Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NHỮNG vấn đề CHUNG của KINH tế học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 25 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KINH TẾ HỌC
I: CO GIÃN CỦA CUNG VÀ CẦU
Ta thấy là đường cầu và đường cung là các đường thẳng có độ dốc. Độ dốc này thể
hiện mức độ nhạy cảm về giá của cả người bán và người mua. Trong kinh tế học
người ta gọi đó là hệ số co giãn
1. Co giãn của cầu theo giá hàng hóa

Chúng ta thấy khi giá di chuyển từ P1 xuống P2 thì lượng cầu tăng thêm ở H3 lớn
hơn nhiều với ở H2 nguyên nhân là do độ dốc của hình 2 lớn hơn độ dốc của hình
3.
Ví dụ như tăm tre chẳng hạn; đường cầu tăm tre sẽ gần thẳng đứng, nó thể hiện là
cho dù giá tăm có tăng gấp đôi thì lượng cầu tăm tre cũng không suy giảm là bao do
phần tăng thêm không ảnh hưởng nhiều tới người tiêu dùng. Hay đối với những
hàng hóa ta rất ít khi dùng hoặc bắt buộc phải dùng thì nó cũng sẽ dốc.
Đối với lương thực thực phẩm thì người tiêu dùng nhạy cảm hơn do phải dùng hàng
ngày. Khi giá một mặt hàng như thịt lợn chẳng hạn tăng lên thì lượng cầu sẽ giảm
xuống; vì hoặc là không ăn hoặc là mua các mặt hàng thay thế như thịt bò, thịt gà.
Ta gọi cái này là hệ số co giãn và có công thức:

Hệ số co giãn của cầu theo giá
được định nghĩa bằng % thay đổi của lượng
cầu chia cho % thay đổi giá của giá với giả đinh các yếu tố khác không thay đổi.
Hệ số co giãn là một số âm do giá và sản lượng có mối quan hệ nghịch chiều. Giá
tăng thì lượng cầu giảm mà giá giảm thì lượng cầu tăng; ví dụ nếu giá đều chỉnh


tăng 5% thì lượng cầu sẽ điều chỉnh giảm nên nó là số âm ví dụ -10%. Hệ số co
giãn của cầu theo giá là một số giá trị tuyệt đối nhưng ngầm định đó là số âm.
Nếu cầu có công thức P = b + aQ ( chú ý là đôi khi ta viết ngược lại Q=c+dP; về
bản chất là không sao; quan trọng là Q và P phải nghịch đảo có nghĩa là hệ số a hay
d phải là số âm). Thì công thức tính của cầu:



(Trong công thức này vì là P=b+aQ nên sẽ là 1/a; còn nếu công thức của cầu
là Q=c+dP thì sẽ là

= d*(P/Q)

Các trường hợp của hệ số co giãn cầu:
0<
< 1: Cầu không co giãn, đường cầu dốc: % thay đổi trong lượng cầu ít hơn %
thay đổi trong lượng giá
> 1: Cầu co giãn, đường cầu thoải: % thay đổi trong lượng cầu nhiều hơn % thay
đổi trong giá.
= 1: Cầu co giãn đơn vị (% thay đổi của giá và % thay đổi của lượng cầu bằng
nhau): sự thay đổi % trong lượng cầu bằng % thay đổi trong lượng giá (Tử số và
mẫu số bằng nhau)
= 0: Cầu hoàn toàn không co giãn, đường cầu thẳng đứng: lượng cầu không thay
đổi khi giá thay đổi
= ∞: Cầu hoàn toàn co giãn, đường cầu nằm ngang: Khi lượng cầu thay đổi rất
lớn mà giá không thay đổi.


Các yếu tố ảnh hưởng tới hệ số co giãn:
– Tính chất thay thế của hàng hóa: ví dụ thay vì ăn thịt lợn thì có thể ăn thịt bò
– Thời gian: càng dài thì cầu sẽ càng co giãn vì với thời gian dài thì người ta sẽ tìm
thấy sản phẩm thay thế do vậy có nhiều lựa chọn hơn là với một khoảng thời gian
ngắn.
– Tỷ trọng hàng hóa trong thu nhập của người tiêu dùng càng cao thì cầu càng co
giãn. Giống như trường hợp của tăm tre, do tỷ trọng quá thấp nên ta không quan
tâm tới; nhưng nếu là thịt lợn hay gạo thì vấn đề lại khác hẳn.
2. Co giãn của cung theo giá hàng hóa:

Tương tự với cầu, đường cung cũng có độ dốc và độ dốc này cũng thể hiện mức độ
nhạy cảm với giá bán của nhà sản xuất. Thông thường việc tăng sản lượng là một
sự đánh đổi theo mô hình đường giới hạn năng lực sản xuất ta đã biết. Khi sản xuất
thêm một mặt hàng hóa A thì sẽ phải đánh đổi với một lượng hàng hóa B và càng
ngày chi phí cơ hội sẽ càng tăng dần.


