ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÃ THỊ TUYỀN
CHÕ §é TµI S¶N CñA Vî CHåNG THEO
LUËT H¤N NH¢N Vµ GIA §×NH VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lã Thị Tuyền
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG 9
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG 9
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng 9
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng 12
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng 13
1.2. NỘI DUNG CÁC LOẠI CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 15
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ tài
sản ước định) 16
1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp
luật (chế độ tài sản pháp định) 18
1.3. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ 24
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến 24
1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 26
1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của nước
ta từ Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay 32
1.4. CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 38
Chương 2: CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH 44
2.1. TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 44
2.1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng 44
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung 49
2.1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ 53
2.2. TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG 61
2.2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng 61
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng 64
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 70
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 70
3.1.1. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử 70
3.1.2. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng thông qua hoạt động công
chứng tại các Văn phòng công chứng 88
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM 96
3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản
của vợ chồng 96
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
chế độ tài sản của vợ chồng 106
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
DLBK
: Dân luật Bắc kỳ
DLGYNK
: Dân luật Giản yếu Nam kỳ
DLTK
: Dân luật Trung kỳ
GCNQSDĐ
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HĐTPTANDTC
: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
HVLL
: Hoàng Việt luật lệ
HVTKHL
: Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật
LGĐ
: Luật Gia đình
QTHL
: Quốc triều hình luật
TAND
: Toà án nhân dân
UBND
: Uỷ ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật
hôn nhân và gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình đã đưa ra các quy định về
vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng; vấn đề chia tài sản chung và hậu quả chia tài sản chung
của vợ chồng; quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng…. Chế độ tài sản của vợ
chồng được quy định phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của các điều kiện
kinh tế, văn hoá, xã hội, tập quán… của đất nước. Những quy định về chế độ
tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã có từ lâu, được
các nhà làm luật lựa chọn theo thời gian và ngày càng thêm hoàn thiện.
Chế độ tài sản của vợ chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất
nước ở các giai đoạn phát triển là khác nhau. Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến
nay đã có nhiều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng: Từ chế độ cộng
đồng toàn sản, Luật HN&GĐ năm 1959 không thừa nhận vợ chồng có tài sản
riêng, đến chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm
1986 và 2000. Pháp luật điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng vừa mang
tính khách quan, vừa thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước. Kế thừa và phát
triển các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam,
Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta đã quy định chế độ cộng đồng tạo
sản của vợ chồng tương đối cụ thể, có nhiều điểm khác biệt và tiến bộ hơn, đã
xoá bỏ được những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, thừa
nhận chế độ tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, đảm bảo được quyền
bình đẳng của vợ chồng …. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
góp phần vào sự ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý
thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ
2
chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 về chế độ tài
sản của vợ chồng cho thấy còn có những bất cập và vướng mắc, gây khó khăn
trong việc giải quyết các tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn, áp dụng
luật vào thực tế của các cơ quan có thẩm quyền, quá trình áp dụng đã có nhiều
quan điểm, nhận thức, đánh giá khác nhau liên quan đến chế độ tài sản của vợ
chồng như vấn đề xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng để đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; vấn đề đóng góp vào việc thực hiện nghĩa vụ;
nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; xác định tài sản khi một
bên bị tuyên bố là đã chết mà sau đó trở về; việc xác định nợ chung, nợ riêng
…. Các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ mới chỉ
dừng lại ở tính chất định khung, văn bản hướng dẫn còn thiếu, chưa cụ thể,
chưa theo kịp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, với đề tài luận văn “Chế độ tài sản của
vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” sẽ góp phần làm rõ
hơn những quy định của pháp luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng;
trên cơ sở nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật hôn nhân và gia
đình, cùng với việc tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về chế
độ tài sản của vợ chồng để đưa ra những điểm hợp lý hay không hợp lý. Từ
đó, luận văn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Có thể phân loại các công trình nghiên
cứu này thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài
3
sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải,
Luận văn Thạc sĩ, 2002); Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - Thành tựu,
vướng mắc và hướng hoàn thiện (Trần Thị Thuỳ Liên, Luận văn Thạc sĩ,
2012); Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn
áp dụng và hướng hoàn thiện (Nguyễn Thị Hạnh, Luận văn Thạc sĩ, 2012); …
Các công trình này có công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau, có công trình chỉ giải quyết một khía cạnh nhỏ
trong vấn đề tài sản vợ chồng, có công trình nghiên cứu riêng và chuyên sâu
về chế độ tài sản của vợ chồng. Song, các công trình nghiên cứu trên cho dù
có những nội dung ưu việt, tiên tiến nhưng cũng còn nhiều vấn đề không bắt
kịp nhịp sống xã hội vốn luôn chuyển biến ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống
vợ chồng, đặc biệt là vấn đề tài sản.
