vi mô và khách hàng tài
chính vi mô, bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật. Nội dung thỏa thuận
về cho vay giữa chương trình, dự án tài chính vi mô và khách hàng tài chính vi
mô phải được lập thành văn bản, trong đó tối thiểu có nội dung về quyền, trách
nhiệm bên cho vay và bên vay; mục đích sử dụng vốn vay; thời hạn cho vay;
mức cho vay; thời hạn hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay; lãi suất cho vay và hình
thức bảo đảm tiền vay;
Lãi suất cho vay phù hợp với quy định của pháp luật, điều kiện cụ thể của
chương trình, dự án tài chính vi mô, kế hoạch tài chính vi mô, bù đắp đủ chi
phí hoạt động, tăng trưởng và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Khoản 2 Điều 13 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg Quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi
mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức phi Chính phủ.
15
27
Bên cạnh đó khách hàng tài chính vi mô cũng phải có các điều kiện như có năng lực
pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật về dân sự; việc
cho vay được đảm bảo bằng tiền gửi tiết kiệm bắt buộc và/hoặc bảo lãnh của nhóm
khách hàng tài chính vi mô; mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Khoản 2 Điều 120 Luật các TCTD 2010 đưa ra quy định: “Tổ chức tài chính vi mô
phải duy trì tỷ lệ tổng dư nợ các khoản cấp tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình có thu
nhập thấp, doanh nghiệp siêu nhỏ trong tổng dư nợ cấp tín dụng không thấp hơn tỷ lệ
do NHNN quy định.” Tỷ lệ này hiện đang được NHNN quy định tại Điểm 53.2 Thông
tư 02/2008/TT-NHNN là 65%. Như vậy, so với các TCTD khác thì hoạt động cấp tín
dụng của tổ chức TCVM bị giới hạn khá chặt cả về hình thức cấp cũng như giá trị của
khoản tín dụng. Chúng tôi cho rằng, đây cũng là điều hợp lý bởi hai lý do: (i) xuất
phát từ bản chất của hoạt động TCVM chỉ là những hoạt động NH đơn giản, có giá trị
nhỏ; (ii) tiềm lực tài chính của chính các tổ chức TCVM cũng chỉ dừng lại ở mức độ
hạn chế nên để đảm bảo an toàn, tổ chức TCVM không thể thực hiện được các hình
thức cấp tín dụng khác cũng như những khoản vay có giá trị lớn. Việc cho phép tổ
chức TCVM được mở rộng hoạt động tín dụng sang những đối tượng không phải là
khách hàng TCVM ở một mức độ nhất định cũng là một cách tiếp cận hợp lý nhằm
giúp tổ chức TCVM có thể sử dụng vốn hiệu quả hơn mà vẫn đảm bảo được tôn chỉ,
mục đích của mình là trợ giúp những đối tượng khó khăn trong xã hội. Cuối cùng,
mức cho vay tối đa đối với một khách hàng tài chính vi mô không vượt quá 50 triệu
đồng Việt Nam.
8.3 Hoạt động khác của chương trình, dự án TCVM
Bên cạnh các hoạt động cho vay và vay vốn thì các chương trình, dự án TCVM còn có
các hoạt động được quy định tại Khoản 3 Điều 13 Quyết định 20/2017/QĐ-TTg như:
Nhận ủy thác cho vay của tổ chức, cá nhân, chương trình, dự án tài chính vi mô
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ để cho
vay đối với khách hàng tài chính vi mô, không vì mục tiêu lợi nhuận;
Mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại;
28
Đại lý cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đối với khách hàng tài chính vi mô
theo quy định của pháp luật;
Tư vấn, hỗ trợ, đào tạo cho các khách hàng tài chính vi mô các kiến thức liên
quan đến sử dụng vốn vay, sản xuất, kinh doanh, đời sống, xã hội, môi trường
và các kiến thức khác nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đời sống
vật chất, tinh thần của khách hàng tài chính vi mô.