Trong sơ đồ ta thấy khi giá tăng từ P2 lên P1 thì sản lượng đều tăng nhưng ở H3
nhiều hơn ở H2.
Công thức tính hệ số co giãn của cung

Công thức của cung P= b + aQ

Dựa vào công thức này ta có thể suy ra rằng hệ số a càng lớn thì càng ít co giãn; hệ
số a càng nhỏ thì càng co giãn.
Ảnh hưởng của co giãn


Hệ số Co giãn và ứng dụng:
1. Co giãn và Chính sách thuế
Giả sử chính phủ đánh thuế t/sp bán ra. Người bán hàng sẽ cộng thuế vào giá bán;
vì vậy công thức cung từ P=b + aQ thành P=b + t + aQ.


Như vậy đường cung mới sẽ là St thay vì S như cũ. Cân bằng cung cầu chuyển
từ E tới E1. Tùy thuộc vào hệ số co giãn của đường cầu mà lượng mua sẽ giảm
nhiều hay ít.
Giá P2 là giá tại sản lượng cần bằng E1 trong khi đáng nhẽ người bán phải bán với
giá P3=P1+t thì mới đẩy hết thuế về phía người tiêu dùng. Vì vậy trong trường hợp
thuế tăng thêm t thì người tiêu dùng sẽ chịu thiệt là b=P2-P1 và nhà sản xuất sẽ

chịu thiệt là a=t-(P2-P1)
Như vậy ta thấy đường cầu càng ít co giãn thì người tiêu dùng càng thiệt và sản
lượng giảm càng ít. Chính phủ khi tăng thuế sẽ tập trung vào hàng hóa đường cầu ít
co giãn vì nếu làm ngược lại thì sản lượng giảm khiến cho tổng thu thuế giảm trong
khi mục đích của tăng thuế là tăng nguồn thu.
Chú ý thuế này là thuế đánh vào toàn bộ hàng hóa, khác với mô hình trong bài thuế
quan là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu.
2. Co giãn và doanh thu
Doanh thu bằng giá bán nhân với số lượng bán. Vì để bán được thì phải có người
mua nên doanh thu là theo hàm cầu.
Tại giá P2 doanh thu = P2 *Q2 = Tr1 +TR
Tại giá P1 doanh thu = P1*Q1= Tr2 + TR


Ta thấy là trong trường hợp đường cầu không co giãn (
< 1 ) thì khi tăng giá
từ P2 lên P1 thì doanh thu cũng tăng một lượng là TR2-TR1. Trong trường hợp này
giá tỷ lệ thuận với doanh thu.
Trường hợp cầu hoàn toàn không co giãn (
giá; doanh thu tăng theo giá.

= 0) thì người mua sẽ mua bằng mọi

Trường hợp cầu co giãn đơn vị ( = 1) thì tăng hay giảm giá thì doanh thu cũng
không đổi và tổng doanh thu là tối đa.
Trường hợp cầu co giãn ( > 1) thì khi giá tăng từ P2 lên P1 doanh thu cũng bị
giảm đi một lượng TR1-TR2. Mặc dù mỗi đơn vị hàng giá bán cao hơn nhưng vì
lượng hàng bán ít hơn nên doanh số cũng ít hơn. Trường hợp này giá tỷ lệ nghịch
với doanh thu.
3. Co giãn của cầu theo hàng hóa liên quan (co giãn chéo)

Hàng hóa liên quan có hai nhóm 1.Bổ sung: là những hàng hóa khi sử dụng phải sử
dụng cùng nhau như xe với xăng xe, bếp gas với gas, tivi với giá điện,…. và 2.Thay
thế: là hàng hóa khi mà lợi ích mang lại khi sử dụng tương đối giống nhau như Coca
và Pepsi; như máy giặt Mitsu và máy giặt samsung,…
Cầu co giãn là % thay đổi lượng cầu hàng hóa này chia cho % thay đổi của giá hàng
hóa liên quan.