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này phải kể đến
một số công trình tiêu biểu như: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008); Giáo
trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự (Học viện Tư pháp, Nxb Công an
nhân dân, 2007); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
(Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 2004); Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tư pháp, 2008);
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000 (Tác giả
Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002);
Trong các cuốn sách trên, chế độ tài sản của vợ chồng đã được phân tích một
cách chung chung, có tính chất tổng quát, có cuốn đi vào phân tích chuyên
sâu và cụ thể nhưng chưa nêu hết được những bất cập, hạn chế trước những
biến đổi của đời sống xã hội có ảnh hưởng tới chế độ tài sản của vợ chồng.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài
như Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
4
(Nguyễn Phương Lan, 2002, Tạp chí Luật học, số 6); Bàn thêm về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia đình
hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5); Chế độ tài sản
theo thoả thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật
Việt Nam (Bùi Minh Hồng, 2009, Tạp chí Luật học, số 11);…. Các bài viết
này thường phân tích rất sâu một vấn đề trong chế độ tài sản của vợ chồng,
nhưng do tính chất của một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến
một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến chế độ tài sản của vợ
chồng mà không thể phân tích toàn diện các khía cạnh của chế định này.
Một điểm chung của cả ba nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là
phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Một số công trình nghiên cứu,
cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật,
tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh hoạ cho một số
trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một cách tổng thể, toàn diện tất
cả các khía cạnh của việc áp dụng quy định về chế độ tài sản của vợ chồng
vào thực tiễn.
Trong các nhóm trên, có công trình đã nghiên cứu về chế độ tài sản của
vợ chồng, nhưng đứng trước sự phát triển kinh tế - xã hội với nhiều chuyển
biến, chịu sự ảnh hưởng của tập quán của đất nước tất yếu có sự tác động lớn
trong tâm lý của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng. Vấn đề tài sản
là một trong những vấn đề quan trọng đảm bảo cho cuộc sống gia đình ổn
định, phát triển phù hợp với tình hình mới, điều kiện mới, vì vậy luận văn đi
vào nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam với hy vọng thể hiện một số ý kiến nhỏ của bản thân trước nhu cầu
sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình trong thời gian tới.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài
sản của vợ chồng, luận văn phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật, nhận
dạng những thuận lợi cũng như những bất cập, hạn chế trong quá trình áp
dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, trên cơ sở đó chỉ ra những
điểm còn thiếu sót, chưa phù hợp của luật thực định và của quá trình áp dụng
luật vào thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp có tính
chất khả thi nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tài sản của
vợ chồng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống đang ngày càng phát triển đa
dạng, phong phú.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của
vợ chồng.
Thứ hai: Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ
tài sản của vợ chồng.
Thứ ba: Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng qua hoạt động xét xử của ngành Toà án giải quyết các tranh chấp từ
quan hệ HN&GĐ liên quan trực tiếp về vấn đề tài sản giữa vợ và chồng; Tìm
hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng tại các Văn
phòng công chứng thông qua hoạt động công chứng các Hợp đồng, giao dịch
liên quan đến tài sản của vợ chồng. Qua đó, đánh giá về những thành công và
hạn chế của việc áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ tư: Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ tài
sản của vợ chồng theo luật thực định, luận văn kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc
độ pháp luật và áp dụng pháp luật.
6
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một
số vấn đề sau:
- Quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ chồng.
Trong đó tập trung chủ yếu vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định
trong Luật HN&GĐ năm 2000 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
Bên cạnh đó, khi mà Luật HN&GĐ năm 2014 đã được ban hành nhưng chưa
có hiệu lực thi hành, luận văn so sánh các quy định của Luật HN&GĐ hiện
hành (Luật HN&GĐ năm 2000) với Luật HN&GĐ năm 2014 để đưa ra những
nội dung còn thiếu sót của luật hiện hành nhưng đã được giải quyết hay chưa
được giải quyết trong Luật HN&GĐ năm 2014.
- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản
của vợ chồng. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề khó khăn, vướng mắc,
điển hình,… tìm hiểu và nghiên cứu những ví dụ cụ thể, những bản án thực tế
từ đó bình luận và phân tích những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp
dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế.
- Nghiên cứu một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới về
chế độ tài sản của vợ chồng, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật Việt
Nam, qua đó tiếp thu những điểm tiến bộ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả Luận văn sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp khác nhau như:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tài
sản của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ
bản được nghiên cứu trong luận văn.
7
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây của Việt Nam cũng như
pháp luật của một số nước khác quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát
thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn hệ thống hoá và phân tích khái niệm chế độ tài sản của
vợ chồng.
- Luận văn khái quát và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy
định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Từ những ví dụ cụ thể về thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn nhận
dạng những quy định chưa phù hợp, những điểm còn khiếm khuyết của pháp
luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng cả dưới góc độ pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, luận văn đưa ra và phân tích một số
yếu tố khác tác động vào và làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về chế độ
tài sản của vợ chồng. Trên cơ sở đó, luận văn kiến nghị một số giải pháp có
tính chất khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và tiến tới hoàn
thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Luận văn nêu và phân tích điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014,
trong đó có nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận, phân tích
ưu và nhược điểm của việc quy định chế độ tài sản này trước tình hình kinh tế
- xã hội Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học:
- Trước hết, luận văn góp phần nêu lên những thành tựu đã đạt được
trong quá trình áp dụng pháp luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này
về chế độ tài sản của vợ chồng.
8
- Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; Luận văn cũng có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập các môn học như Luật
dân sự, Luật HN&GĐ … tại các cơ sở đào tạo pháp luật.
Ý nghĩa thực tiễn:
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt
là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng;
biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ,
chồng; quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với những loại tài sản này;
các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng …. Từ đó, góp
phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc,
bền vững.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu Tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện chế độ tài
sản của vợ chồng.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội.
Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Để xây dựng gia đình tốt thì nền
tảng hôn nhân phải bền vững, ngoài việc được hình thành trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, tiến bộ thì việc tạo lập tài sản là một trong những điều
kiện tất yếu để nuôi sống gia đình, là điều kiện vật chất, cơ sở kinh tế cho hôn
nhân tồn tại bền vững. Vì vậy, các nhà làm luật đã quan tâm xây dựng các quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng,
cơ bản nhất của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Trước khi kết hôn và sau khi hôn nhân chấm dứt, vợ, chồng là những
người độc thân có tài sản riêng, còn gọi là tài sản cá nhân. Tài sản theo nghĩa
từ điển Luật học là “của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu
dùng” [75], còn theo Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 “tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [57, Điều 163]. Trước khi kết hôn,
tài sản của vợ, chồng thuộc phạm trù tài sản riêng của cá nhân. Vợ, chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình. Chỉ sau khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân, vấn đề tài sản giữa vợ
chồng mới bị ràng buộc, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này cũng được hình
thành, do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân - tính cộng đồng, hai vợ
10
chồng cùng đóng góp công sức trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình
hoà thuận, hạnh phúc.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ràng buộc lẫn nhau bởi nhiều bổn
phận, trong đó có những bổn phận có ảnh hưởng nhất định đối với quyền hạn
của vợ, chồng trong việc xác lập các giao dịch liên quan đến tài sản, thậm chí
có những bổn phận có tác dụng đặt cơ sở cho việc xác định tính chất chung
hay riêng của một tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra. Tất cả các tài sản của vợ,
chồng, dù là của riêng mỗi người hay của chung hai người, đều phải được
khai thác, sử dụng trước hết nhằm bảo đảm sự duy trì và phát triển của gia
đình, thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục các con,… sau đó mới phục vụ cho cá nhân chủ sở hữu.
