Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.09 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ LAN

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM NĂM 2000

Chuyên ngành

: Luật dân sự

Mã số

: 60.38.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn là


hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Lan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLDS

Bộ luật dân sự

DLBK

Dân luật Bắc kỳ

DLTK

Dân luật Trung kỳ

GCNQSD

Giấy chứng nhận quyền sử dụng

HĐCNQSDĐ

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất


HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

LGĐ

Luật Gia đình

QTHL

Quốc triều hình luật

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết số 35/2000/QH10

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật HN & GĐ năm
2000.

Nghị định số 77/2001/NĐ-CP

Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết
hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của quốc
hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CÁC TRƯỜNG HỢP CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ

CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000… 8

1.1. Khái quát căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng .................................. 8
1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ........................... 14
1.2.1 Sự cần thiết của quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................................... 14
1.2.2. Điều kiện cần và đủ để chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................................... 16
1.2.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................................... 21
1.2.3.1. Trường hợp chia theo thỏa thuận của vợ chồng bằng văn bản .............. 21
1.2.3.2. Trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................................... 22
1.2.4. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................................... 24
1.2.4.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân .............................................................. 24
1.2.4.2 Hậu quả pháp lý về tài sản .................................................................... 25
1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.................................................................... 27
1.3.1 Điều kiện để vợ chồng được thừa kế tài sản của nhau khi một bên
chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết ................................................... 28
1.3.2 Nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi một bên chết trước hoặc
bị Tòa án tuyên bố là đã chết ............................................................................ 29


1.3.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi
một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết ..................................... 36
1.3.3.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân ............................................................. 36
1.3.3.2. Hậu quả pháp lý về tài sản .................................................................. 37
1.4. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ............................................... 38

1.4.1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ......................... 38
1.4.1.1. Trường hợp vợ chồng tự thỏa thuận ..................................................... 39
1.4.1.2. Trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ................................. 40
1.4.2. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .... 46
1.4.2.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân .............................................................. 46
1.4.2.2. Hậu quả pháp lý về tài sản ................................................................... 47
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .... 50
2.1. Thực tiễn áp dụng các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ...................................................... 50
2.1.1. Thành tựu đạt được................................................................................. 50
2.1.2. Một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 về chia tài sản chung của vợ chồng ................................................. 54
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
hiện nay........................................................................................................... 65
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản chung của vợ chồng ................ 65
2.2.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
đối với tài sản chung ........................................................................................ 67
2.2.3. Hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng ..... 69
2.2.4. Hoàn thiện một số quy định pháp luật khác về chia tài sản chung
của vợ chồng .................................................................................................... 70
2.3 Các giải pháp khác ..................................................................................... 72
2.3.1 Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ
áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng ...................................... 72


2.3.2 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân ..................................................................................... 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 76



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Gia đình là tế bào xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người. Trong xã hội hiện
nay gia đình có vai trò lớn trong việc phát triển con người, gia đình có bền vững thì
xã hội mới có thể phát triển mạnh. Nhận thức rõ được vị trí và tác động to lớn của
gia đình tới đời sống kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề
này. Bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau, Nhà nước điều chỉnh quan hệ hôn
nhân và gia đình (HN&GĐ) trong đó bao gồm cả chế định về tài sản chung của vợ
chồng cho phù hợp với sự phát triển của xã hội, hạn chế và đẩy lùi các tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường vào các quan hệ này, cũng như làm lành mạnh hóa, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững.
Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, các điều kiện kinh tế - xã hội đều
ảnh hưởng đến chính sách pháp luật nói chung và các quy định về pháp luật
HN&GĐ nói riêng, trong đó có chế định về tài sản chung của vợ chồng. Bởi vậy,
việc chia tài sản chung của vợ chồng ở các thời kỳ khác nhau được pháp luật quy
định khác nhau. Kế thừa và phát triển các quy định về chia tài sản chung của vợ
chồng trong hệ thống pháp luật trước đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định ba
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp
một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết và chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn. Các quy định này tương đối cụ thể và có nhiều điểm hoàn thiện
hơn so với các quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng ở các thời kỳ
trước, đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản
của vợ chồng, làm ổn định các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành

tựu đã đạt được, một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 về việc chia tài sản
chung của vợ chồng và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử cho
thấy vẫn còn khá nhiều bất cập và vướng mắc cần phải giải quyết. Mặc dù đã có
nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến việc chia tài sản
chung của vợ chồng (điều kiện; nguyên tắc; hậu quả pháp lý của việc chia tài sản