-X và Y là hai hàng hóa bổ sung: Khi giá X tăng thì lượng cầu Y sẽ giảm (khi giá gas
tăng thì cầu bếp gas giảm) :
<0
– X và Y là hai hàng hóa thay thế: Khi giá X tăng thì lượng cầu Y tăng (khi tăng giá
Pepsi thì Coca sẽ bán được nhiều hơn):
> 0
4. Co giãn của cầu theo thu nhập:
Thu nhập càng tăng thì người tiêu dùng ngày càng có khả năng mua vì vậy cùng
một mức giá bán lượng cầu sẽ tăng lên.
Co giãn của cầu theo thu nhập là % thay đổi lượng cầu chia cho % thay đổi thu
nhập và có công thức.

Tuy nhiên không phải hàng hóa nào cũng tăng lượng cầu khi thu nhập tăng mà còn
tùy thuộc nó thuộc nhóm nào:
1. Hàng hóa cấp thấp: khi thu nhập tăng lên thì người ta chuyển sang dùng loại
hàng chất lượng cao, xịn hơn nên lượng cầu của hàng hóa này sẽ giảm ( <0)
2. Hàng thông dụng: khi thu nhập tăng thì lượng cầu tăng:
+ Hàng hóa thiết yếu: (0< ≤1)
+ Hàng hóa cấp cao (xa xỉ): ( >1)

Nghiên cứu ứng dụng thực tiễn tại bài Quản trị chiến lược


Những điều cần ghi nhớ:
– Dưới góc độ hình học thì co giãn thể hiện độ dốc của đường cầu hoặc cung.
– Nếu đường cung, cầu không dốc thì nó song song với trục sản lượng; người ta gọi
là co giãn hoàn toàn.
– Nếu đường cung, cầu thẳng đứng thì nó song song với trục giá; người ta gọi là
hoàn toàn không co giãn.
– Nếu biến động của giá ít gây ảnh hưởng tới sản lượng thì gọi là không co giãn.
– Nếu biến động của giá gây ảnh hưởng nhiều tới sản lượng thì gọi là co giãn.


– Nếu biến động của giá gây ảnh hưởng đúng bằng với biến động của sản lượng thì
gọi là co giãn đơn vị.
– Ý nghĩa của hệ số co giãn là nó thể hiện mức độ ảnh hưởng của biến động giá tới
sản lượng.
– Để tính co giãn tại một điểm của cung hay cầu ta đạo hàm hàm cung cầu theo giá
sau đó nhân với P/Q trong đó P và Q là giá và sản lượng tại điểm đó.
– Doanh thu phải tính theo hàm cầu nên độ co giãn của hàm cầu có ảnh hưởng tới
quyết định tăng giảm sản lượng của DN từ đó tác động tới doanh thu. Độ co giãn
của cung trong trường hợp này chỉ liên quan tới vấn đề làm sao doanh nghiệp đạt
được lợi ích nhất có thể vì việc tăng hay giảm sản lượng đều phải trả giá bởi chi phí
cơ hội.
– Co dãn chéo thể hiện mức độ ảnh hưởng của biến động giá sản phẩm Y ảnh
hưởng tới sản lượng của sản phẩm X. Vì vậy công thức tính là đạo hàm của hàm
cầu sản phẩm X theo giá nhân với giá sản phẩm Y chia cho sản lượng của X.

II: CHỈ SỐ CPI VÀ LẠM PHÁT
Cứ đầu mỗi tháng trên tivi phát thanh viên thường hay nhắc đến chỉ số CPI của
tháng trước đó và đánh giá về mức độ tăng giảm của CPI. Đây cũng là chỉ số mà
người dân quan tâm nhất và câu cửa miệng là tốc độ tăng của lương không theo kịp
tốc độ tăng của hàng hóa.

Bảng dưới là bảng CPI (Consumer Price Index) của tháng 1/2014. Con số ta đặc
biệt quan tâm là con số của kỳ gốc 2009.


