Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công nhận và cho thi hành tại việt nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.65 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THẾ BÌNH

CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC
NGOÀI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 603860

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NÔNG QUỐC BÌNH

HÀ NỘI – 2012


LỜI CẢM ƠN

Qua Luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo,
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ em trong suốt quá trình
học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Luật Hà Nội cũng như quá trình thực
hiện Luận văn thạc sỹ Luật học.
Đặc biệt, xin cảm ơn Tiến sỹ Nông Quốc Bình người đã tận tình hướng
dẫn và chỉ bảo để em hoàn thành tốt Luận văn thạc sỹ này.
Xin chân thành cảm ơn!



Học viên

Đỗ Thế Bình


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

5


6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

5

7. Ý nghĩa của luận văn

6

8. Kết cấu của luận văn

6

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG
NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của

7

Tòa án nước ngoài
1.1.1. Khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài

7

1.1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của

9

Tòa án nước ngoài

1.2. Đặc điểm của pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết

10

định dân sự của Tòa án nước ngoài
1.3. Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự theo pháp luật

13

của các nước và điều ước quốc tế
1.3.1. Pháp luật các nước theo hệ thống cấp phép

13

1.3.2. Pháp luật các nước theo hệ thống pháp luật án lệ

15

1.3.3. Pháp luật một số nước khác

17

1.3.4. Một số điều ước quốc tế đa phương về công nhận và cho thi hành

17

bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
1.4. Sự cần thiết của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định

19



dân sự của Tòa án nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Kết luận chương I

21

CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI
2.1. Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi

22

hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2004

22

2.1.2. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

25

2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam đối với vấn đề công nhận và cho

25

thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.2.1. Cơ sở pháp lý để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,


25

quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.2.2. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự

26

của Tòa án nước ngoài
2.2.3. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,

34

quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.2.4. Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

35

2.2.5. Các quy định của pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành tại

37

Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.3. Vấn đề không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết

44

định dân sự của Tòa án nước ngoài
2.3.1. Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không

44


được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
2.3.2. Thủ tục xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự

47

của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam
2.3.3. Thủ tục kháng cáo, kháng nghị và xét kháng cáo, kháng nghị

48

2.4. Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định

49

dân sự của Tòa án nước ngoài


2.4.1. Tình hình công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định

49

dân sự của Tòa án nước ngoài
2.4.2. Thực tiễn về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết

50

định dân sự của Tòa án nước ngoài
Kết luận chương II


53

CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI
3.1. Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,

54

quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế
3.2. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt nam trong vấn đề công nhận

56

và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài
3.2.1. Hoàn thiện về mặt pháp luật (sửa đổi, ban hành mới các văn bản

56

pháp luật có liên quan)
3.2.2. Kiến nghị về việc tham gia sửa đổi, bổ sung các điều ước quốc tế

66

và hiệp định tương trợ tư pháp quy định về công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
3.2.3. Hoàn thiện về cơ chế

69


3.2.4. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp (đặc biệt là những

70

người thực hiện công việc chuyên môn lĩnh vực công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài)
Kết luận chương III

72

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Chủ trương này của Đảng cộng sản Việt Nam lần đầu tiên được
đề cấp tới tại Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1993),
được ghi nhận chính thức tại Đại hội Đảng lần thứ IX và được thể chế hoá tại Điều 2
của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi): Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân…quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ

quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với
đặc trưng đó, bộ máy Nhà nước phải luôn được củng cố, tăng cường để đáp ứng
những nhiệm vụ mà thời kỳ đổi mới đặt ra đó là tinh giản, gọn nhẹ và đặc biệt hoạt
động có hiệu quả theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình đã được pháp luật quy
định. Vì vậy, cùng với việc đề ra các nhiệm vụ để cải cách các cơ quan lập pháp và
hành pháp, tại các Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII)
cũng đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải cách Tư pháp là yêu cầu cấp bách” và ngày 02/01/2002,
Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 08/NQ- TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới”. Trong đó, đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải
cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục
hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, ngày 24/5/2005 Bộ chính trị ban
hành Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và ngày 02/6/2005 Bộ chính
trị đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TƯ về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành cải cách
tư pháp khẩn trương đồng bộ; hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, dân sự, kinh tế,
lao động, hành chính phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, vì nhân


2

dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các cơ quan tư pháp và các
chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện,
phương tiện làm việc. Trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm.

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Toà án năm 2002,
nhiệm vụ trọng tâm của Toà án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của
pháp luật. Thực tế, hoạt động trọng tâm của Toà án là một hoạt động áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung, việc giải quyết được tiến hành theo
một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với nhau,
kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải
quyết vụ án được chính xác, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập
thể và cá nhân.
Bên cạnh công tác xét xử, việc xem xét để công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cũng được
các Tòa án chú trọng và coi đó là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động của ngành.
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động tương trợ tư pháp, một
thủ tục đặc biệt của hoạt động tố tụng dân sự quốc tế. Thủ tục này được quy định tại
Phần thứ 6 của Bộ luật tố tụng dân sự. Thực tế cho thấy việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài những năm gần
đây ngày càng gia tăng, điều đó thể hiện rõ tính chất phức tạp đối với loại vụ việc này.
Trong đó trình độ chuyên môn của những người thực thi pháp luật trong lĩnh vực này
không nhiều, các văn bản pháp luật có liên quan còn nhiều chồng chéo, bất cập, thủ
tục rờm rà và nhất là chúng ta mới hội nhập quốc tế nên không thể không thận trọng
trước mọi diễn biến của các nước tiên tiến trên thế giới. Do đó đòi hỏi trách nhiệm hết
sức nặng nề đối với ngành Toà án nói chung để góp phần làm ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, giữ gìn kỷ cương pháp luật và nhất là để lại một hình ảnh tốt đẹp trong
cộng đồng quốc tế.