Nhân danh lợi ích của gia đình, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực
hiện các giao dịch trên tài sản chung và trong một số trường hợp, nghĩa vụ
phát sinh từ các giao dịch ấy có thể ràng buộc cả vợ và chồng một cách liên
đới, nghĩa là khiến cho chồng hoặc vợ, dù không trực tiếp đứng ra giao dịch,
phải có trách nhiệm cùng với vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản
chung, thậm chí bằng tài sản riêng của mình. Do vậy, tài sản không chỉ gắn
liền với những lợi ích thiết thực của hai bên mà còn liên quan đến người thứ
ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Đây là một trong những lý do mà các nhà lập pháp phải dự liệu về chế độ tài
sản của vợ chồng. Nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng được quy định, tạo
điều kiện cho vợ, chồng và người thứ ba tự do tham gia các giao dịch liên
quan đến tài sản của vợ chồng trong khuôn khổ luật định, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình.
Mặt khác, dựa vào các quy định của pháp luật mà quyền và nghĩa vụ về
tài sản của vợ chồng mới được bảo đảm, “vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” [54, Điều 28]. Vợ
11
chồng có quyền ngang nhau trong việc sở hữu tài sản chung nhằm đảm bảo
nhu cầu đời sống chung của gia đình, có quyền khai thác công dụng, hưởng
hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung nhưng phải có nghĩa vụ sử dụng tài sản đúng
mục đích luật định, vì lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia đình.
Mọi giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc dùng tài sản
chung để đầu tư kinh doanh, hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của
gia đình thì về nguyên tắc phải có sự thoả thuận của hai vợ chồng.
Hơn nữa, để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi tham gia vào các
giao dịch có liên quan đến tài sản của vợ chồng, pháp luật cần phải quy định
người thứ ba có quyền biết rằng giao dịch đó được bảo đảm thực hiện từ tài
sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo vệ quyền
lợi chính đáng của mình.
Lý do cuối cùng khiến nhà làm luật dự liệu về chế độ tài sản của vợ
chồng thể hiện ở chỗ: việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp
luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với người khác.
Ví dụ: Việc giải quyết những món nợ mà vợ chồng vay chung vì lợi ích
chung của gia đình hoặc mỗi bên vợ, chồng vay riêng, sử dụng vào mục đích
riêng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà áp dụng chế độ tài sản của vợ
chồng quy kết theo nghĩa vụ chung của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của vợ,
chồng phải thanh toán trả món nợ đó.
Như vậy, điều kiện hình thành và duy trì chế độ tài sản của vợ chồng là
có tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ
chồng được nhà làm luật dự liệu do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân
được xác lập, thể hiện như là yếu tố khách quan; phụ thuộc vào các điều kiện
kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá để Nhà nước quy
định trong pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
12
Vì vậy, tôi đồng ý với luận điểm khái quát chế độ tài sản của vợ chồng
như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng;
nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng” [24].
Tài sản được phân loại gồm: tài sản chung và tài sản riêng. Với quan hệ
tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng
bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và thực hiện quyền sở
hữu đối với tài sản. Việc quy định chế độ tài sản vợ chồng ở các quốc gia là
khác nhau tuỳ thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập quán, thuần
phong, mỹ tục. Riêng đối với việc xác lập tài sản của vợ chồng, pháp luật hôn
nhân gia đình nói chung quy định hai cách thức tương ứng với hai chế độ tài
sản vợ chồng: chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật (chế độ hôn sản pháp
định) và chế độ tài sản vợ chồng theo thoả thuận (chế độ hôn sản ước định).
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu tài sản của vợ
chồng. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ hôn
nhân và gia đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở
hữu của mình, tham gia các giao dịch dân sự. Vì vậy, chế độ tài sản của vợ
chồng có những đặc điểm riêng biệt sau:
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này,
thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của
nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài
việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi
phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình.
13
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ tài
sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo
đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng.
Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo
điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
đối với tài sản của vợ chồng.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự
kiện phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Hay nói cách khác, chế độ
tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc thù riêng
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Đối với tài sản chung
của vợ chồng, bắt buộc vợ chồng khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế
phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Thông thường, khi vợ chồng sử
dụng tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì pháp
luật luôn coi là có sự thoả thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng, trừ những
tài sản chung có giá trị lớn. Đối với tài sản riêng, thông thường người có tài
sản có quyền tự mình định đoạt không phụ thuộc ý chí của người khác. Tuy
nhiên, với chế độ tài sản của vợ chồng trong một số trường hợp quyền năng
này của họ bị hạn chế (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất
của cả gia đình, khi định đoạt liên quan đến tài sản này thì phải có thoả thuận
của hai vợ chồng).