“Chỉ số giá tháng 1 năm 2014 so với kỳ gốc 2009” có nghĩa là người ta tính theo
công thức sau:

Đơn vị của CPI là %.
Tạm hiểu là % tăng thêm khi tháng 1/2014 bỏ tiền ra mua một giỏ hàng của năm
2009. Xét bảng trên và công thức thì CPI của năm 2009 sẽ bằng 100%; và hiện CPI
của tháng 1/2014 là 156,78%.
Tương tự nếu đặt ở mẫu số là lượng và giá của tháng 12/2013 thì ta có CPI bằng
100,69%. Tạm hiểu là chúng ta phải chi thêm 0,69% khi mua giỏ hàng tháng 1/2014
thay vì mua cũng giỏ hàng đó tháng 12/2013
Các bước tính CPI:
Ví dụ cách tính CPI với giỏ hàng đơn giản là có hai mặt hàng Sách và Bút để dễ
hình dung


Bước 1: lựa chọn giỏ hàng hóa và đặt trọng số cho mỗi mặt hàng trong giỏ.
Hàng hóa được lựa chọn căn vào:
– Mức độ thường xuyên tiêu thụ của người tiêu dùng
– Đặt trọng số theo cơ cấu tiêu dùng do trong những hàng hóa tiêu dùng thì có
những hàng hóa tiêu dùng nhiều hơn những hàng hóa khác. Trọng số ở đây được
hiểu là số lượng hàng hóa đó, ví dụ nếu mục Gạo có số lượng là 4 trong giỏ hàng
sẽ khác với số lượng chỉ có 2. Tham khảo ví dụ cụ thể tại cuối entry này.
– Hàng hóa/dịch vụ có khoảng thời gian tồn tại lâu. Ví dụ nếu ta chọn một loại hàng
năm nay mà năm sau không còn được tiêu dùng nữa thì không được.
Hiện tại trong giỏ hàng hóa của ta có 396 mặt hàng và dịch vụ
Bước 2: Chọn ra năm cơ sở

là năm kỳ gốc, hiện tại ta đang tính theo kỳ gốc là 2009. Với công thức tính CPI ta
dễ dàng nhận thấy CPI của năm kỳ gốc sẽ bằng 100 do tử và mẫu bằng nhau. Cũng
có nghĩa là các năm trước đó nếu tính theo kỳ gốc 2009 thì sẽ < 100.
Riêng với vàng ta thấy một sự biến động rất lớn; nếu so với kỳ gốc thì bằng 171,52
trong khi so với tháng 1/2013 chỉ còn bằng 75,57 và tới 12/2013 thì lên 99,94
Bước 3: tính CPI

Q trong công thức chạy từ 1 tới 396 và P cũng chạy từ 1 tới 396 tương ứng. Như
vậy Q không thay đổi nhưng P đã thay đổi.
Trong bảng trên thì CPI năm 2014 so với kỳ gốc 2009 là 156,78. Có nghĩa là cũng
với giỏ hàng hóa đó tương ứng với giá trị mà người tiêu dùng nhận được thì người
tiêu dùng phải bỏ ra gấp 1,5678 lần.


Cột tiếp theo so sánh với tháng 1 năm 2013 nhằm mục đích so sánh tương đối với
cùng kỳ năm trước đó là 105,45.
Cột cuối cùng là so sánh với tháng trước đó (12/2013) là 100,69. Có nghĩa là CPI đã
tăng thêm 0,69%.

Chỉ số điều chỉnh CPI là so sánh tương đối giữa CPI các thời điểm:

Lạm phát là tính cho 1 năm, bằng CPI kỳ này trừ CPI kỳ trước, tất cả chia chi CPI kỳ
trước. Dễ dàng suy ra được là vì kỳ gốc 2009 CPI = 100 nên cột đầu tiên trong bảng
trên sẽ là lạm phát của 2014 so với 2009; tương ứng với 56,78%.

Chú ý là lạm phát chỉ thể hiện lượng, còn chất thì ta phải xem cơ cấu tăng của mỗi
nhóm hàng và do tính cả nước nên tính cả thành thị và nông thôn, cả miền xuôi và
miền ngược.



Dựa vào bảng trên ta thấy lạm phát của năm 2013 là 6,04% vì chỉ số giá tháng
12/2013 bằng 106,4% so với tháng 12/2013
Cột cuối cùng thể hiện Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với
bình quân năm 2012.

Trong entry Kinh tế học P1 ta biết tới chỉ số điều chỉnh GDP như sau:

Tử số là GDP danh nghĩa có nghĩa là lấy sản lượng nhân với năm tính GDP
Mẫu số là GDP thực tế là lấy sản lượng của năm tính nhân với giá của năm gốc