3

Mặt khác, thực tiễn giao lưu dân sự quốc tế cho thấy số lượng các bản án,

quyết định được tuyên ở một nước nhưng cần được thi hành ở một nước khác ngày
càng tăng, điều đó dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia để thỏa thuận công
nhận và cho thi hành tại lãnh thổ của nhau các bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Từ sự phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận và thực tiễn có nhiều vấn đề đặt
ra để nghiên cứu, đánh giá thực tế, tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau để có những
căn cứ khoa học về hoạt động xét xử của Toà án nhân dân nói chung và thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
nói riêng. Xuất phát từ những lý do nêu trên nên việc chọn đề tài nghiên cứu: “Công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế” là cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật sau này. Bởi vậy tôi đã chọn đề tài này để làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu chế định “Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài” có một số bài nghiên cứu của các học giả như:
“Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, Trọng tài nước ngoài” của tác giả Nông Quốc Bình, Đại học Luật
Hà Nội, Tạp chí luật học số đặc san về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004; “Hoàn thiện
pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài” của Thạc sỹ Bành Quốc Tuấn – Khoa Luật, Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia; “Thủ tục yêu cầu công nhận/không công nhận bản án dân sự
của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam” của Luật sư Trần Hồng Phong…Đặc biệt là đề
tài khoa học cấp cơ sở “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài” của Tòa án nhân dân tối cao đã góp phần áp dụng đúng các quy
định về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài. Dù xem xét trên phương diện, góc độ nào thì các ý kiến, đánh giá đều đi
đến thống nhất một nhận thức chung là chế định công nhận và cho thi hành bản án,



4

quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài có vai trò quan trọng trong đời sống pháp lý.
Nhận thức được điều đó nên hiện nay pháp luật Việt Nam có bổ sung, sửa đổi nhiều
quy định mới về chế định này. Tuy nhiên hiện chưa có một nghiên cứu nào liên kết
một cách logic, chặt chẽ và mang tính hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
mang tính xuyên suốt cả quá trình hình thành chế định công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài bao gồm:
- Giải quyết vấn đề về lý luận chung của các quy định về công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài;
- Nêu ra những tồn tại trên thực tế cần được khắc phục;
- Những phương hướng giải quyết để góp phần áp dụng đúng các quy định về
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, tìm hiểu bản chất pháp lý và các yêu cầu cơ bản khi thực hiện
các quy định về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài.
- Tìm hiểu những vướng mắc đã xảy ra và có thể xảy ra khi công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
- Trên cơ sở các yêu cầu về lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra các giải pháp
chủ yếu nhằm hoàn thiện một phần các quy định của pháp luật về công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trong bối
cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, nghiên cứu

thực trạng công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, nguyên nhân và những bất cập để từ đó đưa ra những giải pháp


5

đảm bảo cho giải quyết các vụ việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận trong giải quyết việc công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài. Luận
văn không đề cập đến việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
khác của Tòa án nước ngoài và của Trọng tài nước ngoài. Trong phạm vi của một luận
văn thạc sĩ và liên quan đến mốc thời điểm có hiệu lực của Pháp lệnh công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài năm 1993, Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2000, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật dân sự năm
2005 nên phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định từ năm 1993 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư
pháp trong thời gian tới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử Mác xít, chú trọng phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Bên
cạnh đó, còn sử dụng các phương pháp phổ biến và hiện đại khác như thống kê luật học,
so sánh…trong quá trình nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách toàn diện.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Nêu, phân tích và làm rõ được khái niệm, đặc điểm và các giai đoạn của thủ

tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài;
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra được những hạn chế, bất cập của thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
Đồng thời, phân tích làm rõ được nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó;


6

- Đề xuất, phân tích được những quan điểm và các giải pháp có tính khả thi
nhằm đảm bảo của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài,
đồng thời luận văn cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, tài liệu tham khảo cho những
người trực tiếp làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, có
thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập
trong các trường Đại học chuyên Luật và không chuyên Luật…
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương .
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
Chương II: Pháp luật và thi hành pháp luật về công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.



7

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI
1.1. KHÁI NIỆM CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Trong pháp luật quốc tế, khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài được hiểu một cách khái quát nhất là phán quyết của cơ quan tư pháp
nước ngoài trong việc giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy
nhiên, pháp luật quốc tế và hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới khác nhau
thì có quy định về nội hàm của khái niệm phán quyết là khác nhau. Tại Điều 25
Công ước La Hay về công nhận và cho thi hành các phán quyết về những vấn đề dân
sự thương mại năm 1968 có quy định như sau: “Trong Công ước này, phán quyết có
nghĩa là phán quyết được ban hành bởi Tòa án hoặc Trọng tài của bất kỳ một quốc
gia liên quan nào, bất kể phán quyết đó có thể bao gồm bản án, quyết định dân sự,
hoặc lệnh thi hành, cũng như quyết định của Tòa án về án phí, lệ phí”. Như vậy,
phán quyết của Tòa án nước ngoài đã được Công ước La Hay quy định rất linh hoạt
để các quốc gia có sự chủ động nhất định trong việc giới hạn nội hàm của khái niệm
này. Có quốc gia quy định nội hàm của khái niệm này rất rộng nhưng cũng có quốc
gia lại giới hạn nội hàm của khái niệm phán quyết của Tòa án nước ngoài. Cụ thể:
Theo pháp luật của Liên bang Nga quy định về phán quyết của Tòa án nước
ngoài tại khoản 1 và khoản 2 Điều 409 của Bộ luật tố tụng dân sự như sau: “1. Bản án,
quyết định của Tòa án nước ngoài bao gồm cả quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự được công nhận và cho thi hành tại Liên bang Nga trong trường hợp
hiệp định quốc tế của Liên bang Nga có quy định. 2. Bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài là bản án, quyết định dân sự về vụ việc dân sự, trừ tranh chấp kinh
tế và những vụ việc khác liên quan đến hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế

khác và phần quyết định trong bản án kết tội về bồi thường thiệt hại gây ra do hành vi
phạm tội” [34, tr 17, 18]. Theo pháp luật của Pháp, các quyết định thuộc diện công
nhận và cho thi hành bao gồm các quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
của nước ngoài trong lĩnh vực tư pháp ban hành bao gồm:
- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án;


8

- Quyết định của Trọng tài nước ngoài;
- Quyết định của cơ quan hành chính nước ngoài có hiệu lực như bản án,
quyết định dân sự của Tòa án (ly hôn theo thủ tục hành chính);
- Các văn bản do các viên chức công quyền nước ngoài lập (văn bản hành
chính…) [43, tr 181]
Không chỉ trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau nội hàm của
khái niệm phán quyết của Tòa án nước ngoài khác nhau mà ngay trong hệ thống
pháp luật của cùng một quốc gia, ở từng văn bản pháp luật khác nhau, nội hàm của
khái niệm này cũng khác nhau. Cụ thể, trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa
Việt Nam và các quốc gia khác nhau, tùy vào mức độ thân thiện quốc tế, nội hàm
khái niệm phán quyết của Tòa án nước ngoài cũng rất khác nhau. Chẳng hạn: Điều
51, Điều 52 của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Liên bang Nga qui
định: “Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài gồm hai loại: Bản án, quyết
định dân sự không mang tính chất tài sản và bản án, quyết định dân sự mang tính
chất tài sản”.
Khoản 2 Điều 15 của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Trung
Quốc quy định: Các quyết định của Tòa án nói trong hiệp định này ở Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Bản án, quyết định dân sự và biên bản hòa giải
của Tòa án; Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm: phán quyết, tài định và biên
bản hòa giải của Tòa án.
Pháp luật Việt Nam quy định việc xác định phán quyết của Tòa án nước

ngoài tại khoản 1 Điều 342 của Bộ luật tố tụng dân sự, theo đó bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài là bản án, quyết định dân sự về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định dân sự, hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài và bản án, quyết định
dân sự khác của Tòa án nước ngoài mà theo pháp luật của Việt Nam được coi là bản
án, quyết định dân sự. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam bản án, quyết định của Tòa
án nước ngoài chỉ bao gồm các bản án, quyết định dân sự trong lĩnh vực dân sự hay
mang tính chất dân sự.
Có thể nhận thấy, pháp luật của các quốc gia đều đã đưa ra khái niệm về bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tuy có khác nhau về phạm vi, hình thức
nhưng về cơ bản là giống nhau và có thể khái quát rằng: “Bản án, quyết định dân sự


9

Tòa án nước ngoài là bản án, quyết định dân sự được tuyên ở ngoài lãnh thổ một
quốc gia bởi cơ quan tài phán có thẩm quyền và được xem xét bởi một quốc gia
không ban hành bản án, quyết định dân sự đó”.
1.1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm của khái niệm công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài. Để có một cách hiểu tổng
quát nhất tác giả xin đi vào phân tích chi tiết hơn khái niệm mang tính học thuật này.
Theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt thì “công nhận” là việc thừa nhận
trước mọi người là hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc hợp với thể lệ luật pháp và “thi
hành” là làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định [41, tr 299].
Theo định nghĩa trong Từ điển Luật học thì công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là việc thừa nhận và cho phép thi hành bản
án, quyết định dân sự về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình
sự, hành chính của Tòa án nước ngoài theo những nguyên tắc và trình tự pháp lý nhất

định [42]. Cụ thể, công nhận là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa
nhận bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật; là sự cho phép được coi bản
án, quyết định dân sự đó như là sự khẳng định các quyền và nghĩa vụ dân sự của các
chủ thể theo đúng như bản án dân sự trong nước. Đó là một thủ tục tố tụng đặc biệt do
cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án tiến hành nhằm xem xét để
công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trên
phạm vi lãnh thổ của nước mình. Sau khi bản án, quyết định của nước ngoài đó đã
được xem xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được bảo đảm cưỡng chế thi hành trên
lãnh thổ của nước đã công nhận. Thủ tục này nhằm đảm bảo giải quyết xung đột về
quyền tài phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia [25].
Tuy nhiên, để hiểu khái niệm “công nhận và cho thi hành” được đầy đủ thì
không thể tách việc “công nhận” và việc “cho thi hành” ra thành hai chế định khác
nhau mà phải hiểu theo hướng kết hợp cả nội dung “công nhận” và nội dung “cho thi
hành”. Bởi đối với mỗi Nhà nước thì không thể thi hành bản án, quyết định dân sự
một cách cưỡng chế nếu bản án, quyết định dân sự đó chưa được công nhận. Nếu
Tòa án chỉ ra phán quyết quyết định công nhận giá trị pháp lý của bản án, quyết định
dân sự của Tòa án mà không thi hành thì việc công nhận đó không có giá trị trên


