Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản sang thị trường trung quố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.18 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường Trung Quốc với 1,3 tỷ dân luôn là một thị trường tiềm năng
đối với mọi đối tác. Đối với các nước trong khu vực AFTA, Trung Quốc luôn
là một bạn hàng, một đối tác lớn chiếm vị trí vô cùng quan trọng, do đó những
biến động của thị trường khổng lồ này luôn gây những tác động rất lớn đối
với khu vực, trong đó những điều chỉnh về chính sách kinh tế đối ngoại mà
đặc biệt là chính sách ngoại thương của Trung Quốc luôn gây ảnh hưởng rất
lớn tới quan hệ và hiệu quả thương mại của các nước trong khu vực. Với vai
trò to lớn như vậy, việc Hiệp định khung về tự do thương mại và đầu tư chung
được ký kết giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (ACFTA ) đã tạo nên một
bước đột phá trong quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN và
đối tác quan trọng này.
Xét riêng Việt Nam, Trung Quốc cũng chính là đối tác quan trọng đứng
hàng thứ 3 chỉ sau Mỹ và EU, do đó việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự
do ACFTA đã mở ra nhiều cơ hội mới cho hoạt động thương mại song
phương Việt Nam – Trung Quốc, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị
trường đầy tiềm năng này.
Trong Hiệp định chung ACFTA, một nhân tố đóng vai trò quan trọng
và tiên phong trong nỗ lực đưa ACFTA trở thành một khu vực thương mại tư
do lớn nhất toàn cầu, Chương trình thu hoạch sớm chính là một bước đi đầu
tiên, khẳng định lại thiện chí hợp tác của các bên tham gia, đồng thời là bước
dột phá, khẳng định tầm quan trọng và tính tất yếu hình thành khu vực
ACFTA. Tham gia cam kết thực hiện Chương trình thu hoạch sớm, phía Việt
Nam sẽ được Bên Trung Quốc cắt giảm một lượng lớn thuế nhập khẩu đánh
vào các mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam nằm trong chương 1- 8 của
danh mục hàng nằm trong Hiệp định khung giữa ASEAN và Trung Quốc. Tuy
nhiên cùng với lợi ích đấy, Việt Nam cũng phải cắt giảm thuế nhập khẩu đối


với các mặt hàng nông thủy sản của Trung Quốc theo lộ trình của Chương
trình thu hoạch sớm mà Việt Nam đã cam kết. Việc tham gia chương trình thu


hoạch sớm trước mắt sẽ mở ra một cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam thâm
nhập thị trường Trung Quốc, đặc biệt là những mặt hàng chúng ta có thế mạnh
bao gồm hàng nông sản và thủy sản.
Đứng trước những cơ hội và thách thức mà Chương trình thu hoạch
sớm đặt ra với Việt Nam, đồng thời góp phần tạo động lực để thực hiện chủ
trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình thúc đầy hoạt
động xuất khẩu, việc nghiên cứu Chương trình thu hoạch sớm và ảnh hưởng
của nó tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là những mặt hàng nông
thủy sản (những đối tượng chính của Chương trình này là một việc làm hết
sức cần thiết và cấp bách. Chính vì lý do này mà nhóm sinh viên đã quyết
định chọn Đề tài nghiên cứu khoa học :” Thực trạng và giải pháp thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản sang thị trường Trung Quốc”
Kết cấu của đề tài theo đó gồm 3 phần chính
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT XUẤT
KHẨU HÀNGH ÓA VÀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA
AFTA VÀ TRUNG QUỐC
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH
THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
KHAI THÁC CÁC THUẬN LỢI DO CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH
SỚM ĐEM LẠI NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
SANG TRUNG QUỐC


Với những nội dung nghiên cứu như trên, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài là tình hình biến động của kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
nông thủy sản nằm trong chương 1-8 của ACFTA của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc, cùng với biến động về cơ cấu cũng như phương thức mà
phía Việt Nam xuất khẩu hàng sang Trung Quốc.

Trong đề tài, nhóm sinh viên nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp
thông kê và dự báo kinh tế để có thể đưa ra những nhận định về tình hình xuất
khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam sang Trung Quốc dưới tác động của
Chương trình thu hoạch sớm.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm sinh viên nghiên cứu xin chân
thành cảm ơn sự hướng dẫn và cung cấp tài liệu đầy đủ, nhiệt tình của giáo
viên hướng dẫn, Ths. Ngô Thị Tuyết Mai và các bạn sinh viên. Nhóm sinh
viên rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo khoa Kinh tế và Kinh
doanh quốc tế cũng như của các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu được hoàn
thiện.


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT XUẤT
KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VÀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM
GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC - VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA THỊ
TRƯỜNG TRUNG QUỐC
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu hàng hóa nói chung
1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa
Thương mại có nghĩa là sự trao đổi hàng hóa giữa các bên. Nếu các bên
tham gia trao đổi hàng hóa cùng cư trú trên một quốc gia thì gọi là thương
mại nội địa. Nếu các bên tham gia trao đổi hàng hóa cư trú trên hai quốc gia
khác nhau thì hoạt động thương mại này mang tính quốc tê.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước
thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của quan hệ xã hội và
phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng
hóa riêng biệt của các quốc gia.
Trong đó. xuất khẩu hàng hóa dịch vụ là một khía cạnh trong quan hệ
thương mại của một nước có mang tính chất quốc tê. Đó là việc hàng hóa và
dịch vụ của quốc gia đó được đưa ra tiêu thụ ở nước ngoài hoặc sản xuất
nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của người nước ngoài ở trong nước. Xuất

khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi
phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hóa và dịch
vụ, dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn
lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ qua biên giới
quốc gia. Trong kinh doanh, hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai hình thức là
xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Những hình thức này sẽ được các
nhà xuất khẩu sử dụng là công cụ đê thâm nhập thị trường quốc tế.
1.1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế


Thương mai quốc tế đã ra đời cách đây hàng ngàn năm, nhưng phải đến
thế kỷ 15 thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc và lợi ích
từ thương mại quốc tế. Ngày nay, những nỗ lực nhằm hoàn chỉnh và phát triển
các lý thuyết về thương mại quốc tế vẫn đang được tiếp tục. Dướ đây là hệ
thống các lý thuyết thương mại quốc tế đã tồn tại theo trình tự thời gian.
Chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết thương mại cho rằng một nước cần
duy trì cán cân thương mại thặng dư để gia tăng lượng của cải (bao gồm vàng
bạc và các kim loại quý khác) của mình. Để đạt được mục tiêu đó, chính phủ
cần thi hành chính sách can thiệp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và hạn
chế hoạt động nhập khẩu của quốc gia.
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith, khả năng của một quốc
gia có thể sản xuất một mặt hàng có hiệu quả cao hơn bất kỳ quốc gia nào
khác được gọi là lợi thế tuyệt đối của quốc gia đó. Theo lý thuyết này thì một
nước có thể tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối
và sau đó trao đổi với các quốc gia khác nhằm thu về những hàng hóa mà
mình không tự sản xuất ra. Thương mại tự do dựa trên lợi thế tuyệt đối sẽ
giúp mang lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia.
Một nước có lợi thế so sánh kho nước đó không có được khả năng sản
xuất một mặt hàng nào đó hiệu quả hơn các nước còn lại nhưng hiệu quả hơn
so với các mặt hàng khác. Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo cho rằng

thương mại tự do luôn mang lại lợi ích cho các bên tham gia, ngay cả khi một
nướ tỏ ra kém lợi thế hơn trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng.
Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố cho rằng quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng sử dụng nhiều nguồn lực dồi dào sẵn có của quốc gia và nhập
khẩu những mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực khan hiếm của quốc
gia đó, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, toàn dụng nguồn lực trong nước.


Lý thuyết chu kì sống của sản phẩm phát biểu rằng ngay sau khi ra đời
thì sản phẩm mới được sản xuất ngay tại nước phát minh ra nó. Khi một sản
phẩm trải qua các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của nó thì công nghệ
sản xuất ra nó ngày càng được phổ biến và quá trình sản xuất ra sản phẩm
được phổ biến tới nhiều quốc gia khác nhau nhằm khai thác các yếu tố đầu
vào cho sản xuất rẻ theo lợi thế của từng địa điểm sản xuất.
Lý thuyết mới về thương mại cho rằng chuyên môn hóa sản xuất và
hiệu quả tăng dần theo quy mô sẽ mang lại lợi ích, các công ty đầu tiên ra
nhập thị trường nào đó có thể tạo ra rào cản đối với các công ty khác và chính
phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp của nước mình trong quá trình tạo môi
trường phát triển lành mạnh và thuận lợi.
Lý thuyết lợi thế cạnh tranh của quốc gia lại cho rằng khả năng cạnh
tranh của một ngành sản xuất của quốc gia phụ thuộc vào khả năng sáng tạo
và đổi mới của ngành đó. Hình thoi Porter chỉ ra bốn nhóm nhân tố chính mà
mỗi quốc gia bao gồm: Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh giữa các công ty;
Điều kiện về các yếu tố sản xuất; Điều kiện cầu; Các ngành công nghiệp hỗ
trợ và liên quan. Bốn nhóm nhân tố này đều tồn tại ở mỗi quốc gia với mức
độ khác nhau và nhóm các nhân tố này hình thành nên khả năng cạnh tranh
của quốc gia.
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế
quốc dân
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển của đất nước. Trong lịch sử phát triển
kinh tế thế giới đã khẳng định một đất nước phát triển một cách nhanh chóng
và bền vững ngoài việc phải khai thác tối đa tiềm năng trong nước, còn phải
biết tận dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật của kinh tế thế giới, phát


huy lợi thế kinh tế trong nước thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó
xuất khẩu đóng vai trò là nhân tố tiên quyết, mang tính đầu tàu thúc đẩy tăng
thu nhập quốc dân.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự tham gia vào phân công lao động
quốc tế và hợp tác quốc tế của một nước sẽ góp phần phát huy tối đa năng lực
cạnh tranh của nước đó trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, xu hướng toàn
cầu hóa với sự tự do dần được nới rộng trong thương mại và đầu tư quốc tế
đang diễn ra với tốc độ ngày càng cao khiến cho các quốc gia và khu vực luôn
phải vận động trong một mối liên kết hữu cơ chặt chẽ. Và do đó tỷ trọng xuất
nhập khẩu, đặc biệt là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trên tổng số thu nhập
quốc dân luôn là yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của
quốc gia đó.
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc
gia
Đóng góp lớn và dễ nhận thấy nhất của hoạt động xuất khẩu đối với
nền kinh tế quốc dân chính là xuất khẩu luôn đem lại một nguồn thu ngoại tệ
chủ yếu, đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, cải tiến hạ tầng kỹ thuật , nâng cao
sức sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên thực tế, nguồn vốn dùng
đê nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn khác nhau như: vay nợ và
viện trợ nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ trong nước, thu
từ các hoạt động xuất khẩu… Trong các nguồn thu nói trên, rõ rang nguồn có
thể chủ động tạo ra được và đóng vai trò quyết định của quốc gia chính là
nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu cũng đóng vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc

đẩy sản xuất và tiêu dung. Cơ cấu sản xuất và tiêu dung trên thế giới đã thay
đổi một cách mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp


với sự chuyển dịch của nền kinh tế thế giới là một tất yếu đối với mọi quốc
gia trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó người ta thiên về xua hướng
coi trọng thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới, đây là nhân tố quan trọng
để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến cự dịch chuyển cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở các mặt sau
đây:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện và cơ hội đầy
đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như ngành bông, sợi, hay
thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể sẽ
kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp các yếu tố đầu
vào cho sản xuất, tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng
lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu hàng hóa, quốc gia tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng, qua đó buộc các nhà sản
xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, liên tục đổi mới và hoàn thiện khâu
quản lý sản xuất kinh doanh, ình hình cơ chế sản xuất thích nghi với thị
trường.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống dân cư. Sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút nhiều lao động
vào làm việc và có thu nhập không thấp, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật
phẩm tiêu dung thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một
phong phú của xã hội.
Xuất khẩu cũng là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế

đối ngoại của đất nước. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác có


tác động qua lại lẫn nhau. Thông thường hoạt động xuất khẩu xuất hiện sớm
hơn các hoạt động kinh tế khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát
triển. Chẳng hạn, hoạt động xuất khẩu thúc đẩu quan hệ đầu tư nước ngoài,
mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác chính các hoạt động kinh tế đối ngoại
này lại chính là tiền đề cho quá trình quay vòng mở rộng của hoạt động xuất
khẩu.
Hoạt động xuất khẩu đảm bảo sự phát triển bền vững và nhanh chóng
đối với nền kinh tế quốc dân, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, tạo them việc làm, tăng thêm thu nhập và nguồn thu ngoại tệ cho nền
kinh tế quốc dân, qua đó nâng cao đời sống dân cư.
Hoạt động xuất khẩu đã khai thác triệt để lợi thế so sánh của từng quốc
gia, đạt quy mô tối đa cho mỗi ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng các
ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng lực lao động và hạ giá thành sản
phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo chiều sâu, trao đổi và ứng dụng
nhanh các công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tốc độ
tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
1.1.4. Các hình thức xuất khẩu
1.1.4.1 Xuất khẩu thông qua giao dịch thông thường
Xuất khẩu thông qua giao dịch thông thường hay còn gọi là xuất khẩu
trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một nhà xuất khẩu cho các khách
hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Việc các nhà xuất khẩu bán hàng sang thị trường của quốc gia khác
theo phương thức trực tiếp là một phương thức được sử dụng chủ yếu trong
xuất khẩu. Đặc biệt, khi các nhà xuất khẩu có kinh nghiêm kinh doanh quốc
tế, phương thứ xuất khẩu trực tiếp luôn được lựa chọn để đưa hàng hóa của
mình ra thị trường tiêu thụ nước ngoài. Khách hàng của các nhà xuất khẩu



này có thể dơn thuần chỉ là những người tiêu dung, cũng có thể là những
công ty, tổ chức có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu đó.
1.1.4.2 Thông qua trung gian
Xuất khẩu hàng hóa thông qua trung gian ( người thứ 3) là hình thức
bán hàng hóa và dịch vụ của nhà xuất khẩu ra thị trường nước ngòai thông
qua trung gian. Hình thức này còn được gọi là xuất khẩu gián tiếp.
Các trung gian bán hàng chủ yếu trong kinh doanh xuất nhập khẩu là:
Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu.
Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của nhà xuất khẩu
nhưng trợ giúp nhà xuất khẩu thực hiện hoạt động xuất khẩu và tiêu thụ hàng
hóa tại thị trường nước ngoài.

1.1.4.3 Tái xuất khẩu và chuyển khẩu
Trong hoạt động tái xuất khẩu nhà xuất khẩu trong giai đoạn đầu đóng
vai trò là nhà nhập khẩu, tạm nhập hàng về từ bên ngoài sau đó thực hiện hoạt
động xuất khẩu hàng ra nước ngoài ( thường là nước thứ ba).
Như vậy, ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức độ rủi
ro có thể cao hơn và lợi nhuận vì thế cũng sẽ cao hơn.
Trong khi đó, hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán nào
mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu trú, lưu kho, lưu
bãi hàng hóa, bảo quản hàng hóa…
1.1.4.4 Xuất khẩu tại chỗ
Trong trường hợp xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa và dịch vụ có thể chưa
vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như


hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại
giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt
được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí vận chuyển, đóng gói, chi phí bảo

quản, kho bãi, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu ngoại tệ
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
Thị hiếu và tập quán và văn hóa tiêu dùng của người dân nước nhập
khẩu là một nhân tố quan trọng đánh giá tiềm năng của thị trường nhập khẩu,
là yếu tố ảnh hưởng hàng đầu tới kết quả kinh doanh của nhà xuất khẩu. Quá
trình toàn cầu hóa đòi hỏi mọi người tham gia vào kinh doanh phải có một
mức độ am hiểu nhất định về văn hóa, đó là sự hiểu biết về một nền văn hóa
cho phép con người sống và làm việc trong đó. Am hiểu văn hóa sẽ giúp cho
việc nâng cao khả năng quản lý nhân công, tiếp thị sản phẩm, và đàm phán ở
các nước khác. Cho dù tạo ra một nhãn hiệu toàn cầu như MTV hay Mc
Donald là đem lại một lợi thế cạnh tranh rất lớn, nhưng sự khác biệt văn hóa
vẫn buộc các hãng
Phải có điều chỉnh cho phù hợp với thị trường địa phương. Một sản
phẩm cần phải phù hợp với sở thích của người tiêu dùng địa phương.Muốn
đạt được điều này không còn cách nào khác là phải tìm hiều văn hóa địa
phương. Am hiểu văn hóa địa phương giúp công ty gần gũi hơn với nhu cầu
và mong muốn của khách hàng, và do đó sé nâng cao sức cạnh tranh của
công ty.
Từ những khách hàng đơn lẻ và những doanh nhân cho đến các tập
đoàn kinh doanh toàn cầu, hạt nhân của các hoạt động kinh doanh đều là con
người. Khi người mua và người bán ở khắp nơi trên thế giới gặp gỡ nhau, họ
mang theo những nền tảng giá trị, kỳ vọng và cách thức giao tiếp khác nhau.
Sự khác nhau này mang đến các xung đột về văn hóa và do đó gây ra những
cú sốc trước khi có thể thích nghi được với một nền văn hóa mới. Hiểu nền