Ta thấy công thức này cũng gần tương tự như cách tính chỉ số CPI, nó thể hiện sự
tăng lên của mức giá. Điểm khác biệt là ở cách tính sản lượng Q:
– Q trong tính CPI là một giổ hàng hóa giới hạn bởi những hàng hóa thường xuyên
tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm cả hàng nhập khẩu, mục đích là để xác định biến
đổi mức sống dân cư.
– Q trong tính GDP là tính tất vì nó = C + I + G + NX. Ngoài chi tiêu của hộ gia đình
còn tính tới cả đầu tư của doanh nghiệp (I), chi tiêu của chính phủ (G) và không tính
hàng nhập khẩu.
Tham khảo các chỉ số tại trang web của tổng cục thống
kê: />
Ví dụ về tính lạm phát từ CPI và từ GDP:

III: ĐỘC QUYỀN MUA


Thị trường là nơi mà người mua và người bán gặp nhau. Các đối tượng tham gia thị
trường là doanh nghiệp với vai trò mua ở thị trường yếu tố đầu vào và bán ở thị
trường yếu tố đầu ra. Người lao động tham gia thị trường với vai trò bán ở thị
trường đầu vào và mua ở thị trường đầu ra. Nhưng bên cạnh người lao động thì nhà

cung cấp của doanh nghiệp cũng có thể là doanh nghiệp mà khách hàng của doanh
nghiệp cũng có thể là doanh nghiệp.

Tâm lý chung của người bán là muốn tham gia vào thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo, độc quyền bán để có thể bán giá cao. Tâm lý người mua là muốn mua
hàng ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoặc là độc quyền mua để có thể mua giá
thấp.
Hầu hết các DN ngày nay bán hàng mà mình SX thông qua kênh phân phối tới
người tiêu dùng không phải do mình sở hữu đó là các siêu thị, trung tâm thương
mại, chợ truyền thống,…Rất ít người ngày nay tự sản xuất và tự mang đi bán hàng
tới người tiêu dùng.
Một DN bất kỳ sẽ nằm trong tổng thể các yếu tố như sau:


Doanh nghiệp phải mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào, đó có thể là cá nhân hoặc từ
một doanh nghiệp khác. Ở đầu ra Doanh nghiệp sẽ bán hàng của mình tới tay
người tiêu dùng hoặc cho một doanh nghiệp khác. Hàng hóa đầu ra của doanh
nghiệp cũng có thể là hàng hóa thành phẩm, bán thành phẩm, nguyên vật liệu, dịch
vụ,…
Ở đầu vào hay đầu ra DN sẽ tham gia vào các thị trường có thể rất khác nhau:

Trong bất cứ thị trường nào cũng tuân theo quy luật sau:
Khi giá tăng lên thì người mua muốn mua ít đi và người bán muốn bán nhiều
hơn. Vì vậy, đường cầu dốc xuống và đường cung dốc lên.

Người bán hay người mua đều quyết định sản lượng tại điểm mà chi phí cận
biên bằng với lợi ích cận biên.
Người mua sẽ mua sản lượng tại điểm mà giá một đơn vị hàng hóa mua thêm bằng
với lợi ích đạt được khi sử dụng hàng hóa đó. Người bán sẽ bán sản lượng tại điểm
mà giá bán ra bằng với chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. ( Người bán và mua đều

quyết định ở điểm biên)



Trong hình trên ta thấy chi tiêu cận biên ME song song với trục sản lượng có nghĩa
là giá mỗi đơn vị mua thêm không đổi. Tuy nhiên lợi ích có thêm được từ mỗi đơn vị
mua thêm lại giảm dần nên MU là đường dốc xuống, nó chính là đường cầu. Một số
nơi gọi là lợi ích biên MU là giá trị biên MV (Marginal Value) để phân biệt với lợi ích
của người tiêu dùng.
Đường doanh thu cận biên MR song song với trục sản lượng vì giá mỗi đơn vị bán
ra thêm không đổi nhưng chi phí để sản xuất thêm mỗi đơn vị hàng hóa lại tăng
thêm vì vậy đường chi phí cận biên MC dốc lên.
Đường Cung của hãng độc quyền mua
Khi nghiên cứu độc quyền bán ta nghiên cứu đường cầu. Khi nghiên cứu hãng độc
quyền mua ta nghiên cứu đường cung. Trong các phân tích dưới tôi sẽ làm song
song cả hai loại để ta dễ hình dung:


Đường cầu của hãng độc
quyền bán
Vì tăng giá bán sẽ làm giảm sản lượng bán được nên đường cầu của hãng độc
quyền bán tuân theo quy luật dốc xuống. Vì rằng chỉ một mình mình một thị trường
nên đường doanh thu trung bình AR của hãng cũng trùng với đường cầu. AR =
TR/Q.
Khi hãng tăng giá từ P1 tới P2 thì giá toàn bộ sẽ đều tăng tương ứng (giống như giá
điện) nên doanh thu cận biên sẽ nằm dưới đường cầu.