10

thực tiễn. Trong một số trường hợp đặc biệt thì có những bản án, quyết định của Tòa
án nước ngoài chỉ cần công nhận (ví dụ bản án ly hôn không có tranh chấp về tài
sản) mà không cần thi hành. Như vậy, chúng ta có thể hiểu công nhận và cho thi
hành tuy là hai giai đoạn hoàn toàn độc lập với nhau nhưng vẫn có mối quan hệ chặt
chẽ. Trên cơ sở được công nhận thì bản án, quyết định dân sự đó có thể được cưỡng
chế thi hành và ngược lại, một bản án, quyết định dân sự muốn được thi hành thì
phải được công nhận. Chúng ta có thể định nghĩa khái niệm công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài như sau: “Công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là hành vi của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền của một quốc gia thừa nhận giá trị (hiệu lực) pháp lý của bản án,
quyết định dân sự của một quốc gia khác và làm cho bản án, quyết định dân sự đó có
hiệu lực cưỡng chế thi hành trên thực tế trên lãnh thổ quốc gia đó” [34, tr 9].
Về hiệu lực của các phán quyết của bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài thì chỉ những bản án quyết định dân sự đã có hiệu lực mới được xem xét
để được công nhận và thi hành tại một quốc gia khác. Trừ một số trường hợp đặc
biệt thì phán quyết của Tòa án nước ngoài tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
cũng có thể được xem xét công nhận và cho thi hành tại một quốc gia khác. Như vậy
chế định pháp luật công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài là chế định quan trọng, bao gồm tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan tới việc công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài. Với những chế định này sẽ tạo cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài trên thực tế đồng thời thúc đẩy giao lưu dân sự giữa các quốc gia, góp phần
tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực dân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội [10].
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI

Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động tương trợ tư pháp, một thủ
tục đặc biệt của hoạt động tố tụng dân sự quốc tế. Do đó, chế định này vừa mang
những đặc điểm của pháp luật tố tụng dân sự vừa mang đặc điểm của tư pháp quốc
tế. Bên cạnh đó, chế định này còn có những đặc điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, Tòa án tiến hành thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự mang tính chất tài sản. Theo pháp luật của đa số các quốc gia trên thế giới


11

thì việc bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài có được công nhận và cho

thi hành tại quốc gia đó được xác định trên hai căn cứ đó là bản án, quyết định dân sự
đó có mang tính tài sản hay không? Bản án, quyết định dân sự đó có cần cưỡng chế thi
hành hay không? Trên thực tế quy định của pháp luật về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài chỉ bao gồm các bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài mang tính chất tài sản mà không bao gồm tất cả các bản
án, quyết định dân sự được Tòa án nước ngoài ban hành. Đối với những bản án, quyết
định dân sự không mang tính chất tài sản thì thông thường chỉ cần tiến hành thủ tục
công nhận là đủ mà không cần phải tiến hành thủ tục cho thi hành.
Thứ hai, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài chỉ được đặt ra sau khi bản án, quyết định dân sự đó đã có hiệu lực pháp
luật: Trong lĩnh vực công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài thì chỉ những bản án, quyết định dân sự nào đã có hiệu lực pháp luật mới được
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp đặc biệt thì có một số bản án, quyết định dân sự vì tính chất cần phải thi hành
ngay để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho đương sự sẽ được Tòa án Việt Nam xem
xét cho thi hành mặc dù bản án, quyết định dân sự đó chưa có hiệu lực pháp luật..
Đồng thời, không phải bất cứ bản án, quyết định dân sự nào có hiệu lực pháp luật,
đương sự cũng được quyền yêu cầu Tòa án quốc gia khác tiến hành công nhận và
cho thi hành. Bởi, theo quy định của từng quốc gia có những bản án, quyết định dân
sự thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ban hành bản án, quyết định dân sự
đó. Vì vậy, Tòa án của nước được yêu cầu có quyền từ chối việc công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự thuộc trường hợp trên.
Thứ ba, nội hàm của pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài không chỉ giới hạn trong việc xem xét đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự mà trong cả những trường
hợp đương sự có yêu cầu không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự thì Tòa án vẫn tiến hành thụ lý và xem xét. Người có quyền yêu cầu Tòa án xem
xét có thể là người được thi hành hoặc người phải thi hành bản án, quyết định dân
sự. Thông thường, người được thi hành sẽ nộp đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xem
xét việc công nhận bản án, quyết định dân sự đó nhằm ngăn ngừa bên kia tiếp tục