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, quản lý nền kinh tế.
Vì vậy, bên cạnh việc ban hành pháp luật buộc tất cả mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành, Nhà nước bảo đảm pháp luật phải được thực thi và
đi vào cuộc sống. Việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật
HN&GĐ có những ý nghĩa quan trọng đối với xã hội:
14
- Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp
luật hôn nhân và gia đình được Nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của
các điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ
chính trị - xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định
trong pháp luật của Nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát
triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của Nhà nước thể hiện bản
chất của chế độ xã hội đó. Tương ứng với mỗi chế độ xã hội cụ thể là một chế
độ hôn nhân và gia đình, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ
chồng. Trong xã hội phong kiến, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là bất bình
đẳng, pháp luật hầu như không bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, ở nhà
chồng, tài sản làm ra thuộc sở hữu của nhà chồng, khi chồng còn sống, người
vợ không có quyền lợi kinh tế, khi chồng chết, tài sản không thuộc về họ mà
thuộc về con cái và dòng họ nhà chồng, như vậy vợ và chồng không có quan
hệ tài sản, càng không thể có sự thoả thuận về tài sản giữa vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Dưới thời Pháp thuộc, chế độ tài sản của vợ chồng được
quy định có tiến bộ hơn, pháp luật thừa nhận cho vợ chồng có quyền xây
dựng các quan hệ tài sản theo thoả thuận, miễn là các thoả thuận ấy không có
tác dụng tước đi quyền đứng đầu gia đình của người chồng và không trái với
thuần phong mỹ tục; song các quan hệ tài sản theo thoả thuận hầu như không
được các cặp vợ chồng Việt Nam quan tâm. Đến luật Việt Nam hiện đại, đã
ghi nhận quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng là bình đẳng. Vợ chồng bình
đẳng trong việc dạy dỗ con cái, chia sẻ công việc gia đình, cùng lao động để
tạo dựng khối tài sản chung của gia đình và cùng quản lý, sử dụng, định đoạt
khối tài sản chung đó. Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau quản lý khối tài
sản chung, có quyền thừa kế tài sản của nhau khi người kia chết. Hệ thống
pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đều thực hiện
nguyên tắc vợ chồng bình đẳng khi quy định về chế độ tài sản của vợ chồng,
không bên nào được áp đặt, phụ thuộc bên nào.
15
- Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa
nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi
hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ
chồng được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng
lựa chọn chế độ tài sản ước định hay chế độ tài sản pháp định, dù chế độ tài
sản cộng đồng hay theo tiêu chuẩn phân sản thì các loại tài sản của vợ chồng
luôn được pháp luật quy định rõ.
- Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng của chế
độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng
đối với các loại tài sản của vợ chồng.
- Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp
lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc
với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng về tài sản cho các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch
liên quan đến tài sản của vợ chồng. Khi vợ, chồng tham gia các giao dịch
nhằm đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình như ăn, mặc, ở, học hành
của con,…. Những giao dịch đó được xác lập vì lợi ích chung của gia đình
nên cả vợ và chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc thực hiện giao
dịch với người khác. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng sẽ tham gia rất
nhiều các giao dịch vì cuộc sống chung của gia đình hay vì mục đích riêng
của mỗi bên vợ, chồng. Căn cứ vào những quy định của pháp luật về chế độ
tài sản của vợ chồng mà các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở để giải quyết
các tranh chấp liên quan, bảo vệ quyền lợi của các bên, góp phần tạo sự ổn
định trật tự xã hội.
1.2. NỘI DUNG CÁC LOẠI CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình ở
mỗi quốc gia được quy định gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ
16
sở hữu, truyền thống, phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người
dân. Do đó, giữa các nước khác nhau thường có những quy định khác biệt về
tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản pháp luật của các quốc gia trên thế
giới đã quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng đó là chế độ tài sản theo
sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và chế độ tài sản theo
quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định).
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ
tài sản ước định)
Chế độ tài sản ước định là chế độ tài sản vợ chồng được quyền xác định
quan hệ tài sản của mình trên cơ sở tự thoả thuận. Văn bản ghi nhận sự thoả
thuận đó là hôn ước. Ở nhiều nước trên thế giới, hôn ước được pháp luật công
nhận. Hôn ước giúp vợ, chồng bảo vệ phần tài sản trước hôn nhân của mình.