Đường cung của hãng độc quyền mua
Trong thị trường độc quyền mua, đường cung của thị trường cho biết sản lượng mà

nhà sản xuất định bán ra là hàm số của giá mà người mua chi trả. Khi người mua
chi trả giá cao hơn thì sản lượng mà NSX định bán ra cũng cao hơn do thấy có lãi
hơn. Khi giá người mua giảm đi thì sản lượng sx cũng giảm đi vì kém lãi hơn. Vì vậy
đường cung của thị trường là đường dốc lên.
Vì cả thị trường có một mình hãng độc quyền mua nên đường cung sẽ trùng với chi
tiêu trung bình AE ( AE = TE/Q : bằng tổng chi tiêu chia cho sản lượng). Khi người
mua quyết định mua thêm một đơn vị hàng hóa làm tăng giá phải chi trả cho tất cả
( AE ) do vậy đường chi tiêu biên ME sẽ nằm trên đường chi tiêu trung bình
AE. Đường chi tiêu biên ME về toán học là đạo hàm của đường Tổng chi tiêu AE.
Quyết định sản lượng mua của hãng độc quyền mua

Hãng độc quyền mua hay bán đều quyết định dừng tại đơn vị hàng hóa mà chi phí
biên bằng với lợi ích biên. Ở hình trên trong đồ thị của hãng độc quyền mua, hãng
sẽ quyết định mua tại sản lượng Q là giao của ME và MU ở mức giá thấp hơn P1
thay vì P2. Sản lượng này cũng thấp hơn sản lượng cân bằng Q2.
Tóm lại nhờ độc quyền, người bán độc quyền sẽ bán được giá cao hơn giá cân
bằng (trong TT cạnh tranh) ở sản lượng thấp hơn sản lượng cân bằng. Người mua
độc quyền sẽ mua với giá thấp hơn giá cân bằng (trong TT cạnh tranh) ở sản lượng
cũng thấp hơn sản lượng cân bằng.
Sức mạnh độc quyền
Hãng cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trường hãng buộc phải đặt giá
bằng chi phí cận biên.
Hãng độc quyền bán lại có thể bán cao hơn giá tại điểm cân bằng P2, có nghĩa là
bán tại điểm A (giá P1 ) thay vì tại điểm C. L= (P1-P2)/P1 gọi là sức mạnh độc


quyền bán của hãng độc quyền bán, thể hiện khả năng bán cao hơn bao nhiêu so
với giá tại điểm cân bằng (trong TTCC HH)

Hãng độc quyền mua có thể mua thấp hơn giá tại điểm cân bằng P2, có nghĩa là

mua tại điểm C (giá P1) thay vì tại điểm A. L = (P2-P1)/P1 gọi sức mạnh độc quyền
mua (Thế lực độc quyền mua) của hãng độc quyền mua, thể hiện khả năng mua
thấp hơn bao nhiêu so với giá tại điểm cân bằng (Trong TTCC HH)
Độc quyền mua cũng gây ra khoản mất không như độc quyền bán khi mà NSX
không sản xuất ở sản lượng cân bằng. Hãng độc quyền bán lấy một phần thặng dư
của người mua, Hãng độc quyền mua lấy một phần thặng dư của người bán.
Độc quyền bán thường kéo theo độc quyền mua:
Nếu một hãng độc quyền bán bán ra hàng hóa được sản xuất từ những nguyên liệu
rất đặc thù mà những nhà sản xuất khác không dùng tới thì nhiều khả năng nó lại
trở thành độc quyền mua. Ở vị thế vừa độc quyền mua vừa độc quyền bán nó sẽ
chiếm thặng dư của cả khách hàng đầu ra lẫn nhà cung cấp đầu vào.
Ví dụ nếu như cả nước Việt Nam chỉ có một chuỗi rạp chiếu phim của Loteria. Các
nhà phân phối phim khi bán ở VN chỉ có thể bán được cho Loteria, các khán giả yêu
quý chỉ có thể tới Loteria để xem phim. Vậy Loteria đã trở thành hãng độc quyền
bán và mua trên thị trường VN. Nó bán vé cao hơn so với giá hiện nay và mua rẻ
hơn so với giá hiện nay.
EVN là độc quyền bán điện trên thị trường Việt Nam. EVN dùng nhiều hàng hóa rất
đặc thù của ngành điện nên EVN trở thành cả độc quyền mua trên thị trường VN ở
một sản phẩm cụ thể.
Độc quyền bán gặp độc quyền mua
EVN là độc quyền mua trên thị trường VN cho sản phẩm A. Nhưng A này lại chỉ
được cấp bởi duy nhất một doanh nghiệp X. Vậy xảy ra tình huống độc quyền bán
gặp độc quyền mua. Hai hãng đều có tâm lý của nhà độc quyền, muốn được hưởng
lợi cao nhất có thể. Hai hãng sẽ cùng tìm cách phá vỡ thế độc quyền của đối
phưong. Tuy nhiên, ở trường hợp của EVN khả năng cao là phần thiệt về phía độc
quyền mua vì EVN có thể đẩy giá lên cao ở phía bán để bù vào và vì hàng hóa của
một hãng duy nhất nên không thể kiểm soát được chi phí của EVN.