khởi kiện về chính vụ việc đã được giải quyết; đồng thời buộc bên thua kiện phải


12

thực hiện những hành vi bất lợi cho mình để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho
bên thắng kiện. Ngược lại, người phải thi hành án sẽ nộp đơn yêu cầu Tòa án không
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật nhằm
mục đích ngăn chặn bên thắng kiện nộp đơn yêu cầu thi hành bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, dù là người được thi hành hay người phải thi
hành bản án, quyết định dân sự thì vẫn nhận được sự trợ giúp của Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu xem xét việc công nhận và cho thi hành.
Thứ tư, bản chất của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài là thủ tục xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành tại
quốc gia nào đó cho bản án, quyết định dân sự được yêu cầu. Do đó, thủ tục xem xét
yêu cầu sẽ phải tuân theo các Điều ước quốc tế mà các bên tham gia ký kết. Trong
trường hợp Điều ước quốc tế không quy định, việc xem xét yêu cầu sẽ phải tuân thủ
theo quy định pháp luật của quốc gia nơi bản án, quyết định dân sự đó được yêu cầu
công nhận và cho thi hành. Việc kiểm tra, xem xét này bao gồm hai cách thức là
kiểm tra toàn diện và kiểm tra hạn chế. Kiểm tra toàn diện là kiểm tra cả về mặt nội
dung và hiệu lực về hình thức của bản án, quyết định dân sự. Việc kiểm tra toàn diện
bao gồm cả khả năng sửa đổi nội dung bản án, quyết định dân sự. Nếu kết quả của
việc kiểm tra này vi phạm pháp luật quốc gia được yêu cầu công nhận và cho thi
hành thì quốc gia đó hoàn toàn có quyền từ chối. Kiểm tra hạn chế là kiểm tra hiệu
lực của bản án, quyết định dân sự theo những tiêu chí và những nội dung nhất định
mà không bao gồm việc sửa đổi bổ sung nội dung của bản án, quyết định dân sự đó.
Hiện nay trên thế giới đa số các quốc gia đều áp dụng phương thức kiểm tra hạn chế
nhằm giảm thiểu chi phí và rút gọn thời gian [34, tr 11].
Thứ năm, yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài có nội dung khá rộng. Nội dung tranh chấp trong bản án, quyết định dân sự

của Tòa án nước ngoài bao gồm các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng,
trong lĩnh vực thương mại và tranh chấp về quyền nhân thân…chứ không bị giới hạn
tranh chấp trong lĩnh vực thương mại như trong các quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Khi bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại
một quốc gia thì nó có giá trị chứng cứ và chứng minh tại quốc gia đó.
Thứ sáu, thông thường mỗi quốc gia sẽ công nhận các bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài thì có giá trị giàng buộc và thi hành chúng theo quy tắc về


13

thủ tục của lãnh thổ nơi bản án, quyết định sẽ được thi hành. Bên cạnh đó, các quốc
gia không được đặt ra các điều kiện về căn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí
cao hơn cho việc công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài. Điều này thường được quy định trong các Điều ước quốc tế hoặc các
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa các quốc gia về công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài. Các quy định này thể hiện nguyên tắc
công bằng, không phân biệt đối xử giữa các quốc gia với nhau.
1.3. CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định
đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người được thi hành án cũng như tránh tình trạng về cùng một vụ việc
nhưng lại bị xét xử hai lần. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, pháp luật về công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là một chế
định quan trọng trong mỗi quốc gia. Nghiên cứu pháp luật của các nước trên thế giới
cũng như các Điều ước quốc tế về vấn đề này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn tổng
quát về nội dung và thực trạng pháp luật trên thế giới về vấn đề đã nêu. Nhìn chung,

pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài được chia thành pháp luật các nước theo hệ thống cấp phép và pháp luật các
nước theo hệ thống án lệ.
1.3.1. Pháp luật các nước theo hệ thống cấp phép
Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định để công nhận và thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài phải dựa trên cơ sở chế độ cấp
phép của Nhà nước và đây là một thủ tục tố tụng đặc biệt. Cụ thể đó là các nước
thuộc hệ thống pháp luật Pháp, hệ thống pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, hệ
thống pháp luật Nhật Bản, hệ thống đăng ký bản án dân sự nước ngoài của Anh và
của một số nước châu Âu, châu Mỹ La tinh…
Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, giấy phép là cơ sở pháp lý để công nhận
và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trên lãnh thổ của
nước mình. Giấy phép do cơ quan có thẩm quyền (thường là Tòa án) nơi bản án,
quyết định dân sự cần được thi hành cấp. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy
phép này được quy định tại Điều 500 đến Điều 526 của Bộ luật tố tụng dân sự của


14

nước Cộng hòa Pháp. Đây là thủ tục tố tụng đặc biệt. Điều 509 Bộ luật tố tụng dân
sự của nước Cộng hòa Pháp thì những bản án của Tòa án và những quyết định của
cơ quan có thẩm quyền nước ngoài được thi hành trên lãnh thổ nước Cộng hòa Pháp
theo thể thức và trong những trường hợp do pháp luật quy định. Theo Quyết định
ngày 07/01/1964 của Tòa án tối cao Pháp thì bản án, quyết định dân sự của Tòa án
được công nhận và cho thi hành nếu sau khi thẩm tra thấy thỏa mãn các điều kiện về
thẩm quyền, thủ tục tố tụng, luật nội dung phù hợp với các quy tắc áp dụng theo
pháp luật xung đột Pháp, không vi phạm trật tự công cộng và không có hiện tượng
lẩn tránh pháp luật trong quá trình xét xử vụ án.
Một nghiên cứu gần đây tại Pháp thực hiện theo yêu cầu của Bộ Trưởng Bộ
Tư pháp Pháp đã xác định rằng số lượng các bản án nước ngoài được thi hành tại