2

chung của vợ chồng…) nhưng thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật vẫn gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc, như việc quy định nguyên tắc chia tài sản chung của
vợ chồng trong trường hợp một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn rất
chung chung, không cụ thể và rõ ràng; các “lý do chính đáng” để vợ chồng được
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng chưa có hướng dẫn cụ thể… chính
điều này đã làm cho công tác xét xử của ngành Tòa án gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tiễn nêu trên, đề tài mà Luận văn đề cập đến là “Chia tài sản chung
của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội, các vấn đề liên
quan đến HN&GĐ luôn được các nhà lập pháp quan tâm, lưu ý. Cũng chính vì lý
do này mà các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề HN&GĐ nói
chung và chế định chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng được rất nhiều nhà
nghiên cứu và các học giả đề cập. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học
này hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một khía cạnh cụ thể của chế định
chia tài sản chung của vợ chồng.
Một số sách chuyên khảo phải kể đến như các giáo trình giảng dạy luật học
tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta: Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam,
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008); Giáo trình Luật HN&GĐ của Khoa Luật –
Đại học Cần Thơ… những cuốn giáo trình này mới chỉ đề cập đến các kiến thức

pháp lý cơ bản và khái quát các vấn đề về HN&GĐ trong đó bao gồm cả chế định
về chia tài sản chung của vợ chồng. Bên cạnh đó, một số sách tham khảo liên quan
đến chia tài sản chung của vợ chồng như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” của tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị
Hường; tác giả Nguyễn Ngọc Điện với “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam”; cũng mới chỉ đề cập một cách khái quát về các trường hợp chia tài
sản chung của vợ chồng và trích đăng phụ lục các văn bản liên quan đến vấn đề
HN&GĐ mà chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích các trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng.
Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình nghiên cứu khác như: Luận án:


3

“Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của TS.
Nguyễn Văn Cừ (2005), công trình này nghiên cứu một cách toàn diện tất cả các
vấn đề chung về chế độ tài sản của vợ chồng trong đó bao gồm các trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên do nghiên cứu tổng thể vấn đề về chế độ tài
sản của vợ chồng theo quy định của hệ thống pháp luật HN&GĐ Việt nam cũng
như pháp luật của một số nước trên thế giới nên chưa tập trung vào việc phân tích
cụ thể các vấn đề liên quan đến từng trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng.
Hay công trình: “Nghiên cứu phát hiện những bất cập của Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2011) do TS.
Nguyễn Văn Cừ làm chủ nhiệm, đã nghiên cứu khá sâu sắc các quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000. Nhưng do chỉ tập trung nghiên cứu, phát hiện những vướng
mắc, bất cập của Luật HN&GĐ, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện mà việc phân
tích cụ thể các quy định của Luật HN&GĐ về các trường hợp chia tài sản chung
của vợ chồng cũng như việc tìm hiểu thực tiễn xét xử về vấn đề này chưa được đề
cập đến nhiều. Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình của các tác giả khác
như: Tác giả Lê Thị Thu Hà với Luận văn thạc sỹ: “Quan hệ tài sản giữa các thành

viên trong gia đình theo Luật HN&GĐ năm 2000”; tác giả Lê Thị Phương Thúy
với Khóa luận tốt nghiệp: “Một số vấn đề về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ năm 2000”… Tuy nhiên, một số công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu khái quát, sơ lược về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng.
Một số công trình khác như: Khóa luận tốt nghiệp: “Chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Đỗ Thị Thanh Huệ; Khóa luận tốt
nghiệp: “Một số vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ
năm 2000” của tác giả Nguyễn Thị Bích Vân… các công trình này chủ yếu nghiên
cứu riêng lẻ từng trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, do vậy, chưa đánh
giá được toàn diện và chưa so sánh được các quy định của pháp luật về các trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng với nhau.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số bài viết khác trên các tạp chí như: Bài viết
“Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả
Nguyễn Hồng Hải đăng trên Tạp chí Luật học số 5/2003; tác giả Nguyễn Phương
Lan với bài viết: “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong


4

thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Luật học số 6/2002. Tuy nhiên, các bài viết này mới chỉ
đề cập đến một khía cạnh nhỏ của một trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
mà không đi phân tích một cách có hệ thống và toàn diện về các trường hợp chia tài
sản chung của vợ chồng.
Như vậy, chưa có công trình nào đề cập và nghiên cứu một cách toàn diện,
sâu sắc và có hệ thống về tất cả các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
như ở công trình này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Bộ luật dân
sự năm 2005 (BLDS năm 2005) và các văn bản pháp luật có liên quan về vấn đề
chia tài sản chung của vợ chồng, từ đó phân tích làm rõ các quy định của pháp luật