Liệu có tình huống có nhiều người mua nhưng vẫn có độc quyền mua không?

Thực tế là vẫn có, nguyên nhân là do cấu kết của những người mua lại với nhau.
Các người mua có thể cạnh tranh nhau ở đầu ra nhưng họ tìm cách nói chuyện với
nhau để cùng nhau ngồi lại đạt lợi thế của độc quyền mua.
A và B cấu kết nhau bằng cách:
Mối liên kết chủ sở hữu: A và B được chung một ông chủ hoặc cổ đông lớn của A
cũng là cổ đông lớn của B.
Trong một hiệp hội : A và B cùng trong một hiệp hội ngành nghề ví dụ như hiệp hội
ngành thép, ngành may mặc, ngành xăng dầu, ngành than, hội doanh nghiệp trẻ,…
Kết hợp với nhau trong một liên danh, các đối tác chiến lược, hoặc thỏa thuận phân
chia đầu ra để tránh cạnh tranh.
Giờ đây thay vì các nhà cung cấp có thể bán cho A hoặc B thì họ chỉ có thể bán cho
A và B. Họ sẽ phải bán thấp hơn so với trường hợp có cạnh tranh.
Mua chung, nhóm chung, hotdeal,… bản chất chính là tập hợp các người mua riêng
lẻ lại với nhau để có thể mua với giá tốt hơn. Nếu như tất cả người mua đều mua
qua hotdeal thì hotdeal trở thành độc quyền mua và nó có sức mạnh độc quyền.
Siêu thị Big C cũng tập hợp những người mua lại với nhau. Với sản lượng lớn nó sẽ
có sức mạnh đàm phán với các nhà cung cấp của nó.

IV: KIỂM SOÁT GIÁ
Như chúng ta đã biết bất cứ một chính phủ nào (trừ triều tiên) khi điều hành nền
kinh tế đều là sự kết hợp của hai bàn tay 1.Bàn tay vô hình theo quan điểm của
Adam Smith và 2.Bàn tay hữu hình theo quan điểm của Keynes.
Chính phủ sử dụng bàn tay hữu hình để đảm bảo sự tăng trưởng, sự phân chia
công bằng. Một trong những việc mà chính phủ có thể làm đó là kiểm soát giá (rất
hay gặp ở Việt Nam).
1. Chính phủ áp giá trần:
Chính phủ áp giá trần nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng. Giá trần đương nhiên
sẽ phải thấp hơn giá cân bằng của thị trường. Ví dụ như áp giá xăng dầu hiện nay
cũng là hình thức áp giá trần
Trong hình phía dưới P* là giá tại điểm cân bằng; chính phủ áp giá trần là Pc



Nhìn có vẻ lằng nhằng nhưng chúng ta thấy cái hay của mô hình cung cầu là rất
trực quan. Ví dụ như tại mức cân bằng E thì có sản lượng Q* và giá P*; Q* x P*
chính là giá trị thị trường của hàng hóa đó và nó cũng chính là diện tích hình chữ
nhật P*EQ*O (dài nhân rộng)
Thặng dư của người tiêu dùng là số tiền họ sẵn sàng trả trừ đi số tiền họ thực sự
phải trả. Nó là diện tích phía dưới của đường cầu và phía trên của đường cung tại
mức giá mà bên bán sẵn sàng bán (Trong hình đó là diện tích của phần gạch xanh).
Chúng ta thấy P* là điểm mà cung cầu gặp nhau tuy nhiên có một lượng người mà
họ sẵn sàng chấp nhận trả giá cao hơn nhưng vì giá dừng lại ở P* nên lượng người
này được hưởng lợi.