9
Bình luận
Thứ nhất, về hoạt động mở tài khoản của tổ chức TCVM:
Hiện nay khoản 2 Điều 121 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 mới chỉ đề cập đến
việc không cho phép tổ chức TCVM mở tài khoản thanh toán cho khách hàng mà
chưa đề cập đến tài khoản tiền gửi. Về nguyên tắc, theo quy định tại Điều 90 Luật Các
tổ chức tín dụng năm 2010, thì với cách quy định như khoản 2 Điều 121, tổ chức
TCVM sẽ không được mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng tại tổ chức TCVM. Đây
là quy định bất hợp lý bởi việc tổ chức TCVM mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng
không hề ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hay sự an toàn của tổ chức này cũng
như an toàn tiền gửi của khách hàng mà trái lại, sẽ giúp cho hoạt động của tổ chức
TCVM thuận lợi hơn khá nhiều, vì vậy, nên cho phép tổ chức TCVM được mở tài
khoản tiền gửi cho khách hàng của mình, bao gồm cả khách hàng TCVM và các
khách hàng khác (nếu có).
Điều này đã được khắc phục thông qua khoản 6 Điều 32 thông tư 03/2018/TT-NHNN
Quy định về cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô được
ban hành và có hiệu lực vào ngày 15/4/2018 tới đây. Tổ chức tài chính vi mô được mở
tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại. Tổ chức tài chính
vi mô không được mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Việc sửa đổi này sẽ giúp
tổ chức TCVM thuận lợi hơn khi thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, đối với quy định về các trường hợp không được cho vay:
Theo Điều 126 Luật các TCTD 2010. Nhìn vào cách tiếp cận của Điều 126 Luật các
TCT 2010 có thể thấy sự tiếp cận khá lộn xộn và không nhất quán của quy định này
đối với các hoạt động cấp tín dụng của tổ chức TCVM. Cụ thể, việc Khoản 2 Điều
29
126 miễn trừ áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều này đối với tổ chức TCVM là không
hợp lý bởi các lý do sau đây:
Một là, không thể có cơ sở lý luận cũng như thực tiễn để lý giải một cách hợp lý cho
sự miễn trừ này bởi về nguyên tắc, việc cho những đối tượng quy định tại Khoản1
Điều 126 vay cũng hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của tổ chức TCVM;
Hai là, sự tồn tại của Khoản 2 Điều 126 làm cho quy định tại Khoản 3 Điều này trở
nên lủng củng và thiếu tính khoa học khi cấm cho vay đối với các khách hàng được
bảo đảm bởi các đối tượng nêu tại Khoản 1 Điều 126 song chính những đối tượng này
lại không bị cấm cho vay;
Ba là, sự tồn tại của Khoản 2 Điều 126 còn làm cho các đối tượng quy định tại Khoản
1 Điều này không bị hạn chế cấp tín dụng (không được cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản) theo quy định tại Điều 127. Điều này dẫn đến thực trạng là, đối tượng có
nguy cơ cao gây mất an toàn vốn cho tổ chức TCVM không bị cấm cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản và đối tượng có nguy cơ thấp hơn lại bị cấm.
Từ những lý do trên đây, nhằm đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh nói
riêng và sự an toàn tổ chức nói chung của tổ chức TCVM chúng tôi kiến nghị: bãi bỏ
quy định miễn trừ áp dụng khoản 1 Điều 126 đối với các tổ chức TCVM – tức là sửa
đổi Khoản 2 Điều 126 Luật các TCTD 2010 theo hướng, tổ chức TCVM vẫn phải tuân
thủ quy định về các trường hợp không được cho vay theo quy định tại Khoản 1 Điều
126 Luật các TCTD 2010.
Thứ ba, cần xây dựng và ban hành cơ chế áp dụng phí và lãi suất cho vay để điều
chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức TCVM:
Mặc dù là một phương thức xóa đói, giảm nghèo nhưng các tổ chức TCVM vẫn phải
tự tồn tại mà không có bất cứ sự trợ cấp về mặt tài chính nào. Chính vì vậy, hoạt động
kinh doanh của tổ chức TCVM buộc phải tạo ra chênh lệch thu chi để đảm bảo sự tồn
tại của chính mình. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động TCVM thường có chi phí lớn
hơn so với các loại hình TCTD khác do những đặc thù của chính lĩnh vực này: Giá trị
khoản vay nhỏ, địa bàn hoạt động phức tạp và nguồn nhân lực chất lượng không
cao… Thực trạng này cho thấy, nếu áp dụng cơ chế tính lãi suất, phí như các NHTM
30
thì tổ chức TCVM khó có thể có lợi nhuận và vì thế để đảm bảo sự tồn tại, chủ thể này
cần phải áp dụng một mức lãi suất cũng như mức phí (nếu có) cao hơn so với các
TCTD khác.