về điều kiện, nguyên tắc cũng như hậu quả pháp lý của các trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng. Trong quá trình phân tích, tác giả cũng đưa ra một số ví dụ
điển hình trên thực tế mà Tòa án đã tiến hành xét xử để từ đó thấy được những
vướng mắc, khó khăn mà Tòa án gặp phải trong quá trình áp dụng các quy định của
pháp luật. Trên cơ sở phân tích làm nổi bật những hạn chế, vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật giải quyết vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng, tác giả
đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng.
Với mục đích trên, Luận văn được thực hiện với các nhiệm vụ sau:
Từ các quy định của pháp luật hiện hành, Luận văn nghiên cứu từng trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng, trong mỗi trường hợp Luận văn làm sáng tỏ
các nguyên tắc, điều kiện và hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ
chồng cũng như sự cần thiết của việc đặt ra quy định về từng trường hợp chia tài
sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000. Đồng thời, qua việc phân
tích nội dung quy định của pháp luật về các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng, Luận văn cũng đưa ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, của các quy định
đó, để làm cơ sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng qua
hoạt động xét xử của ngành Tòa án khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc
chia tài sản chung của vợ chồng. Qua đó, đánh giá được những thành tựu đã đạt


5

được và những hạn chế của việc áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng.
Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hiện hành về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, Luận văn đưa ra một
số kiến nghị, đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật HN&GĐ
năm 2000 để hoàn thiện các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng.
Từ những nhiệm vụ trên, Luận văn được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi

Luật thực định quy định về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Nội
dung chủ yếu của đề tài được đề cập tại chương I của Luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, theo đó: Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng. Pháp luật là
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, được hình thành từ cơ sở hạ tầng phù hợp.
Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được
coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, đề tài
còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quy định của
pháp luật về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng qua một số thời kỳ lịch sử ở
Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề
liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ bản
của từng vấn đề được nghiên cứu trong Luận văn;
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp
luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam về vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán của
gia đình truyền thống Việt Nam;
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn
hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp
từ quan hệ HN&GĐ liên quan đến việc chia tài sản của vợ chồng. Từ đó tìm ra mối
liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa?
Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó? Xem xét nội dung quy định của pháp luật


6

về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm

nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
5. Những điểm mới của Luận văn
Nếu như các công trình nghiên cứu khoa học khác nghiên cứu vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng dưới góc độ là một phần nhỏ của công trình hay một số
công trình nghiên cứu khoa học khác chỉ nghiên cứu từng trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng thì Luận văn là công trình khoa học phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000. Trong quá trình nghiên cứu Luận
văn được trình bày các điểm mới sau:
Xây dựng và phân tích khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng. Từ trước
đến nay trong khoa học pháp lý nói chung và Luật HN&GĐ năm 2000 nói riêng, ở
nước ta chưa có một khái niệm thống nhất về chia tài sản chung của vợ chồng. Việc
đưa ra khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng là một vấn đề hết sức cần thiết.
Có xác định được khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng thì mới có thể hiểu
được ý nghĩa của việc đặt ra các quy định về các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng.
Đồng thời, với việc phân tích nội dung các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện hành, Luận văn còn đưa ra một số quy
định pháp luật của các thời kỳ trước và pháp luật của một số nước về vấn đề chia
tài sản chung của vợ chồng làm căn cứ cho việc so sánh với quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000, từ đó thấy được tính hợp lý và bất hợp lý của cả ba trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.
Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng luật về vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng, Luận văn chỉ rõ được các hạn chế, vướng mắc, bất cập, không hợp lý, chưa
bảo đảm được tính khoa học về những quy định của Luật thực định khi điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng; từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Nội dung của Luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là cho



7

các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng; biết
được vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp nào, nếu được
chia thì nguyên tắc chia sẽ được áp dụng như thế nào, phần quyền và nghĩa vụ của
mình đối với các nghĩa vụ chung của vợ chồng đối với bên thứ ba khi tài sản đã được
chia trong từng trường hợp, biết được tài sản nào được chia và tài sản nào không bị
chia… Từ đó góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận,
hạnh phúc và bền vững.
Tác giả cũng hy vọng Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích trong
quá trình học tập và nghiên cứu liên quan đến pháp luật HN&GĐ về chia tài sản
chung của vợ chồng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm hai chương:
Chương 1: Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng.