Pháp là rất cao [48]. Việc công nhận và thi hành bản án nước ngoài tại Pháp được
biết đến như “thủ tục giấy chấp ngoại”. Cũng theo nghiên cứu đó cho thấy trung
bình, 95% các bản ản nước ngoài được thực hiện bên ngoài Liên minh châu Âu và
99,5% các bản án nước ngoài được thực hiện trong phạm vi Liên minh châu Âu
được công nhận tại Pháp. Những con số đó cho thấy việc công nhận và cho thi hành
các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài ở Pháp được thực hiện khá phổ
biến. Điều đó cho thấy, hệ thống pháp luật Pháp đã rất chú trọng tới vấn đề này và
thực thi trên thực tế thực sự nghiêm chỉnh.
Tại Nhật Bản, công nhận và thi hành bản án nước ngoài nói chung là một vấn đề
luật pháp quốc gia được chú trọng. Đặc biệt trong hệ thống pháp luật của Nhật, Nhật
Bản chỉ tham gia vào hai Công ước quốc tế có chứa điều khoản về việc công nhận và
cho thi hành bản án. Đó là Công ước quốc tế năm 1992 về trách nhiệm dân sự đối với
thiệt hại ô nhiễm dầu và Công ước quốc tế năm 1992 về việc thành lập một Quỹ Quốc
tế về Bồi thường thiệt hại ô nhiễm dầu. Nhật Bản đã thực hiện Công ước bằng cách ban
hành điều lệ, đó là, Đạo luật về Bồi thường thiệt hại ô nhiễm dầu (Luật số 95 năm 1975
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật số 64 năm 2003). Ngoài hai Công ước trên, Nhật
Bản không tham gia vào Điều ước quốc tế nào khác về công nhận và cho thi hành bản
án của Tòa án nước ngoài. Các trường hợp muốn được công nhận và cho thi hành tại
Nhật Bản đòi hỏi phải tuân theo quy định tại Điều 118 của Bộ luật tố tụng dân sự Nhật
Bản và Điều 24 của Đạo luật thực hiện dân sự.


15

Điều đặc biệt hơn nữa, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được
công nhận ở Nhật Bản không phải thông qua bất kỳ hình thức hoặc thủ tục đặc biệt nào.
Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tự động được công nhận ở Nhật Bản
nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quy định tại Điều 118 của Bộ luật tố tụng dân sự Nhật
Bản. Ngược lại, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài muốn được thi hành tại
Nhật Bản thì phải trải qua một thủ tục đặc biệt đảm bảo cho việc thực thi bản án, quyết

định dân sự đó. Thủ tục này được quy định tại Điều 24 của Luật thực hiện dân sự [49].
1.3.2. Pháp luật các nước theo hệ thống pháp luật án lệ (Common law)
Trong hệ thống Common law, chế định công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án
nước ngoài có sự khác biệt so với quy định trong hệ thống Civil law. Cụ thể, các bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là cơ sở pháp lý để tiến hành mở một
phiên tòa mới theo thủ tục rút gọn, để từ đó tìm ra cơ sở suy đoán bản án mà Tòa án
nước ngoài tuyên có lợi cho ai. Các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
đều có khả năng bị xem xét lại kể cả những tình tiết đã được các bên chứng minh và
đã được Tòa án nước ngoài công nhận, đặc biệt là khi có kháng cáo của một hay
nhiều đương sự. Hình thức này chủ yếu được áp dụng ở Mỹ. Dường như quy định
của hệ thống pháp luật Common law về chế định này có sự khác biệt so với nguyên
tắc chung của tư pháp quốc tế. Bởi, theo nguyên tắc trong tư pháp quốc tế thì bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tuyên nhân danh Nhà nước họ, bản án đó
mang tính chủ quyền quốc gia, do vậy về nguyên tắc nó không bị xét xử lại bởi Tòa
án nước ngoài mà Tòa án nước ngoài chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật
nước mình để tiến hành công nhận và cho thi hành hoặc ngược lại.
Theo pháp luật của Anh thì tùy từng bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài xuất phát từ các quốc gia khác nhau thì có thủ tục công nhận và cho thi
hành bản án đó là khác nhau.
Cụ thể, đối với thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tòa án xứ Wales, Scotland và Bắc Ireland thì phải căn cứ vào Đạo luật năm 1982.
Đạo luật này quy định các đương sự phải tiến hành đăng ký với Tòa án Anh, sau khi
đăng ký thì bản án, quyết định dân sự đó mặc nhiên có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ
nước Anh và được thi hành. Tuy nhiên, thủ tục đăng ký này chỉ giới hạn trong vòng
sáu tháng kể từ ngày bản án, quyết định dân sự được ban hành. Quá sáu tháng, đương
sự sẽ bị mất quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định đó.


16


Đối với bản án, quyết định dân sự do Tòa án của các quốc gia thành viên EU
và Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu như Iceland, Na Uy, Thụy Sĩ hay Đan Mạch
thì căn cứ pháp lý để tiến hành thủ tục công nhận và cho thi hành là Quy chế
Brussels năm 2001 và Lugano Công ước 1988. Theo đó, Tòa án Anh sẽ tiến hành
công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án các nước thành viên
nếu các bản án, quyết định đó được ban hành vào hoặc sau ngày 01/3/2002. Thủ tục
để được công nhận và cho thi hành đòi hỏi đương sự phải tiến hành đăng ký bản án
tại Tòa Hoàng gia (Queen’s Bench Division in the High Court) và đăng ký phải diễn
ra trong vòng sáu năm kể từ ngày có bản án gốc.
Đối với các quốc gia có duy trì quan hệ có đi có lại trong việc công nhận và
thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài với Anh thì luật áp dụng
là luật năm 1933 quy định về thi hành án nước ngoài. Theo đó, Luật này đã ghi nhận
một thể thức đặc biệt về đăng ký bản án dân sự. Sự tồn tại của quan hệ có đi có lại
này phải được xác định trên cơ sở một lệnh của hội đồng và bản án, quyết định đó
hoàn toàn có thể bị bác bỏ nếu thuộc các trường hợp sau đây:
- Bản án không thuộc loại nói ở Luật năm 1933;
- Tòa án nước ngoài tuyên ngoài phạm vi thẩm quyền của họ;
- Bị đơn đã không nhận được kịp thời giấy triệu tập đến Tòa án để có thể bảo
vệ quyền lợi của mình khi Tòa án xét xử vụ án;
- Bản án đăng ký là bản án có được bằng cách lừa đảo;
- Việc thi hành án có thể trái với trật tự công cộng của nước Anh;
- Các quyền được nêu trong bản án không phải là quyền của người được thi
hành án và việc đăng ký bản án tại Tòa án Anh có thể không được chấp nhận nếu
khi tiến hành đăng ký Tòa án phát hiện ra là đã có một bản án của Tòa án Anh có
thẩm quyền tuyên xử vụ án đó và bản án đó đang có hiệu lực pháp luật [45].
Đối với hệ thống pháp luật Hoa Kỳ thì một bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài muốn được công nhận và cho thi hành tại bất kỳ bang nào của Hoa
Kỳ đều phải được Tòa án xem xét lại và nó có thể bị bác bỏ, không được cho thi
hành nếu bị đơn chứng minh được:
- Tòa án nước ngoài tuyên bản án mà không triệu tập bị đơn đến Tòa án một

