Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quyết định của viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.51 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MINH HỒNG

QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hồng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT

5

TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. Những vấn đề chung về quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

5

1.1.1. Khái niệm giai đoạn truy tố

5


1.1.2. Nhiệm vụ của giai đoạn truy tố

6

1.1.3. Ý nghĩa của giai đoạn truy tố

6

1.1.4. Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

7

1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố
1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định truy tố (bản cáo trạng)
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung

11
11
15

1.2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định tạm đình chỉ vụ án

22

1.2.4. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định đình chỉ vụ án

24


1.2.5. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn

30

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG RA QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC

36

RA QUYẾT ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
2.1. Thực trạng ra quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

36

2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong việc ra quyết định của Viện kiểm sát

36

2.1.2. Những hạn chế, trong việc ra quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố và nguyên nhân của những hạn chế này
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc ra quyết định của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố

42
60

2.2.1. Giải pháp lập pháp


60

2.2.2. Một số giải pháp khác

64

KẾT LUẬN

70


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn truy tố là giai đoạn quan trọng nhất trong hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát (VKS). Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình trong giai đoạn truy tố bằng việc ra các quyết định pháp lý có đầy đủ căn cứ và
đúng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự. Các quyết định của Viện kiểm sát
ban hành trong giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một là, phải đánh giá
xem quá trình điều tra có được tiến hành hoàn toàn tuân thủ pháp luật hay không? kết
luận điều tra đã đầy đủ, khách quan, toàn diện chưa? có phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung không? có căn cứ để tiếp tục tiến hành tố tụng hay phải đình chỉ, tạm đình chỉ
việc tiến hành tố tụng?... Hai là, nếu vụ án được quyết định truy tố ra trước Tòa án
bằng bản cáo trạng thì bản cáo trạng phải đảm bảo có đầy đủ các căn cứ pháp lý chính
xác để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chất lượng cáo trạng phải bảo đảm cho
việc thực hành quyền công tố tại phiên tòa của Kiểm sát viên (KSV), đồng thời góp
phần bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án có chất lượng.
Tuy nhiên, trên thực tiễn cùng với những kết quả chủ yếu đã đạt được cả về chất
lượng và hiệu quả của đa số các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố thì việc

ra các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố cũng còn bộc lộ nhiều thiếu sót,
khuyết điểm làm ảnh hưởng và hạn chế đến chất lượng giải quyết các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó việc nhận thức và áp dụng pháp luật trong giai đoạn truy tố ở một số
trường hợp cũng còn những vướng mắc, bất cập cần được khắc phục.
Bởi tính chất quan trọng của giai đoạn truy tố và thực tiễn thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn truy tố còn có những tồn tại nhất định, vì thế
nghiên cứu khoa học một cách chuyên biệt chế định pháp lý về “Quyết định của Viện
kiểm sát trong giai đoạn truy tố” bằng việc phân tích sâu sắc cơ sở lý luận pháp lý,
đánh giá thực trạng ra quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố, tìm ra những
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc để từ đó để xuất những giải pháp để
nâng cao hiệu quả của việc ra các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố là cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


2

Qua quá trình tìm hiểu thông tin trên các trang website của các cơ sở đào tạo
luật, chúng tôi nhận thấy chưa có luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ nào nghiên cứu
trực tiếp và đầy đủ về đề tài này. Tuy nhiên các quyết định của VKS trong giai đoạn
truy tố đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học ở phạm vi và mức độ
nghiên cứu khác nhau. Công trình nghiên cứu mang tính đại cương có Giáo trình kỹ
năng giải quyết các vụ án hình sự (Học viện tư pháp); Giáo trình tố tụng hình sự
(Trường Đại học luật Hà Nội); các cuốn bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS); cuốn Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hình sự của tác giả Mai Thanh
Hiếu và Nguyễn Chí Công; cuốn Sổ tay kiểm sát viên hình sự tập 1 của Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao... Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng chỉ viết về một
phần nội dung của đề tài này như luận văn Chế định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án
trong tố tụng hình sự Việt Nam, ThS. Lê Đình Long, năm 2002; luận văn Trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, ThS. Nguyễn Đức Hạnh, năm