8

CHƯƠNG 1
CÁC TRƯỜNG HỢP CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
1.1. Khái quát căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
Luật HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở xem xét mối liên hệ giữa tài sản và cuộc
sống vợ chồng, từ thực tiễn đã quy định vợ chồng có tài sản chung. Tài sản theo

nghĩa từ điển học là “của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng”(1),
trong khi đó, theo quy định của BLDS năm 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163). Trên phương diện khách quan, tài sản
chung của vợ chồng có thể hiểu là toàn bộ những quy định của pháp luật về việc
hình thành khối tài sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với khối tài sản chung. Do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng
chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung nhằm bảo đảm nhu cầu đời sống
chung của gia đình, pháp luật quy định tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu
chung hợp nhất (khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000; khoản 1 Điều 219
BLDS năm 2005), theo quy định tại khoản 1 Điều 217 BLDS năm 2005 thì: “Sở
hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ
sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung…” và sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia khi vợ
chồng có lý do chính đáng; khi quan hệ hôn nhân chấm dứt (Điều 29, Điều 31;
Điều 95 Luật HN&GĐ). Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể các căn cứ
xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa vào “thời kỳ hôn nhân” và nguồn gốc các
loại tài sản, theo đó, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là
tài sản chung. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, pháp luật quy định quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế

1

Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


9


riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Như vậy, những tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc
khối tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật của nhiều nước cũng dự liệu “thời kỳ
hôn nhân” làm căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Khoản 2 Điều 30 Luật
Gia đình Cộng hòa Cu Ba quy định: Tài sản chung của vợ chồng được xác lập bao
gồm những “tài sản mua sắm và quyền lợi tạo ra trong thời gian hôn nhân bằng
tiền hoặc vốn chung dù là nhân danh cả hai vợ chồng hay nhân danh một người mà
mua sắm tài sản để tạo ra quyền lợi”. Cùng với nội dung này, Điều 13 Luật hôn
nhân năm 1980 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Tài sản của vợ
chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra,
mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài quy định trên”.
“Thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp
luật, được tính từ khi hai bên nam nữ đăng ký kết hôn và chấm dứt khi một bên vợ,
chồng chết hoặc hai vợ chồng ly hôn. Việc kết hôn đó được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận theo đúng thủ tục và các điều kiện Luật định.
Trước khi ban hành Luật HN&GĐ năm 2000, hệ thống pháp luật của nhà
nước ta còn chấp nhận tình trạng “kết hôn không đăng ký” (gọi là “hôn nhân thực
tế” được thừa nhận trong các văn bản pháp luật như: Thông tư số112–NCPL ngày
19/8/1972 của TANDTC hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm
điều kiện kết hôn (Luật HN&GĐ năm 1959); Thông tư số 81-DS ngày 27/4/1981
của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, đã công nhận “hôn
nhân thực tế”, giữa vợ chồng vẫn được hưởng di sản của nhau; Nghị quyết số
01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) Tòa án nhân dân
tối cao (TANDTC) hướng dẫn Tòa án nhân dân (TAND) các cấp áp dụng một số
quy định của Luật HN&GĐ năm 1986. “Hôn nhân thực tế” được thừa nhận sẽ có
hiệu lực như hôn nhân hợp pháp, quan hệ vợ chồng được pháp luật bảo hộ.
Thực tế cho thấy, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong việc xét xử, tư tưởng không tuân thủ
pháp luật của một số người. Cho nên, Luật HN&GĐ năm 2000 (có hiệu lực từ ngày

01/01/2001) đã dự liệu xóa bỏ tình trạng “kết hôn không đăng ký”. Tuy nhiên, trên
thực tế, số lượng cặp “vợ chồng” không đăng ký kết hôn là rất lớn, do vậy để bảo


10

vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như tạo điều kiện để các cặp “vợ chồng” này có
thể hợp thức hóa quan hệ vợ chồng, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp
luật hướng dẫn cụ thể Luật HN&GĐ năm 2000 về việc giải quyết hậu quả pháp lý
của “hôn nhân thực tế” (2). Theo các văn bản này quy định, những trường hợp nam,
nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà chưa đăng ký kết hôn trước ngày Luật
HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực (01/01/2001) được giải quyết như sau:
Đối với trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987
(ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, thì được
khuyến khích đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn thì
Tòa án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000
để giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được
xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn
được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ
chồng) chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng
chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng thì theo quy
định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội, họ có nghĩa
vụ phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 cho đến
ngày 01/01/2003, trường hợp này cần phân biệt:
Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003, nếu họ chưa đăng ký kết
hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án và
áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết vụ án ly
hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký

kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 thì quan
hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung

(2)

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ (Nghị quyết số
35/2000/NQ-QH10); Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 (Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP); Nghị định số 77/2001/NĐ-CP
ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của quốc
hội về việc thi hành Luật HN&GĐ (Nghị định số 77/2001/NĐ-CP) và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của TANDTC, VKSNDTC, BTP hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
35/2000/QH10 (Thông tư số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP).