văn hóa là quan trọng khi công ty kinh doanh trong nền văn hóa đó. Điều đó
càng trở nên quan trọng hơn khi công ty hoạt động ở nhiều nền văn hóa khác
nhau.
Các công ty khi thâm nhập các thị trường mới nổi phải đối phó với tình

trạng thiếu thông tin. Các dữ liệu thường không sẵn có hoặc rất khó thu thập.
Nhưng có rất nhiều cách công ty có thể đánh giá cơ hội ở các thị trường mới
nổi này. Một cách là công ty sắp xếp các thị trường tiềm năng. Khi phân tích
thị trường tiềm năng cần phải cân nhắc các yếu tố sau đây:
+ Quy mô thị trường. Nhân tố này cho biết quy mô thị trường tại các
thời điểm khác nhau. Nó không dự báo nhu cầu về moth sản phẩm cụ thể, mà
là quy mô của toàn bộ nền kinh tế. Dữ liệu về quy mô thị trường cho phép các
nhà kinh doanh sắp xếp các thị trường theo trật tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất về
nhu cầu một loại sản phẩm nào đó.
+ Tốc độ tăng trưởng thị trường. Cùng với quy mô thị trường, tốc độ
tăng trưởng thị trường cũng là một nhân tố quan trọng. Nó giúp cho các giám
đốc tránh các thị trường quy mô lớn, nhưng lại không tăng trưởng, hoặc tăng
trưởng rất chậm. Nó được dự báo chủ yếu thông qua tăng trưởng GDP hoặc
tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng năng lượng.
+ Sức mạnh thị trường. Yếu tố này phản ánh sức mua thị trường, bao
gồm cả khu vực tư nhân và tập thể. Nhân tố này được tính từ GDP bình quân
đầu người và thuyết ngang bằng sức mua.
+ Khả năng tiêu dùng thị trường. Mục tiêu của nhân tố này là xác định
khả năng tiêu dùng. Nó được tính toán từ việc xác định từ số dân thuộc tầng
lớp trung lưu, vì đây là lực lượng tiêu dùng chính trong thị trường.
Cơ sở hạ tầng thương mại: Nhân tố này đánh giá các kênh phân phối và
thông tin. Bao gồm số điện thoại, tivi máy fax máy vi tính tính trên đầu


người; mật độ giao thông hoặc số dân trên thị trường bán lẻ. Đối với các công
ty kinh doanh sử dụng Internet cần phải thường xuyên sử dụng thông tin cập
nhật về số người nối mạng internet.
Mức độ tự do của nền kinh tế: Nhân tố này phản ánh mức độ điều tiết
của thị trường, nó tổng kết các chính sách thương mại của chính phủ, các
chính sách về kinh doanh, hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ, và sức mạnh của

các thị trường đen.
Bảo hộ thị trường: nhân tố này nhấn mạnh độ mở cửa thị trường. Nó
được phản ánh thông qua so sánh giá trị thương mại quốc tế của các quốc gia
đó với GDP.
Rủi ro quốc gia: Nhân tố này dự báo rủi ro khi kinh doanh ở một nước
nào đó, bao gồm các rủi ro về chính trị, kinh tế và tài chính. Nhân tố này có
thể đạt được từ các tổ chức dịch vụ như là dịch vụ rủi ro chính trị.
1.2 Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và
Trung Quốc
1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP
Qua một quá trình đàm phán khá dài, ngày 4/11/2002, Hiệp định khung
về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc đã được nguyên thủ
của 10 nước ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Campuchia, tạo tiền đề thành
lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010
đối với các nước ASEAN-6 và 2015 đối với các nước CLMV (Việt Nam, Lào,
Campuchia và Myanmar). Khi được thành lập, đây sẽ là khu vực mậu dịch tự
do lớn nhất thế giới với khoảng 1,8 tỷ người tiêu dùng có tổng thu nhập quốc
dân (GDP) hiện tại khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại
khoảng 1,23 nghìn tỷ USD.


Nhằm thúc đẩy việc thực thi Hiệp định này, các Bên đồng ý thực hiện
Chương trình Thu hoạch sớm (là phần không thể tách rời của KVMDTD
ASEAN - Trung Quốc). ASEAN và Trung Quốc đã hoàn tất đàm phán danh
mục này cùng với nội dung Hiệp định khung. Hiện nay đã có 4 nước hoàn
thành các thủ tục pháp lý trong nước và đã triển khai thực hiện EHP:
Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Danh mục Thu hoạch sớm của
Việt Nam bao gồm các mặt hàng nông sản và thủy sản thuộc phân loại hàng
hóa từ Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế nhập khẩu. Danh mục Thu
hoạch sớm được thực hiện tự do hoá thương mại sớm hơn các danh mục khác.