2010; luận án Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, TS. Nguyễn Văn Điệp, năm 2005... Ngoài ra còn có nhiều bài báo
được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong
việc quyết định truy tố, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo yêu cầu cải cách tư
pháp của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh (tạp chí kiểm sát số 3/2009); Đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án hình sự đối với trường hợp không có sự việc phạm tội và hành vi
không cấu thành tội phạm của tác giả Mai Văn Lư (tạp chí kiểm sát số 5/2007); Về
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 của tác giả Nguyễn Đức Thuận (tạp chí luật học số 7/2008)... Mặc dù có khá
nhiều công trình nghiên cứu, sách và các bài viết đề cập đến các quyết định của VKS
trong giai đoạn truy tố nhưng các tác giả chỉ nghiên cứu từng quyết định trong tố tụng
hình sự nói chung (TTHS), có công trình chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận,
có công trình lại đi sâu vào các vấn đề thực tiễn mà chưa nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ về các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố. Chính vì vậy việc
nghiên cứu toàn diện vấn đề này là cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3

Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận về các quyết định của VKS trong
giai đoạn truy tố; pháp luật tố tụng hình sự về các quyết định của VKS trong giai
đoạn truy tố; thực tiễn thi hành các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ một luận văn cao học tác giả xác định
phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
Chỉ nghiên cứu quyết định truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng; quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ
vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Về lý luận, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm ý nghĩa của giai đoạn truy tố nói
chung và khái niệm, ý nghĩa của việc ra các quyết định của VKS trong giai đoạn truy

tố nói nói riêng, nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về các quyết định
của VKS trong giai đoạn truy tố.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về các quyết định của VKS trong
giai đoạn truy tố trong 5 năm từ 2007 đến 2011, tìm ra những bất cập, nguyên nhân
của những bất cập đó và đề ra giải pháp khắc phục.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố, tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong việc ra các quyết định trong giai
đoạn truy tố.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng khái niệm về quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố và tìm
hiểu ý nghĩa của việc ra các quyết định này.
- Làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các quyết
định của VKS trong giai đoạn truy tố.
- Đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về các quyết định
của VKS trong giai đoạn truy tố, phát hiện những điểm hạn chế, bất hợp lý trong thực
tiễn áp dụng và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc ra các
quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu
quả của việc VKS ra các quyết định trong giai đoạn truy tố.


4

5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS và chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 làm phương pháp luận. Để thực hiện đề tài, trong quá trình nghiên cứu tác giả

đã dùng phương pháp phân tích, tổng hợp để xây dựng khái niệm quyết định của
VKS trong giai đoạn truy tố và nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành;
phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn được dùng
trong nghiên cứu để làm rõ thực trạng áp dụng các quy định về quyết định của VKS
trong giai đoạn truy tố. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp logic.
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn đã xây dựng được khái niệm khoa học về quyết định của VKS trong
giai đoạn truy tố và làm rõ ý nghĩa của các quyết định này.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá được một cách khoa học các quy định của
BLTTHS năm 2003 về các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố, xác định
được những bất cập trong các quy định của BLTTHS về các quyết định của VKS
trong giai đoạn truy tố cần phải được hoàn thiện.
- Luận văn đã xác định được những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành
quy định của pháp luật về các quyết định của VKS trong giai đoạn truy tố và những
nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc đó.
- Luận văn đã đề xuất được một số giải pháp để khắc phục các bất cập trong quy
định của pháp luật và vướng mắc trong thực tiễn thi hành để nâng cao hiệu quả của
việc VKS ra quyết định trong giai đoạn truy tố.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 2 chương.


5

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIAI ĐOẠN TRUY TỐ

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1.1. Khái niệm giai đoạn truy tố
Để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự [27, tr.8].
Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án là
một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó truy tố là hoạt
động thể hiện quyền năng tố tụng đặc trưng nhất của Viện kiểm sát. Theo quy định
của BLTTHS, thì sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra (CQĐT) phải gửi hồ sơ
vụ án cùng bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố đến VKS để quyết định việc truy tố
bị can (nếu vụ án không bị đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra). Truy tố là một hình thức
hoạt động Nhà nước đặc biệt do VKS thực hiện, nhằm xem xét, quyết định truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra trước Tòa án. Ở giai đoạn này VKS
nói chung và KSV nói riêng phải đặc biệt nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghiên cứu vận dụng Bộ luật hình sự (BLHS) và BLTTHS
giải quyết triệt để những vấn đề thuộc thẩm quyền trong thời hạn nhất định mà
BLTTHS quy định đối với từng loại tội phạm để ra các quyết định cần thiết một cách
chính xác, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Viện kiểm sát là chủ thể duy
nhất thay mặt Nhà nước thực hiện quyền truy tố và hoạt động truy tố có tính đặc thù
khi thực hiện những hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Cho
nên truy tố thực sự là một giai đoạn độc lập của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Căn cứ vào các quy định của BLTTHS về hoạt động của VKS sau khi nhận hồ sơ vụ
án và đề nghị truy tố của CQĐT cũng như các quyết định mà VKS có thể ra trong giai