11

sống với nhau như vợ chồng chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết hôn. Như
vậy, trong trường hợp này “thời kỳ hôn nhân” của họ được tính từ ngày họ bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng.
Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật
không công nhận họ là vợ chồng; nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn,
thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35
của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000, bằng bản án tuyên bố
không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì
Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết
theo thủ tục chung. Theo đó tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng
của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa
thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có
tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của
phụ nữ và con.
Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn và sau đó một bên hoặc

cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn
của Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần
chú ý là trong trường hợp này, quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã
xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn. Như vậy, theo quy định này, những tài sản
của vợ chồng tạo ra từ sau ngày họ đăng ký kết hôn mới được coi là tài sản chung
của vợ chồng, còn những tài sản mà họ tạo ra từ thời điểm chung sống với nhau đến
khi đăng kí kết hôn thì không được xếp vào diện tài sản chung của vợ chồng. Do
vậy, có thể xác định đây là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần, nếu vợ chồng
thỏa thuận thì coi đó là sở hữu chung hợp nhất.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan khác nhau mà đến sau ngày
01/01/2003 vẫn còn rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng trước ngày 01/01/2001 chưa được đăng ký kết hôn. Vì vậy, để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của công dân, đặc biệt là quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em, trên
cơ sở Kết luận số 84a/UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, Bộ
trưởng Bộ tư pháp đã ra Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 về việc tiếp
tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ


12

chồng. Theo đó, các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, có đủ điều kiện kết hôn theo Luật HN&GĐ năm
2000 và đã xin đăng ký kết hôn (đã được rà soát và lập danh sách) nhưng chưa
được cấp Giấy chứng nhận kết hôn trong thời hạn quy định tại điểm b mục 3 Nghị
quyết số 35/2000/QH10) vẫn được quyền đăng ký kết hôn đến trước ngày
01/8/2004. Như vậy, trước ngày 01/8/2004, các bên nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng thuộc trường hợp trên mà chưa được cấp giấy chứng nhận kết hôn
vẫn được coi là có quan hệ vợ chồng.
Ngoài ra, đối với các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân có được coi là tài sản chung của vợ chồng (tài sản phát sinh

trong thời kỳ hôn nhân) hay vì phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng do vậy vẫn
thuộc tài sản riêng của vợ, chồng? Quy định về vấn đề này, theo Điều 1401 BLDS
Pháp thì: “Tài sản của vợ chồng bao gồm những thu nhập chung của hai vợ chồng
hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ
công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi,
lợi tức của tài sản riêng của họ…”. Hệ thống pháp luật HN&GĐ ở nước ta dưới
chế độ cũ cũng đã quy định cụ thể vấn đề này: Khoản 4 Điều 54 Sắc luật số 15/64
ngày 23/7/1964 (Sắc luật số 15/64) và khoản 4 Điều 151 BLDS ngày 20/12/1972
dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu (BLDS năm 1972) đã quy định hoa lợi của tất cả
các tài sản thủ đắc trước hay trong thời gian hôn thú đều thuộc khối tài sản chung
của vợ chồng. Pháp luật HN&GĐ hiện hành chưa có quy định cụ thể về vấn đề này,
do vậy dẫn đến các quan điểm không thống nhất khi xác định loại tài sản này. Thiết
nghĩ xuất phát từ tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, tài sản do vợ chồng
tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng và tài sản này không
nhất thiết do cả hai bên cùng trực tiếp tạo ra mà chỉ cần một bên vợ hoặc chồng tạo
được trong thời kỳ hôn nhân. Do vậy, Nhà nước cần ban hành quy định mới xác
định cụ thể các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng trong
thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Những tài sản (bao gồm cả động sản và bất động sản) do vợ, chồng tạo ra
hoặc tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung trong thời kỳ hôn
nhân (trừ tài sản riêng của vợ, chồng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.


13

Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng
đã tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể do vợ chồng thỏa
thuận bằng văn bản hoặc mặc nhiên.
Thực tế giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng cho
thấy, việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng gặp không ít khó khăn,