Bên cạnh đó, việc huy động vốn của tổ chức TCVM cũng không thuận lợi nếu áp
dụng mức lãi suất tiền gửi như các TCTD khác bởi rất nhiều lý do như: Trụ sở giao
dịch không thuận tiện bằng các TCTD khác; sự hiểu biết của xã hội về tổ chức TCVM
còn hạn chế cũng như quy mô của tổ chức TCVM thường là khá nhỏ nên cũng rất khó
để tạo ra sự tin tưởng đối với người gửi tiền... Chính vì vậy, để có cơ hội huy động
được vốn, tổ chức TCVM cũng cần phải cạnh tranh với các TCTD khác bằng việc áp
dụng mức lãi suất tiền gửi cao hơn so với các TCTD khác. Như vậy, để có thể thực
hiện được hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu quả, tổ chức TCVM phải
được áp dụng một cơ chế quản lý về phí và lãi suất khác hơn so với các TCTD khác
trong nền kinh tế. Do đó, cần ban hành văn bản quy định về cơ chế áp dụng lãi suất và
phí đối với các tổ chức TCVM mà không áp dụng các quy định dành cho tất cả các
TCTD nói chung. Về nguyên tắc, cần phải nghiên cứu và tính toán chi tiết để đưa ra
mức lãi suất, phí áp dụng đối với các tổ chức TCVM phải cao hơn so với mức áp dụng
cho các TCTD khác nhằm đảm bảo cho chủ thể này có lợi nhuận để duy trì sự tồn tại
của mình.
31
KẾT LUẬN
Tổ chức TCVM dù không ồn ào như những chủ thể khác của thị trường tài chính - tiền
tệ khi không có những hợp đồng tín dụng giá trị nghìn tỷ với những khách hàng là các
tập đoàn kinh tế lớn song, khi khách hàng của TCVM tuyệt đại đa số là bộ phận có thu
nhập thấp thì giá trị xã hội mà những hoạt động này đưa đến lại không hề đơn giản:
Một công cụ hữu hiệu cho cuộc chiến xóa đói giảm nghèo. Vì thế để đạt được hiệu
quả hoạt tối ưu nhất của các tổ chức TCVM rất cần một khung pháp luật thật sự phù
hợp với Việt Nam.
32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Luật Doanh nghiệp 2014
2. Luật Tổ chức tín dụng 2010
3. Quyết định 20/2017/QĐ-TTg Quy định về hoạt động của chương trình, dự án
tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức phi
Chính phủ.
4. Thông tư 02/2008/TT-NHNN Hướng dẫn thực hiện nghị định số 28/2005/nđ-cp
ngày 09 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức
tài chính quy mô nhỏ tại Việt nam và Nghị định số 165/2007/nđ-cp ngày 15
tháng 11 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của
Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại VN
5. Thông tư số 43/2011/TT-NHNN ngày 20/12/2011 của Thống đốc NHNN
CÁC NGUỒN KHÁC
1. ham-y-chinh-sach-20180111022331978p0c488.htm, truy cập ngày
28/03/2018
2. Nguyễn Thái Hà, Luận văn Pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở VN, 2015
3. Quỹ TYM được thành lập năm 1992 do SIDA Thụy Điển và UNFPA tài trợ;
Mạng lưới M7 được hình thành bởi nguồn tài trợ của ACTIONAID năm 1993
4. Trang web Ngân hàng Nhà nước VN
/>7930111000
33
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT
Họ và tên
MSSV
1
Võ Ngọc Lan Chi
K155011135
2
Nguyễn Thị Hải Nghi
K155011168
3
Trần Thị Quỳnh Như
K155031395
4
Nông Thị Nga
K155031554
34