6


đoạn tố tụng này, có thể đưa ra khái niệm sau: Giai đoạn truy tố là một giai đoạn của tố
tụng hình sự, trong đó Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị
can trước tòa án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự [32, tr. 327].
1.1.2. Nhiệm vụ của giai đoạn truy tố
Điều 10 BLTTHS đã xác định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác
định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng...”. Trong giai đoạn này, VKS cần nghiên cứu tất cả những vấn đề được
được thể hiện trong hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án có tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật TTHS không? có còn những hạn chế và thiếu sót nào
cần khắc phục hay không? những nội dung cần điều tra đã đầy đủ chưa?...để kịp thời
ra các quyết định tố tụng cần thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ sơ, khắc phục
những vi phạm pháp luật của CQĐT nếu có để đảm bảo cho việc quyết định truy tố bị
can đúng đắn, chính xác, tạo cơ sở vững chắc cho Tòa án xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Quyết định truy tố đúng đắn, chính xác, khách quan của VKS sẽ
góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa tội phạm.
Hai nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất mà giai đoạn truy tố phải thực hiện là:
- Đảm bảo hoạt động điều tra đã được tiến hành hoàn toàn tuân thủ pháp luật,
khách quan, toàn diện, đầy đủ.
- Đảm bảo việc ra quyết định truy tố cũng như các quyết định cần thiết khác là
có căn cứ pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của giai đoạn truy tố
Luật TTHS quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Chức năng của
Tòa án là xét xử. Tuy nhiên đối với các vụ án hình sự, Tòa án chỉ có thể thực hiện
chức năng này khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Điều 196 BLTTHS năm
2003 quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà

VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Giai đoạn truy tố là tiền đề của


7

giai đoạn xét xử, nếu VKS không truy tố thì Tòa án không có cơ sở pháp lý để quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định truy tố của VKS còn xác định thẩm quyền và
giới hạn xét xử của Tòa án. Việc truy tố kịp thời, chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. Giai đoạn truy tố có ý nghĩa cơ bản
nhất là tạo cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để xác định căn cứ lập cáo trạng,
quyết định truy tố đối với bị can, VKS còn có trách nhiệm trực tiếp kiểm tra, xem xét
phát hiện những thiếu sót hay vi phạm pháp luật của CQĐT nhằm kịp thời sửa chữa,
khắc phục hoặc đề nghị CQĐT sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm đó. Nếu
phát hiện việc điều tra chưa đầy đủ, chưa làm rõ những chứng cứ quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến nội dung vụ án hoặc có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
trong quá trình điều tra thì VKS trả lại hồ sơ yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung; nếu phát
hiện có những căn cứ pháp luật không cho phép tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án
hoặc với bị can nên phải tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp theo quy định của pháp
luật thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can thì VKS ra
quyết định đình chỉ vụ án để bảo vệ quyền lợi cho bị can... Như vậy, giai đoạn truy tố
còn có ý nghĩa nữa là phát hiện và kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót cũng
như vi phạm pháp luật của CQĐT trong quá trình điều tra vụ án.
1.1.4. Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
1.4.1.1. Khái niệm quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Trong tố tụng hình sự, VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đồng
thời thực hành quyền công tố Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất [32, tr. 327].
Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật đối với hoạt động điều tra của CQĐT, VKS có trách nhiệm quyết định có truy tố
một vụ việc hay không theo hồ sơ chứng cứ đã thu thập được và giám sát cả biện
pháp, phương thức, cách thức thu thập. Vì thế vai trò của VKS trong giai đoạn truy tố
không chỉ đơn giản là tiếp tục thực hiện đề nghị của CQĐT sau khi đã kết thúc điều
tra mà trách nhiệm quan trọng là phải nghiên cứu đánh giá chính xác tính chất, mức
độ nghiêm trọng của vụ việc, đánh giá những chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án đã