cách hợp lệ và vì thế mà bị đơn đã không có khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ trước phiên tòa;


17

- Vụ việc cụ thể đó không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài;
- Bản án, quyết định dân sự có được theo cách lừa đảo;
- Việc công nhận hoặc cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài có thể dẫn đến trái với trật tự công cộng của Bang có Tòa án xem xét
yêu cầu cho thi hành án;
- Án dân sự nước ngoài mang tính chất trừng phạt cá nhân hoặc nhằm trả thuế.
1.3.3. Pháp luật một số nước khác
Trong phần này tác giả xin được phân tích quy định của pháp luật Liên bang
Nga. Cụ thể, các quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài được quy định tại chương 45 của Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang
Nga. Cụ thể những bản án, quyết định dân sự sẽ được công nhận và cho thi hành tại
Liên bang Nga nếu là những bản án được ghi nhận tại Điều 409 (Phụ lục I). Theo đó,
Liên bang Nga chỉ tiến hành thủ tục công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài khi giữa Nga và quốc gia ban hành bản án đó có điều ước quốc
tế ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên mà không có trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên,
tháng 6/2009 đã xảy ra một trường hợp hiếm hoi có ý nghĩa quan trọng đối với việc
yêu cầu công nhận và thi hành bản án của Tòa án nước ngoài tại Nga, đó là: Tòa án
Nga đã công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án Hà Lan trong một vụ kiện
thương mại mà không có một hiệp ước song phương giữa Nga với Hà Lan quy định
về vấn đề này (Phụ lục II). Nhiều ý kiến cho rằng hệ thống pháp luật Nga quy định
giới hạn việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài tại Nga tuy đáp ứng được phần nào nhu cầu quản lý của nhà nước nhưng
trong nhiều trường hợp khó đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
Việc thiếu linh hoạt của hệ thống pháp lý của Nga trong lĩnh vực này đã cản trở phát

triển quan hệ kinh doanh hài hòa giữa các pháp nhân của Nga với nước ngoài. Thiết
nghĩ, Liên bang Nga cần quy định nguyên tắc có đi có lại trong hệ thống pháp luật về
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là cần
thiết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
1.3.4. Một số điều ước quốc tế đa phương về công nhận và thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được quy
định trong khá nhiều điều ước quốc tế. Có thể kể đến một số điều ước quan trọng như:


18

- Công ước La Hay ngày 15/4/1958 về công nhận và thi hành các quyết định
về cấp dưỡng (đa số các nước châu Âu tham gia). Trong Công ước này, quyết định
của Tòa án nước tham gia công ước sẽ được công nhận và thi hành tại nước tham gia
công ước kia mà không phải xem xét lại thực chất vụ việc. Để công nhận án dân sự
nước ngoài loại này, ngoài những yêu cầu về tính hợp thức, cần thiết phải đảm bảo
tuân theo quy tắc về thẩm quyền xét xử quốc tế và không vi phạm trật tự công cộng;
- Công ước La Hay ngày 15/4/1958 về thẩm quyền theo hợp đồng đối với các
vụ kiện về mua bán ngoại thương các động sản. Công ước ngày cũng có những quy
định về thi hành án dân sự nước ngoài;
- Công ước New York ngày 20/6/1956 về trích tiền cấp dưỡng người ở nước
ngoài. Công ước này không quy định việc công nhận và thi hành án dân sự nước
ngoài đối với các vụ việc về cấp dưỡng, nhưng có quy định về thể thức giải quyết vụ
kiện nhằm đơn giản hóa thủ tục trích gửi tiền cấp dưỡng ra nước ngoài;
- Công ước La Hay ngày 01/3/1954 về các vấn đề tố tụng dân sự cũng có quy
định về thi hành án liên quan đến thu án phí;
- Công ước La Hay ngày 20/4/1966 về công nhận và thi hành các án dân sự và
thương mại nước ngoài và Nghị định thư bổ sung Công ước đó. Theo Công ước và
Nghị định thư bổ sung này, việc công nhận và thi hành sẽ được tiến hành, nếu: án đó

do Tòa án có thẩm quyền tuyên; án đã có hiệu lực thi hành và cần được thi hành; việc
thi hành không trái với trật tự công cộng; trước đó tại nước phải thi hành hoặc tại một
nước thứ ba đã không tuyên án hoặc không khiếu nại về vụ tranh chấp cụ thể này; bị
đơn đã được tạo cơ hội cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình, mặc dù án được tuyên
vắng mặt bị đơn. Để thi hành các loại án trên, các bên tham gia công ước phải ký kết
với nhau các hiệp định tay đôi về vấn đề đó.
- Công ước La Hay về công nhận và thi hành phán quyết trong lĩnh vực dân
sự và thương mại của nước EEC ngày 27/9/1968 về thẩm quyền quốc tế, về công
nhận và thi hành án dân sự và thương mại. Công ước này có phạm vi rộng hơn Công
ước La Hay năm 1966. Tất cả án dân sự và thương mại đều là đối tượng công nhận
và thi hành theo Công ước, trừ các án liên quan đến quy chế thể nhân (chứ không
phải cả pháp nhân), tài sản vợ chồng (chứ không phải tất cả vấn đề luật Hôn nhân –
gia đình), việc thừa kế và một số vấn đề khác. Bản án, quyết định dân sự nói trên
không được công nhận nếu: vi phạm trật tự công cộng nước tiến hành công nhận;