Thặng dư của nhà sản xuất là số tiền họ thực sự bán được trừ đi số tiền họ có thể
bán. Nó là diện tích phần phía trên đường cung, phía dưới đường cầu tại mức giá
mà bên mua sẵn sàng mua (diện tích gạch đỏ). Khi giá di chuyển từ B tới E thì càng
sát tới E thì lợi nhuận càng cao và càng tiến về B thì lợi nhuận càng giảm cho tới
mức sản lượng = 0 (bên bán không còn có khả năng bán nữa do không có lãi).
Tại vị trí cân bằng E, cung và cầu gặp nhau; hàng hóa không có dư thừa mà cũng
không có thiếu hụt. Khi chính phủ áp giá trần thì do người bán không còn mặn mà
sản xuất nên sản lượng giảm xuống Qs; trong khi đó thì người tiêu dùng lại tăng
lượng cầu lên Qd; khiến cho thị trường bị thiếu hụt đi một lượng Qd-Qs và có tổng
giá trị thiếu hụt = Pc x (Qd-Qs)
Phúc lợi xã hội là tổng các lợi ích mà cả bên bán và bên mua nhận được nên nó là
tổng diện tích hai hình trên. Khi chính phủ áp giá trần sẽ làm cho tổng lợi ích của
NSX và NTD bị thiệt một khoản là diện tích EFH.
Như vậy các tác động của việc áp giá trần:
STT


Nội dung

Khi chính phủ không can thiệp
(diện tích của hình..)

Khi chính phủ can
thiệp (diện tích của
hình..)

1

Thặng dư tiêu dùng
(CS)

AP*E

APcHF

2

Thặng dư sản xuất
(PS)

BP*E

BPcH

3

Phúc lợi xã hội ròng


CS+PS=ABE

CS+PS=ABHF

2. Chính phủ áp giá sàn:


Chính phủ áp giá sàn là khi chính phủ muốn bảo về nhà sản xuất. Ví dụ khi các nsx
cạnh tranh nhau giảm giá quá nhiều hay trong thị trường có nsx không thể bán với
giá sản lượng cân bằng do chi phí sx quá lớn; nếu cứ như vậy nsx đó có thể bị phá
sản. Thị trường mạng viễn thông là một ví dụ.

Ta thấy khi chính phủ áp giá sàn thì thặng dư của nhà sản xuất tăng lên vì họ có thể
bán giá trên giá cân bằng còn thặng dư của người tiêu dùng lại giảm xuống vì họ
phải mua với mức giá cao hơn giá cân bằng.
Thị trường dư thừa một lượng là Qs-Qd do với giá cao hơn người bán mụốn bán
tới Qs ngược lại người mua lại chỉ mua Qd. Số lượng dư thừa này nhà nước
thường sẽ mua.
Các ảnh hưởng của giá sàn:
STT

Nội dung

Khi chính phủ không can thiệp
(diện tích của hình..)

Khi chính phủ can
thiệp (diện tích của
hình..)


1

Thặng dư tiêu dùng
(CS)

AP*E

APfF

2

Thặng dư sản xuất
(PS)

BP*E

BPfFH

3

Phúc lợi xã hội ròng

CS+PS=ABE

CS+PS=ABHF

Thị trường lúa gạo hàng năm vận hành theo kiểu này. Khi được mùa thì cung nhiều
hơn cầu khiến cho giá cân bằng bị giảm xuống tới mức mà người nông dân không
còn có lãi. Vì vậy chính phủ áp giá sàn và chính phủ mua lượng dư thừa với giá sàn

để tích trữ.


Những ngày này ta thấy nông dân Thái Lan đang biểu tình chỉ vì lý do chính phủ thu
mua hàng nông sản với giáo cao nhằm đẩy giá nông sản lên. Trường hợp này chính
phủ không đưa ra giá sàn mà trực tíếp can thiệp vào bên cầu nhằm đẩy giá lên. Tuy
nhiên do không đủ tiền mua nông sản của nông dân nên nông dân mới biểu tình đòi
chính phủ phải mua nông sản của mình với giá mà chính phủ đã cam kết.
Tóm lại ta thấy khi chính phủ thò bàn tay hữu hình vào điều chỉnh thị trường thì đều
làm thiệt hại một khoản phúc lợi xã hội EFH nhưng bù lại là giúp phân chia thu nhập
một cách công bằng hơn. Mục đích thì rất tốt nhưng là con dao hai lưỡi vì tốt cho
bên này thì sẽ tệ cho bên kia.


×