Nội dung chi tiết về danh mục này và Chương trình Thu hoạch sớm sẽ được
trình bày cụ thể hơn ở phần sau.
Bảng mô tả danh mục hàng thuộc EHP
Chương

Mô tả
Động vật sống

trình

Thu

02

Thịt và nội tạng động vật

03



04

Sữa và các sản phẩm từ sữa

05

Các sản phẩm khác từ động vật

06


Cây sống

07

Rau ăn được

08

Quả và hạt ăn được

này sẽ bắt
thúc theo khung thời gian quy định trong đó có quy định rõ về:
- Phạm vi sản phẩm được áp dụng

Chương
hoạch

sớm

đầu và kết


Việt Nam có 484 mặt hàng dành thuế suất ưu đãi cho Trung Quốc các
nước ASEAN khác trong Chương trình Thu hoạch sớm, bao gồm các sản
phẩm nông sản và thủy sản nằm trong Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi hiện hành (ban hành theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC
ngày 25/7/2003 của Bộ Tài chính). Ngày 25/2/2004, Chính phủ đã ký Nghị
định số 99/2004/NĐ-CP ban hành lộ trình giảm thuế nhập khẩu cho danh mục
EHP của Việt Nam giai đoạn 2004-2008. Ngày 10-3-2004, Bộ Tài chính cũng
đã có thông tư số 16/2004/TT-BTC để hướng dẫn thực hiện Nghị định này.

Sau khi tham khảo ý kiến với các Bộ, ngành hữu quan, Việt Nam loại
trừ 15 mặt hàng nằm trong Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế nhập khẩu
ưu đãi không tham gia vào Chương trình Thu hoạch sớm gồm: gia cầm giống
vịt, ngan, ngỗng, gà tây, thịt và các bộ phận nội tạng của gia cầm, trứng chim
và trứng gia cầm, và các quả có múi như: chanh, bưởi. Mục đích của việc loại
trừ các sản phẩm này trong Chương trình Thu hoạch sớm là nhằm đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và bảo hộ sản xuất
trong nước.
Trung Quốc có 531 mặt hàng dành thuế suất ưu đãi cho Việt Nam (và
các nước ASEAN khác) trong Chương trình Thu hoạch sớm (danh mục tiếng
Anh các mặt hàng được Trung Quốc cho hưởng thuế suất ưu đãi kèm theo)
bao gồm các sản phẩm nông sản và thủy sản nằm trong Chương 1 đến
Chương 8 của Biểu thuế XNK của Trung Quốc.
- Lộ trình và mức cắt giảm thuế quan
Đối với Trung Quốc(và các nước ASEAN 6): Chương trình Thu hoạch
sớm được thực hiện trong vòng 3 năm. Theo đó, việc cắt giảm thuế sẽ bắt đầu
từ 1/1/2004 và hoàn thành không muộn hơn 1/1/2006 (mức thuế suất vào thời
điểm hoàn thành chương trình là 0%)


Đối với các nước thành viên mới của ASEAN (CLMV) thời gian cắt
giảm thuế sẽ chậm hơn với cách thức cắt giảm thuế linh hoạt hơn. Việt Nam
bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ 1/1/2004 nhưng hoàn thành không muộn
hơn 1/1/ 2008.
Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Trung Quốc (và các nước ASEAN 6) trong
Chương trình Thu hoạch sớm

Không muộn hơn ngày
Nhóm mặt hàng
Nhóm 1: Các dòng thuế


1/1/2004

1/1/2005

1/1/2006

10%

5%

0%

5%

0%

0%

0%

0%

0%

có thuế suất trên 15%
Nhóm 2: Các dòng thuế
có thuế suất từ 5-15%
Nhóm 3: Các dòng thuế
có thuế suất dưới 5%


Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong
Chương trình Thu hoạch sớm
Nhóm mặt hàng

Không muộn hơn ngày
1/1/2004 1/1/2005 1/1/2006 1/1/2007

1/1/2008

20%

15%

10%

5%

0%

10%

10%

5%

5%

0%


5%

0-5%

0-5%

0%

Nhóm 1: Các mặt hàng có
thuế suất cao hơn 30%
Nhóm 2: Các mặt hàng có
thuế suất từ 15% đến 30%

Nhóm 3: Các mặt hàng có 5%
thuế suất dưới 15%


- Quy tắc về xuất sứ tạm thời đối với các loại hàng hóa được áp dụng
của các bên tham gia chương trình
Nhóm đàm phán về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa ASEAN và Trung
Quốc đã gần tiến tới thoả thuận về một số nội dung chính trong Hiệp định về
giải quyết tranh chấp như cách thức thực hiện hòa giải, thủ tục thiết lập cơ
quan xét xử, chỉ định ban trọng tài. Hiện còn nhiều vấn đề khác còn đang
được các bên tranh cãi như mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết tranh chấp
ASEAN-Trung Quốc với các cơ chế khác, điều khoản bồi thường, khung thời
gian cho các thủ tục pháp lý, tranh chấp khi có nhiều bên tham gia đồng
thời .... Các bên nhất trí sẽ tiếp tục thảo luận vấn đề này trong các phiên TNC
sắp tới để hoàn thiện dự thảo Hiệp định trong năm 2004.
ASEAN đề xuất áp dụng thêm quy tắc xuất xứ đặc thù, bên cạnh các
quy tắc xuất xứ đã được các bên áp dụng là quy tắc xuất thuần túy và quy tắc

xuất xứ theo giá trị gia tăng. Với quy tắc xuất xứ đặc thù, mục tiêu của
ASEAN là mở rộng các cơ hội trao đổi cho các hàng hoá của hai bên, đặc biệt
là với những sản phẩm khó đáp ứng được yêu cầu về giá trị gia tăng. Trung
Quốc tỏ ra thận trọng với vấn đề mở rộng quy tắc xuất xứ vì ngại mất thời
gian, nhưng sẵn sàng cùng ASEAN nghiên cứu tính khả thi của đề xuất này.
1.2.2 Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam
1.2.2.1 Lợi thế về mặt thuế quan
Theo thống kê, hiện nay trong 531 dòng thuế Trung Quốc dành ưu đãi
cho ta trong Chương trình Thu hoạch sớm, Việt Nam có 206 dòng thuế xuất
khẩu sang Trung Quốc. Trong đó:
+ Chỉ có 7 dòng thuế có thuế suất MFN 0% (tức là Trung Quốc không
phải cắt giảm)