19

người phải thi hành án không được thông báo hợp lệ về phiên tòa; phán quyết trái
với phán quyết về cùng một vụ kiện đó do Tòa án nước nơi sẽ công nhận tuyên và
một số trường hợp khác;
- Công ước các nước EEC ngày 16/5/1972 về quyền miễn trừ quốc gia có quy
định việc hạn chế quyền miễn trừ của quốc gia thành viên này tuyên nhằm chống
nước thành viên khác (Điều 20). Quốc gia thành viên trong trường hợp đó không thể
viện dẫn đến quyền miễn trừ, nếu theo Công ước (Điều 1-13) quốc gia không được
sử dụng quyền miễn trừ xét xử và nếu bản án đã có hiệu lực. Song quốc gia không
nhất thiết phải thi hành án, nếu việc thi hành trái với trật tự công cộng, nếu án được
tuyên giữa các đương sự, về cùng đối tượng và theo những chứng cứ mà trước đây
làm cơ sở để khởi kiện ở quốc gia phải thi hành án này hoặc quốc gia thành viên thứ
ba; việc thi hành án không trái với quyết định khác về cùng vụ tranh chấp đó trước

đây được tuyên theo đơn gửi đến Tòa án nước này hoặc nước thứ ba; không tuân
theo các quy tắc của công ước mà theo đó các bên tranh chấp được hưởng những
đảm bảo về tố tụng, nếu quốc gia không có đại diện tại phiên tòa và không thực hiện
quyền kháng cáo của mình.
1.4. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN
ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Trong bài phát biểu tại Hà Nội vào chiều ngày 18/11/2006, lễ đón các trưởng
đoàn tham dự hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC – 14 Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết đã khẳng định lập trường của Việt Nam trong việc thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế, đổi mới hơn nữa và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Thực chất
toàn cầu hóa đã là một xu thế tất yếu của thế giới và các quốc gia ngày càng trở nên
phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, hình thành những khu vực liên kết các nền kinh tế
trên thế giới. Cho dù có những cách thức tiếp cận và mục tiêu với mức độ khác nhau
nhưng các quốc gia trên thế giới đều mong muốn được mở rộng hơn nữa mối quan
hệ hợp tác song phương, đa phương nhằm tạo động lực cho sự phát triển của nền
kinh tế quốc gia mình. Thực tế đã chứng minh vai trò ngày càng tăng của các thỏa
thuận song phương, đa phương đã góp phần làm nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng
một cách vững chắc. Quan trọng nhất là việc ký kết các điều ước quốc tế đó đã dung


20

hòa được lợi ích kinh tế của các thành viên. Điều này đã giúp cho các quốc gia tránh
khỏi những mâu thuẫn về lợi ích là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra các
cuộc tranh chấp và xung đột trên thế giới. Do đó, xu thế hội nhập đã trở thành một
lực hút khách quan cuốn theo nó tất cả các quốc gia trên thế giới, không ai có thể
đứng ra ngoài hoặc đi ngược lại với dòng chảy này nếu muốn đạt được mục tiêu tiến
bộ và tăng trưởng bền vững. Đối với Việt Nam, quá trình đổi mới đã diễn ra được

hơn 20 năm với nhiều thành tựu lớn lao. Tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết các
điều ước quốc tế đa phương và song phương là một nội dung quan trọng của quá
trình hội nhập quốc tế. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định
đường lối chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia hội nhập quốc tế
bao hàm nhiều ý nghĩa trong đó nổi lên hai ý nghĩa quan trọng, đó là: Tăng cường vị
thế của đất nước trên trường quốc tế, tránh được nguy cơ về cô lập và tụt hậu; tham
gia các tổ chức quốc tế đồng thời với việc Việt Nam khẳng định nỗ lực đổi mới và
phát triển toàn diện nền kinh tế. Về chính sách đối ngoại, đây là quá trình đấu tranh
và nhượng bộ lẫn nhau về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước. Về mặt đối nội, đây
là quá trình tự đổi mới và hoàn thiện trong cơ chế chính sách kinh tế của Việt Nam
phù hợp với những yêu cầu của các tổ chức quốc tế nhằm phát huy tốt nhất khả năng
của đất nước trong chuyên môn hóa quốc tế. Trong công tác đổi mới và cải cách tư
pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật không thể không nhắc tới việc xem xét vấn đề
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của cơ quan có
thẩm quyền nước ngoài. Đây thực sự là một nội dung quan trọng của hoạt động
tương trợ tư pháp, một thủ tục đặc biệt của hoạt động tố tụng dân sự quốc tế. Thực
tiễn giao lưu dân sự cho thấy trong những năm gần đây số lượng các bản án, quyết
định được tuyên ở một nước nhưng cần được thi hành ở nước khác ngày càng tăng
điều đó dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia để thỏa thuận công nhận và cho
thi hành tại lãnh thổ của nhau các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Có thể nói một bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được
chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật nói chung và tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng.


×