Trong hôn ước, hai bên vợ, chồng thoả thuận cụ thể về tài sản và quyền sở
hữu tài sản có trước và sau khi kết hôn, cũng như việc phân chia tài sản đó khi
hôn nhân chấm dứt.
Theo quy định tại BLDS Cộng hoà Pháp thì vợ chồng có quyền tự do
lựa chọn chế độ tài sản: “Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài
sản khi không có thoả thuận riêng, mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều
đó là cần thiết, miễn sao những thoả thuận đó không trái với thuần phong mỹ
tục và những quy định sau đây” [45, Điều 1387].
Còn theo BLDS và Thương mại Thái Lan thì:
Khi vợ chồng không có sự thoả thuận đặc biệt về tài sản của
họ trước khi kết hôn, thì quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được điều
chỉnh bởi những quy định của Chương này.
Bất cứ điều khoản nào trong thoả thuận trước khi thành hôn
trái với trật tự công cộng, với đạo đức, hoặc quy định là quan hệ
giữa hai vợ chồng về tài sản đó sẽ phải được điều chỉnh bởi luật
pháp nước ngoài, thì vô hiệu [63, Điều 1465].
17
Trước khi kết hôn vợ chồng hoàn toàn có quyền tự do lập hôn ước để
quy định chế độ tài sản của họ. Họ muốn lựa chọn chế độ tài sản nào cũng
được, pháp luật chỉ can thiệp và quy định chế độ tài sản của vợ chồng khi họ
không lập hôn ước. Hôn ước là một văn kiện ký kết giữa một cặp nam nữ
trước khi kết hôn, do vậy:
Hôn ước là văn bản ghi nhận sự thoả thuận của hai người nam nữ
trước khi kết hôn về vấn đề điều chỉnh quan hệ tài sản của họ trong thời kỳ
hôn nhân. Văn bản này được lập trước khi các bên nam nữ kết hôn và chỉ
phát sinh hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân.
Nội dung của hôn ước phải là sự thoả thuận về vấn đề sở hữu tài sản
của vợ chồng. Hôn ước trước hết phải quy định rõ cách thức xác định đâu là
tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Trong hôn ước có thể xác định về
quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với nhau hay đối với bên thứ
ba trong trường hợp có giao dịch với bên thứ ba. Hôn ước có tính ổn định cao,
việc xác lập, thay đổi chế độ tài sản theo thoả thuận hôn ước phải tuân theo
những thể thức nhất định, Điều 1397 BLDS Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570
ngày 13/7/1965 và Luật số 89-18 ngày 13/1/1989) quy định:
Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thoả
thuận hoặc theo luật định, hai vợ chồng có thể vì lợi ích của gia
đình, xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn
nhân bằng một chứng thư có chứng thực của Công chứng viên và
được Toà án nơi cư trú phê chuẩn [45].
BLDS và Thương mại Thái Lan quy định:
Sau khi kết hôn, bản thoả thuận trước khi thành hôn không
thể bị sửa đổi, trừ trường hợp Toà án cho phép. Khi có một quyết
định cuối cùng của Toà án cho phép tiến hành sửa đổi hoặc huỷ bỏ
bản thoả thuận trước khi thành hôn, thì Toà án phải thông báo cho
18
viên chức đăng ký kết hôn nội dung quyết định đó để ghi nội dung
đó vào sổ đăng ký kết hôn [63, Điều 1467].
Như vậy, mặc dù hôn ước mang tính ổn định cao nhưng pháp luật các
nước đã dần thừa nhận các thoả thuận trong hôn ước có thể thay đổi trong thời
kỳ hôn nhân, pháp luật đã tạo cho vợ chồng quyền chủ động hơn trong việc
quy định chế độ tài sản của mình.
Tại Việt Nam, hôn ước đã từng tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc, ở thời
kỳ này, hôn ước được quy định do chịu ảnh hưởng của pháp luật nước Pháp
chứ không phải xuất phát dưới góc độ nhu cầu đời sống thực tiễn trong quan
hệ tài sản của vợ chồng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không có bất
cứ quy định nào của pháp luật đề cập đến hôn ước. Hiện nay, Luật HN&GĐ
năm 2014 đã bổ sung quy định về áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng: “Vợ
chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ
tài sản theo thoả thuận” [60, Điều 28].