vướng mắc. Vì đời sống chung của gia đình, nhiều trường hợp tài sản riêng của một
bên đã được bảo đảm cho nhu cầu chung của gia đình mà không còn nữa; hoặc có
sự chuyển hóa, trộn lẫn giữa các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng
trong quá trình sử dụng dẫn tới các ranh giới ban đầu về tài sản chung và tài sản
riêng giữa vợ chồng không còn nữa và rất khó xác định. Xuất phát từ thực trạng đó,
nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng và hợp lý, khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ
năm 2000 đã quy định: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản
mà vợ chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản
chung”. Đây là nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng lần đầu tiên
được quy định trong Luật HN&GĐ hiện hành (Luật HN&GĐ năm 1986 không quy
định cụ thể nguyên tắc này). Việc suy đoán tài sản chung mà nhà làm luật quy định
tại khoản 3 Điều 27 có ý nghĩa như một nguyên tắc có tính chất định hướng trong
việc giải quyết các tranh chấp giữa vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản(3).
Tóm lại, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định các căn cứ xác lập tài sản
chung của vợ chồng, dựa vào “thời kỳ hôn nhân” và nguồn gốc của các loại tài sản
thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tất cả các loại tài sản mà vợ chồng có được
từ sau ngày đăng ký kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng (trừ tài sản riêng của vợ, chồng). Trường hợp công nhận hôn
nhân không có đăng ký kết hôn chỉ là một trường hợp đặc biệt ngoại lệ và quan hệ
hôn nhân trong trường hợp này được tính phát sinh kể từ ngày nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà không phải từ ngày đăng ký kết hôn để hợp thức quan
hệ vợ chồng của họ trước pháp luật (Nghị quyết số 35/2000/QH10) (4). Những quy
định này, có ý nghĩa quan trọng nó không chỉ tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền của
(3)

ThS. Đoàn Thị Phương Diệp, “Nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
và Luật Dân sự Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử.
(4)
Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án tiến
sĩ Luật học, trang 97.



14

vợ chồng đối với tài sản chung mà còn giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng một cách hiệu
quả hơn.
Mục đích của kết hôn là nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, cùng nhau
chung sống suốt đời nhưng cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng “êm đềm”.
Trong quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm thường được đưa lên vị trí hàng đầu,
không có sự phân biệt rạch ròi nguồn gốc tài sản và tài sản của ai nhưng cuộc sống
gia đình không tránh khỏi việc phát sinh các mâu thuẫn, và khi mâu thuẫn trong gia
đình phát sinh, lúc đó các tranh chấp về tài sản mới được đặt ra, tùy theo mức độ
khác nhau mà họ có thể yêu cầu ly hôn hoặc chia tài sản chung mà không yêu cầu
ly hôn. Chính vì vậy, việc quy định chế định chia tài sản chung của vợ chồng trở
thành một nhu cầu tất yếu. Một mặt giải tỏa được những xung đột, mâu thuẫn trong
gia đình giúp cho các cá nhân tự phát huy được khả năng của mình. Mặt khác giúp
cho các Tòa án giải quyết nhanh chóng các vụ việc.
Từ những phân tích trên đây có thể hiểu “Chia tài sản chung của vợ chồng
là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh việc vợ
chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án nhân dân quyết định các trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên những
điều kiện và nguyên tắc Luật định nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng đối với tài sản chung”.
Trong nhiều năm qua kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời và có hiệu
lực, các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bước đi vào cuộc
sống và phát huy được hiệu quả, không chỉ góp phần xây dựng, củng cố chế độ
HN&GĐ Việt Nam mà còn bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của vợ, chồng
và các thành viên trong gia đình.
1.2 . Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

1.2.1. Sự cần thiết của quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Trước đây trong hệ thống pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta, trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mới được quy định trong
Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 18). Luật HN&GĐ năm 1959 chưa quy định vấn đề


15

này. Kế thừa và phát triển quy định này của Luật HN&GĐ năm 1986, Luật
HN&GĐ năm 2000 tiếp tục quy định trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân (Điều 29, 30). Sở dĩ pháp luật quy định việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bởi xuất phát từ các lý do:
Thứ nhất, do các điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hơn nữa
trong nền kinh tế thị trường, do tính chất công việc, nghề nghiệp của vợ, chồng cần
tự chủ trong các trường hợp đầu tư kinh doanh, nếu sử dụng tài sản chung của vợ
chồng để đầu tư, kinh doanh sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chung của gia đình
trong trường hợp việc đầu tư, kinh doanh đó gặp rủi ro. Để bảo vệ quyền và lợi ích
chung của gia đình cũng như tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân,
quyền tự do kinh doanh được pháp luật công nhận, việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận.
Thứ hai, do cuộc sống chung của vợ chồng khó tránh được xung đột, mâu
thuẫn, nhiều trường hợp chỉ yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng nhưng lại
không muốn ly hôn mà chỉ muốn có tài sản để thực hiện việc đầu tư, sản xuất, kinh
doanh riêng… Đáp ứng nhu cầu này của vợ chồng nhằm mục đích xây dựng gia
đình êm ấm, hạnh phúc và ổn định quan hệ xã hội, pháp luật cho phép vợ chồng có
quyền chia tài sản chung ngay khi hôn nhân còn tồn tại.
Thứ ba, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, trường hợp
do vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (những món nợ mà vợ, chồng
vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân mà sử dụng vào mục đích

riêng), trong trường hợp này nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ
chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên
thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người
vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
Việc quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tạo cơ
sở cho vợ, chồng tự do tham gia vào các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống gia
đình, ngoài lợi ích đạt được, vợ, chồng cũng phải có nghĩa vụ tài sản đối với người
thứ ba có quan hệ giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Muốn bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người thứ ba phải biết được về chế độ tài sản