+123 dòng thuế có thuế suất trên 15% thuộc Nhóm 1,2/ Bảng 1 và 76
dòng thuế có thuế suất từ 5-15% thuộc Nhóm 3/ Bảng 1, Trung Quốc sẽ phải
cắt giảm theo lộ trình giảm thuế của Chương trình Thu hoạch sớm.
Theo Lộ trình cắt giảm thuế của EHP, phía Trung Quốc sẽ phải cắt
giảm mạnh và nhanh. Cụ thể, ngay trong năm nay, đối với 123 mặt hàng có
thuế suất trên 30% và từ 15-30%, Trung Quốc lần lượt sẽ phải cắt giảm xuống
20% và 10%, còn đối với 76 mặt hàng có thuế suất từ 5-15%, Trung Quốc sẽ
phải cắt giảm xuống 5% . Do đó, Việt Nam sẽ hưởng lợi rất nhiều do phần
lớn các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ được cắt giảm
thuế quan.
Cũng theo các cam kết trong Chương trình Thu hoạch sớm, thuế nhập
khẩu của Việt Nam sẽ giảm dần từ năm 2004 và đạt 0% vào năm 2008. Hiện
nay, thuế suất nhập khẩu MFN bình quân của tất cả các dòng thuế trong
Chương 1 đến chương 8 của ta là 27,4%. Năm 2001, kim ngạch nhập khẩu
các mặt hàng từ Trung Quốc trong các chương 1 đến chương 8 đạt 28 triệu
USD. Số thu thuế trên giá trị nhập khẩu năm 2001 là 8,44 triệu USD chỉ bằng

14% số thuế nhập khẩu tương ứng mà Trung Quốc đánh vào hàng xuất khẩu
của Việt Nam (73,5 triệu USD). Do vậy, cùng với quá trình cắt giảm thuế
quan, thiệt hại của ta vẫn thấp hơn so với Trung Quốc. Những thiệt hại trên có
thể được cân bằng với giá trị hàng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng, các
khoản thu về thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp để bù lại khoản giảm thu
thuế nhập khẩu tính trực tiếp trên hàng nhập khẩu.
1.2.2.2 Lợi ích cụ thể theo các nhóm mặt hàng
+ Nhóm 1 (các dòng thuế trên 15%):
Số lượng các sản phẩm mà ta xuất khẩu trong nhóm này chiếm tỷ trọng
cao nhất (có 123 mặt hàng trong tổng số 206 mặt hàng có kim ngạch). Số thuế


nhập khẩu của Trung Quốc đánh trên hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm
dần. Năm 2001 thuế nhập khẩu của Trung Quốc đánh vào các sản phẩm xuất
khẩu của nước ta trong Nhóm 1 là 66,6 triệu USD. Dự kiến, đến năm 2004,
khoản thuế này sẽ giảm xuống còn 32,7 triệu USD và chỉ còn 16,3 triệu USD
vào năm 2005. Đến năm 2006, thuế nhập khẩu của Trung Quốc đối với các
mặt hàng này sẽ không còn nữa. Đây là lợi thế quan trọng đối với hàng hoá
Việt Nam để mở rộng hơn nữa khả năng thâm nhập thị trường Trung Quốc.
Tiềm năng xuất khẩu của nước ta đối với các sản phẩm thuộc Nhóm 1
là rất khả quan. Năm 1999, ta chỉ xuất khẩu có 27 mặt hàng thì năm 2000, ta
đã có 51 mặt hàng xuất khẩu và 2001 là 123 mặt hàng. Đây là một tín hiệu
cho thấy cơ hội phát triển xuất khẩu của ta sang Trung Quốc là rất rộng mở.
Những mặt hàng được hưởng lợi nhất trong nhóm này là các loại hoa
quả sơ chế (nhãn khô, hạt điều bóc vỏ), các loại quả tươi (như dâu tây, dưa
hấu, chanh, quýt), các loại thuỷ sản thân mềm (như mực, lươn), các loại động
vật thân giáp (như tôm, cua).
+ Nhóm thứ 2 ( các dòng thuế từ 5- 15%):
Số lượng các mặt hàng trong Nhóm 2 là 76 mặt hàng trong số 206 mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo tính toán, năm 2001 số

thuế nhập khẩu của Trung Quốc là 6,9 triệu USD. Dự kiến, năm 2004, thuế
nhập khẩu của Trung Quốc đánh trên hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ chỉ còn
3 triệu USD. Đến năm 2005, khoản thuế này sẽ không còn nữa.
Ta đang khai thác các mặt hàng trong Nhóm này một cách tích cực.
Nếu như năm 1999, ta xuất khẩu chỉ có 15 mặt hàng thì năm 2000 con số này
là 24 và 2001 là 76 nhóm mặt hàng. Mức tăng trưởng như vậy là rất khả quan.