Để phù hợp với sự thay đổi của xã hội Việt Nam, với quá trình hội
nhập quốc tế kéo theo sự thay đổi về chức năng kinh tế của gia đình, hôn ước
được thừa nhận trong Luật sẽ thể hiện sự văn minh, tiến bộ trong việc thực
hiện quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu.
1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của
pháp luật (chế độ tài sản pháp định)
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản trong đó pháp luật quy định
cụ thể về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng đối với tài sản đó, cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa vợ
chồng với người thứ ba.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật được tất cả
các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình nhằm điều chỉnh quan hệ
tài sản giữa vợ chồng. Có nước quy định chế độ tài sản pháp định mang tính
19
chất thay thế trong trường hợp vợ chồng không có thoả thuận bằng hôn ước,
hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ, điển
hình là pháp luật của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, … Ví dụ, Điều 1400 BLDS
Cộng hoà Pháp quy định: “Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không
có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài
sản” [45]. Ở Việt Nam, dưới chế độ nguỵ quyền Sài Gòn cũng có quy định
tương tự, Điều 150 BLDS Sài Gòn năm 1972 quy định:
Chế độ cộng đồng tài sản là chế độ phu phụ tài sản thường
luật trong trường hợp vợ chồng không lập hôn ước hoặc khai kết
hôn dưới chế độ cộng đồng tài sản. Chế độ này khởi đầu từ ngày
lập hôn thú, không ai có thể định một ngày nào khác cho khởi
điểm này [62].
Có nước quy định chế độ tài sản pháp định như là căn cứ duy nhất để
xác định tài sản của vợ chồng, phổ biến trong pháp luật HN&GĐ các nước
XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, … Điều 29 LGĐ Cộng hoà Cu-ba
quy định:
Chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung theo quy
định của Bộ luật này. Chế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc
kết hôn được chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống
chung …; chế độ tài sản này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm
dứt không kể vì lý do gì [31].
Chế độ tài sản pháp định được quy định ở nhiều hình thức khác nhau,
nhưng tựu chung lại thường dưới hai hình thức: Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn
cộng đồng (chế độ tài sản cộng đồng) và chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân
sản (chế độ phân sản).
* Chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn cộng đồng:
- Chế độ cộng đồng toàn sản: Theo chế độ tài sản này, thì tất cả các tài
20
sản mà vợ, chồng có được đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Chế độ
cộng đồng toàn sản không thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng mà
chỉ thừa nhận quyền sở hữu chung, theo đó toàn bộ tài sản vợ, chồng có trước
và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung. Quy định đó xuất
phát từ quan niệm nhu cầu chung, lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản
của vợ chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả
tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản
chung, quyền có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích
của gia đình. Chế độ tài sản này chỉ phù hợp với quan hệ HN&GĐ trong xã
hội truyền thống. Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, khi
quyền tự do cá nhân luôn được đề cao, chế độ cộng đồng toàn sản đã bộc lộ
những hạn chế cơ bản, vì không đảm bảo quyền tự định đoạt của người có tài
sản, đặc biệt khi tài sản đó do vợ, chồng làm ra trước khi kết hôn, tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng; nó cũng không đảm bảo được sự độc lập
của vợ, chồng do họ không có tài sản riêng để tham gia các quan hệ xã hội
khác ngoài quan hệ gia đình; mặt khác, việc chế độ cộng đồng toàn sản được
áp dụng trong giai đoạn hiện nay có thể khuyến khích cho các quan hệ hôn
nhân thực dụng, dễ nảy sinh các quan hệ hôn nhân được xác lập không phải vì
tình cảm yêu thương, gắn bó với mục đích xác lập quan hệ vợ chồng chung
sống lâu dài, hạnh phúc, mà chỉ nhằm vào tiền bạc, tài sản. Vì vậy, các nước
thường không lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng này.
- Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: Chế độ tài sản này đã thừa
nhận trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng.
Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản xác định tài sản của vợ chồng dựa trên
việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất động sản. Theo đó,
khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có trước và trong
thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng mua lại bằng