16

của vợ chồng để xác định khả năng thanh toán của vợ, chồng bảo đảm trong việc
thực hiện nghĩa vụ, tránh những tranh chấp có thể xảy ra gây hậu quả bất lợi cho cả
hai bên. Ngoài ra, việc quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân còn tạo cơ sở pháp lý để phân định rõ trách nhiệm của vợ chồng trong quản
lý, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và xây dựng
gia đình hạnh phúc, hòa thuận. Chính điều này, đã làm giảm những mâu thuẫn của
vợ chồng xuất phát từ khối tài sản chung của họ. Từ đó, có thể thấy việc quy định
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong các trường hợp nói chung và trong
thời kỳ hôn nhân nói riêng là rất quan trọng và cần thiết.
1.2.2. Điều kiện cần và đủ để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000: “Khi hôn nhân
tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài
sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận
được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ”.

Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ
đặt ra khi có yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng hoặc của cả hai người. Nếu mỗi
người thấy rằng việc chia tài sản là cần thiết thì có thể thỏa thuận với vợ, chồng
mình để chia tài sản, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Luật
HN&GĐ hiện hành chỉ cho phép vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà không cho bất kỳ một chủ
thể nào khác có quyền này, kể cả người có quyền lợi liên quan đến việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (ví dụ như chủ nợ của một bên vợ hoặc
chồng). Việc pháp luật không thừa nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân cho chủ thể thứ ba – người có quyền lợi liên quan
đến tài sản của vợ chồng đã không bảo đảm được quyền lợi của những người này.
Bởi lẽ trong trường hợp vợ hoặc chồng có nghĩa vụ với chủ thể này mà không thực
hiện thì họ phải được quyền yêu cầu vợ chồng chia tài sản chung để thực hiện
nghĩa vụ của một bên vợ hoặc chồng. Có thể nói, đây là một thiếu sót, hạn chế mà
pháp luật cần phải bổ sung.


17

Nếu như việc vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân được quy định là điều kiện tiên quyết để vấn đề chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được đặt ra thì để việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện, ngoài điều kiện nêu trên
Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định vợ chồng phải có những lý do chính đáng.
Điều này là cần thiết, bởi việc chia tài sản sẽ ảnh hưởng đến khối cộng đồng tài sản,
ảnh hưởng đến nền tảng kinh tế chung của gia đình, từ đó tác động đến sinh hoạt
bình thường của vợ chồng, con cái, tác động đến lợi ích chung của gia đình. Chính
vì thế, chỉ trong những trường hợp cần thiết, để đáp ứng nhu cầu khách quan, lợi
ích của các thành viên trong gia đình thì khối cộng đồng tài sản mới được phân
chia. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì những lý do để vợ chồng có

thể yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:
- Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng
Điều 57 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật”. Để phù hợp với nền kinh tế thị trường và xu
hướng hội nhập của toàn cầu thúc đầy nền kinh tế phát triển, Nhà nước ta đã có
những chính sách quan tâm khuyến khích công dân tự do kinh doanh phát triển
kinh tế. Theo đó quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận tại đạo luật cao nhất của
nước ta – Hiến pháp năm 1992, ngoài ra quyền này còn được cụ thể hóa và được
ghi nhận bởi các quy định của pháp luật chuyên ngành khác nhau như BLDS, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại… Do vậy, mọi công dân đều có quyền được tự do
kinh doanh dưới bất kỳ hình thức nào mà pháp luật không cấm. Hơn nữa trong nền
kinh tế thị trường như hiện nay vợ, chồng có quyền đầu tư, kinh doanh trong khuôn
khổ pháp luật vì lợi ích của cá nhân vợ, chồng, lợi ích chung của gia đình. Vợ,
chồng lựa chọn “thời cơ” trong đầu tư, kinh doanh, cũng có thể do tính chất công
việc, nghề nghiệp của vợ, chồng mà vợ, chồng lựa chọn quyết định. Khi có gia
đình, việc kinh doanh của người vợ hoặc chồng không phải lúc nào cũng có thể
thực hiện theo ý muốn của mình, do họ còn bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân,
quyết định của họ không chỉ ảnh hưởng đến riêng bản thân họ mà còn liên quan đến
quyền và lợi ích chung của cả gia đình. Chính vì lẽ đó, để đảm bảo và tạo điều kiện
cho vợ hoặc chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh, Luật HN&GĐ năm