Các mặt hàng chủ yếu trong Nhóm này bao gồm như các loại củ và hạt
(như sắn lát, ngô sơ chế, đậu hà lan, khoai lang), các loại rau tươi (như nấm,
măng, ớt, hành tỏi..), cá loại thuỷ hải sản khác
+ Đối với Nhóm 3 ( Các dòng thuế từ 0-5%):
Các mặt hàng thuộc nhóm này sẽ có thuế suất bằng 0% ngay khi thực
hiện nên không có tác động cụ thể nào đối với nước ta. Bản thân ta xuất khẩu
cũng rất ít với 7 nhóm hàng có kim ngạch không lớn (khoảng 3 triệu USD)
như các loại động vật sống hoặc làm giống, đậu hà lan...
1.3.3 Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam
- Hàng hóa hai nước Việt - Trung có nhiều chủng loại trùng hợp nhau,
nhưng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tương đối yếu, do đó muốn mở
rộng xuất khẩu sang Trung Quốc, Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn.
- Tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp tương đối yếu, có tư tưởng
ỷ lại nghiêm trọng, mang tâm lý dựa vào cơ quan chủ quản tương đối phổ
biến.v.v. Chính vì thế, tuy Chương trình thu hoạch sớm khi đi vào có hiệu lực
nhưng thực sự chuẩn bị để đương đầu và tiếp nhận nó của hầu hết các doanh
nghiệp vẫn là rất thờ ơ và tỏ ra rất thiếu những hiểu biết cần thiết về chương
trình quan trọng này.
- Các bộ ngành liên quan của chính phủ và các ngành nghề triển khai
nghiên cứu thị trường chưa sâu. Thông tin về thị trường Trung Quốc khổng lồ
vẫn luôn là một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi muốn

tham nhập vào thị trường này. Những thông tin đáng tin cậy về thị trường
Trung Quốc chưa có một cách đầy đủ, và độ dễ dàng trong tiếp cận với những
thông tin này là chưa cao do tính thiếu phổ biến của nó.


- Doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được mạng lưới quan hệ tiêu
thụ mang tính lâu dài và ổn định tại thị trường Trung Quốc, trong giao dịch
mậu dịch thường rơi vào thế bị động. Điều này xuất phát từ các thức buôn bán
giao thương theo con đường tiểu ngạch biên mậu đã quá an sâu vào tư tưởng
của các doanh nghiệp cũng như các nhà xuất khẩu đơn lẻ của Việt Nam.
- Thêm vào đó, sự cạnh tranh của các nước trong khu vực trên thị
trường đầy tiềm năng như Trung Quốc luôn rất khốc liệt. Điểm quan trọng
nhất khi Việt Nam tham gia vào ACFTA và chương trình thu hoạch sớm khi
chính là những ưu đãi về mặt thuế quan. Tuy nhiên với việc Trung Quốc đi
trước Việt Nam một bước trong tiến trình ra nhập WTO và quá trình tham gia
hội nhập vào thương mại tự do với các nước trong khu vực như Thái Lan và
Singapore thì đây cũng lại chính là những thách thức đáng kể nhất của hàng
hóa Việt Nam trên thị trường này, đặc biệt khi cơ cấu hàng xuất khẩu sang
Trung Quốc của các đối thủ phong phú và có tình tương thích đối với thị
trường Trung Quốc là cao hơn chúng ta.
- Thêm vào đó, việc ra nhập ACFTA và EHP cũng gây cho Việt Nam
phải đối mặt với nguy cơ bị tràn ngược hàng từ Trung Quốc sang. Đây là điều
rất đáng lưu tâm. Thị trường Việt Nam đã không ít lần chứng kiến các cơn bão
hàng Trung Quốc giá rẻ đánh bật rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam ngay trên
sân nhà. Do đó đảm bảo vị thế trên sân nhà của các doanh nghiệp Việt Nam
cũng là một thách thức không nhỏ.
1.3.4 Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ
thương mại Việt Nam-ASEAN
Chương trình Thu hoạch sớm không ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN

đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) với
lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thậm chí, trong các mặt hàng từ Chương 1


đến 8, ta đang xuất siêu với các nước ASEAN với giá trị trên 35 triệu USD.
Đây là một lợi thế rất lớn đối với Việt nam.
Theo cam kết CEPT/AFTA của Việt Nam, tất cả các mặt hàng từ
Chương 1-8 thuộc danh mục IL và TEL sẽ phải giảm xuống 0-5% vào năm
2006, tổng cộng là 341 mặt hàng. Trong khi đó trong Chương trình Thu hoạch
sớm, những dòng thuế có thuế suất cao từ 30% đến 50% trong Chương 1-8 sẽ
cắt giảm xuống 10% năm 2006 và giảm dần xuống 0% vào năm 2008.
Về mức độ cắt giảm thuế, hiện nay, trong Chương trình CEPT 2002, ta
đã cắt giảm 308 dòng thuế từ Chương 1-8 xuống thấp hơn và bằng 20%, trong
khi đó, Chương trình Thu hoạch sớm vẫn còn duy trì thuế suất MFN cao,
khoảng 219 dòng thuế bằng và lớn hơn 20%. (Xem các bảng dưới đây đối với
năm 2004, 2005 và 2006)
Bảng 3: So sánh Lộ trình cắt giảm thuế Chương trình EH với
Chương trình CEPT/AFTA của Việt nam

Lộ trình

Chương trình EH

Chương trình CEPT

cắt giảm
Thuế suất

2
0%


1
5%

1

0Tổng

0% -5% cộng

2
0%

1
5%

1

0Tổng

0% -5% cộng

2004

219

0

71


76

366

0

68

64

209 341

2005

0

219

71

76

366

0

0

132 209 341


2006

0

0

219 147

366

0

0

0

341 341

Tóm lại, chương trình Thu hoạch sớm ít ảnh hưởng đến quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN đang thực
hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn
khổ AFTA với lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thực tế là nước ta vẫn xuất
siêu sang các nước ASEAN nhưng giá trị nhỏ, khoảng trên 35 triệu USD. Do
đó, lợi ích của Chương trình Thu hoạch sớm đối với các doanh nghiệp Việt