18

2000 đã kế thừa và phát triển quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 cho phép vợ
chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Đây là một
điểm mới so với Luật HN&GĐ năm 1959. Quy định này, đồng thời bảo vệ được lợi
ích chung của gia đình trước hậu quả của việc kinh doanh. Không phải trường hợp
nào kinh doanh đều mang lại hiệu quả kinh tế, có nhiều nguyên nhân khác nhau có
thể làm cho việc kinh doanh không được “thuận buồm xuôi gió” dẫn tới thua lỗ, thì

lúc này người vợ, chồng đã quyết định đầu tư kinh doanh chịu trách nhiệm bằng
khoản tài sản riêng của mình đã được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng
mà không ảnh hưởng đến lợi ích chung của cả gia đình.
- Vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Khi tham gia vào các quan hệ xã hội khác nhau, việc phát sinh các nghĩa vụ
dân sự là một điều tất yếu. Điều 280 BLDS năm 2005 quy định: “Nghĩa vụ dân sự
là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ)
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Theo đó, trong quan
hệ vợ chồng, nghĩa vụ dân sự riêng có thể được hiểu là các nghĩa vụ phát sinh do
hành vi không vì lợi ích chung của gia đình của một bên vợ hoặc chồng thực hiện
trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Nghĩa vụ dân sự này có thể là người vợ hoặc
người chồng đã vay nợ chủ thể thứ ba để sử dụng vào nhu cầu riêng hay trong
trường hợp người vợ hoặc người chồng đã vi phạm pháp luật dẫn tới hậu quả buộc
phải thực hiện một nghĩa vụ dân sự nào đó (bồi thường thiệt hại).
Khi phát sinh các nghĩa vụ dân sự riêng, về nguyên tắc người vợ hoặc chồng
có nghĩa vụ dân sự riêng phải dùng tài sản riêng của mình, nếu tài sản riêng của
người đó không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thể thỏa thuận dùng tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu
cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần tài sản
của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán nghĩa vụ dân sự
riêng đó.
Pháp luật quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng cũng đồng thời nhằm bảo đảm quyền


19

lợi cho người thứ ba khi tham gia giao dịch dân sự, đồng thời tạo điều kiện để vợ

chồng có thể thực hiện tốt nhất trách nhiệm của mình khi tham gia quan hệ tài sản
với người thứ ba. Nó còn là cơ sở phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên vợ,
chồng trong quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản trong gia đình.
- Trường hợp có lý do chính đáng khác
Trong đời sống xã hội, có rất nhiều lý do mà pháp luật không thể dự liệu hết
để có thể chia tài sản chung của vợ chồng. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển
của nền kinh tế kéo theo đó là sự phát triển của các mối quan hệ xã hội mà pháp
luật không kịp dự liệu để điều chỉnh; Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định trong
trường hợp vợ chồng có “lý do chính đáng khác” thì có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là một quy định “mở”
không mang tính chất liệt kê cụ thể. Điều này, đã tạo ra sự linh hoạt trong việc giải
quyết các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, pháp
luật đã mở rộng các trường hợp vợ chồng có thể yêu cầu chia tài sản chung. Tuy
nhiên, ở khía cạnh khác, quy định này đã dẫn đến mặt trái của nó, vợ, chồng có thể
nhân cơ hội này để thỏa thuận chia tài sản chung một cách tùy tiện nhằm trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ dân sự hay tẩu tán tài sản. Nếu như trước đây theo sự hướng dẫn
của nghị quyết số 01/NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 thì “trong khi hôn nhân
còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng
(như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn
mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản
được chia như khi xử về ly hôn”. Quy định này, thể hiện bản sắc dân tộc, phù hợp
với phong tục tập quán, với nếp suy nghĩ của người phương Đông, trước hết vì sự
yên ấm của gia đình, vì lợi ích con cái mà vợ chồng không muốn ly hôn, họ có thể
yêu cầu chia tài sản chung. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 lại chưa có quy
định cụ thể thế nào được coi là “lý do chính đáng khác”, do vậy, không có cơ sở để
đánh giá xem xét lý do mà vợ chồng đưa ra chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân có chính đáng hay không. Chính điều này, đã làm nảy sinh những quan điểm
không thống khi xét xử, dẫn đến tình trạng cùng một lý do nhưng Tòa án này lại
xác định là “lý do chính đáng” nhưng Tòa án khác lại không xem đó là “lý do chính



×