Nam sẽ chủ yếu nhờ vào khai thác các mối quan hệ thương mại với Trung
Quốc.
1.4 Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản
xuất khẩu của Việt Nam

Thị trường Trung Quốc là một thị trường có sức tiêu thụ rất lớn và tiềm
năng với tất cả các nước trong đó có Việt Nam. Nước ta lại có lợi thế về vị trí
địa lý gần gũi khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai
nước được bình thường hóa năm 1991, quan hệ thương mại Việt-Trung có
nhiều khởi sắc. Việt Nam bắt đầu tăng cường xuất khẩu các mặt hàng sang
Trung Quốc như nông sản, thủy hải sản, cao su, dầu thô, khoáng sản, v.v. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc thường không ổn định, trong cơ cấu mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu
thô, giá cả bấp bênh, trong khi đó Trung Quốc lại nhập khẩu nguyên liệu thô
của ta và xuất sang Việt Nam hàng tiêu dùng với chất lượng trung bình và giá
rẻ và các mặt hàng máy móc có giá trị cao.
Khu vực thị trường thu hút nhiều hàng hóa xuất khẩu nhất với Việt
Nam chính là vùng Tây Nam, giáp biên giới Việt Trung. Vùng này bao gồm
12 tỉnh, thành phố với diện tích hơn 5 triệu km2 ( chiếm trên 60 % diện tích
toàn Trung Quốc), dân số hơn 300 triệu người. Đây là vùng miền núi, nhiều
dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa phát triển bằng
vùng duyên hải của Trung Quốc như Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải...
Để cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về giàu
nghèo giữa miền Đông và miền Tây, trong những năm gần đây Đảng và
Chính phủ Trung Quốc đã triển khai chính sách “đại khai phá miền Tây”, với
nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung nguồn vốn lớn để xây dựng cơ
sở hạ tầng, phát triển kinh tế thương mại... cho vùng nay, do vậy nhu cầu về
hàng hoá ở đây rất đa dạng, yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá không


cao, phù hợp với trình độ sản xuất, hàng hoá hiện có của Việt nam, là một
trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc,
nổi lên 2 mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh về kim ngạch là thủy sản
và nông sản. Đây cũng chính là 2 mặt hàng có lợi thế xuất khẩu của nước ta.

Trung Quốc là một nước xuất khẩu thuỷ sản rất lớn trên thế giới, nhưng
đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn ước đạt 32,7 kg/người/ năm
(so với mức bình quân thế giới là 20 kg/người/ năm). Gần đây, Trung Quốc
đang thực hiện chính sách đóng cửa biển 2 đến 3 tháng mỗi năm để bảo vệ
nguồn lợi thủy sản trong nước, nên càng làm tăng lượng thuỷ sản nhập khẩu
vào Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc lại có nhiều điều kiện thuận lợi cho
hàng thủy sản của Việt Nam như sức tiêu thụ lớn, chi phí vận chuyển thấp,
yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng đặt ra không quá cao (so với các nước Liên
minh Châu Âu). Nhiều doanh nghiệp Hồng Kông và Đài Loan đầu tư vào
Trung Quốc muốn nhập hải sản của Việt Nam để chế biến và tái xuất sang thị
trường thứ 3.
Mặt hàng rau quả cũng có điều kiện rất tốt để thâm nhập vào thị trường
Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia nhập WTO về ngắn hạn sẽ không làm thay
đổi vị thế cạnh tranh của rau quả Việt Nam. Về dài hạn, rau quả Việt Nam sẽ
phải cạnh tranh gay gắt với rau quả của Trung Quốc nhưng cũng có nhiều cơ
hội để thâm nhập thị trường này. Theo thống kê, hiện nay tiêu thụ rau quả của
Trung Quốc chiếm tới 36% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam,
tiếp theo là Đài Loan (17%), Nhật Bản (12%), Mỹ (7%), Nga (4%)...
1.5 Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan
sang Trung Quốc


Giữa năm 2003, Thái Lan và Trung Quốc đã ký một bản thỏa thuận đẩy
nhanh việc thực hiện EHP đối với hàng rau quả (nằm trong chương 7 và 8 của
Biểu thuế xuất nhập khẩu). Theo thỏa thuận này, Trung Quốc và Thái Lan cắt
giảm thuế quan đối với hàng rau quả xuống còn 0% kể từ ngày 1-10-2003
Sau đó, Thái Lan và Trung Quốc đã thống nhất việc tăng số lượng các
mặt hàng cắt giảm thuế xuống còn 0% theo chương trình thu hoạch sớm của
FTA Thái Lan-Trung Quốc sau khi chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan
đối với nông thủy sản từ 1/10/2003.

Cuối 2003, Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid đã dẫn một đoàn doanh
nghiệp tới các đặc khu kinh tế ở phía Đông và Tây Trung Quốc để xúc tiến
việc thâm nhập sản phẩm rau quả vào thị trường này. Theo đó, nước này
muốn thực thi các thoả thuận tự do thương mại vùng với Trung Quốc về các
mặt hàng nông thủy sản. Hai bên cũng đã ký thoả thuận tiêu chuẩn hoá về sản
phẩm nông nghiệp, theo đó phía DN Thái Lan cam kết cung ứng hàng chất
lượng cao thường xuyên cho Trung Quốc nhờ tiến trình công nghệ hoá sản
phẩm. Để hàng tới các vùng phía Tây Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn hàng
Việt Nam và Myanmar, phía Thái Lan cũng đã nghiên cứu phương án chuyên
chở sản phẩm không chỉ bằng đường thuỷ mà bằng cả đường hàng không.
Nhằm linh hoạt trong chuyện kinh doanh, phía hàng không Thái Lan cũng đã
có quyết định giao cho tư nhân tự đảm nhận vai trò chuyên chở hàng.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH
THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM


×