8

khách quan, toàn diện, đầy đủ và hợp pháp chưa?... từ đó vận dụng các quy định của
pháp luật để ra một trong các quyết định “truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử”
hoặc phải “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” hay “tạm đình chỉ”, “đình chỉ” vụ án. Do
đó, theo quy định tại Điều 166 BLTTHS, khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố của CQĐT, trong thời hạn luật định, VKS phải nghiên cứu hồ
sơ vụ án và đề nghị truy tố để ra một trong những quyết định sau đây:
a.Truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng (trong trường hợp áp dụng
thủ tục rút gọn thì VKS lập quyết định truy tố để truy tố bị can);
b.Trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung;
c. Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Bên cạnh đó, nhằm kịp thời khắc phục những sai lầm nếu có trong những giai
đoạn trước mà có thể gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, tại khoản
2 Điều 166 BLTTHS năm 2003 quy định, sau khi nhận hồ sơ vụ án VKS có quyền
quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn [20, tr. 38].
Theo từ điển tiếng Việt thì quyết định được hiểu theo nghĩa danh từ là “tên gọi
văn bản của các cấp có thẩm quyền” [48, tr. 883].
Theo từ điển Luật học thì quyết định là một hình thức văn bản pháp luật bao
gồm cả văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành [3, tr. 568].
Bộ luật TTHS năm 2003 không nêu thế nào là quyết định của VKS trong giai

đoạn truy tố và thông thường các nhà nghiên cứu cũng chỉ đi sâu nghiên cứu về từng
quy định của Bộ luật này. Theo chúng tôi để có thể đưa ra khái niệm quyết định của
VKS trong giai đoạn truy tố cần phải phân tích làm rõ các yếu tố về thời điểm ra quyết
định, chủ thể ra quyết định, thủ tục ra quyết định và mục đích ra quyết định.
Thời điểm ra quyết định của VKS phải nằm trong thời hạn quyết định việc truy
tố, đó là hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng,
ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra. Trong trường hợp cần thiết, Viện
trưởng VKS có thể gia hạn thêm nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá mười lăm ngày đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


9

Theo quy định của BLTTHS, chủ thể ra các quyết định truy tố; trả hồ sơ để điều
tra bổ sung; đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố phải là Viện trưởng hoặc Phó viện
trưởng Viện kiểm sát. Đây là quy định khác với quy định về thẩm quyền ra các quyết
định tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra các quyết định này (trừ trường hợp quyết
định áp dụng biện pháp tạm giam phải do Chánh án, Phó chánh án Tòa án quyết định)
còn tại phiên tòa thì do Hội đồng xét xử ra quyết định.
Việc VKS ra quyết định trong giai đoạn truy tố nhằm mục đích xác định có
quyết định truy tố hay không truy tố bị can ra trước Tòa án. Đối với vụ án hình sự khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV phải kiểm tra các văn bản tố tụng mà CQĐT đã ban
hành trong quá trình điều tra; kiểm tra việc giao các văn bản tố tụng của CQĐT cho
những người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS; kiểm tra các điều kiện để
áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can; kiểm tra các
chứng cứ xác định tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS, cũng như các tình tiết

định tội đã được CQĐT khởi tố; kiểm tra các chứng cứ về định khung tăng nặng (nếu
có). Sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu thấy đã có đủ chứng cứ và đủ điều kiện thì KSV đề
xuất với lãnh đạo viện truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng; nếu thấy có
đầy đủ chứng cứ để truy tố, nhưng bị can đã bỏ trốn hoặc không xác định được bị can
ở đâu... thì báo cáo lãnh đạo VKS yêu cầu CQĐT truy nã bị can và ra quyết định tạm
đình chỉ vụ án. Khi vụ án chưa đủ điều kiện để truy tố thì tùy từng trường hợp VKS
phải ra một trong các quyết định như: trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ
án; nếu thấy không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự thì ra quyết định đình
chỉ vụ án. Trong một số vụ án do việc điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, các
chứng cứ có trong hồ sơ phản ánh bị can phạm vào một tội khác với tội đã bị khởi tố
hoặc còn có đồng phạm khác nhưng không được khởi tố... hay có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng nên không thể quyết định truy tố được phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. Một số trường hợp khác VKS phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hay
đình chỉ vụ án khi có căn cứ mà BLTTHS quy định.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm quyết định của VKS trong
giai đoạn truy tố như sau: Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố là văn


10

bản tố tụng hình sự do Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát ban hành
trong thời hạn quyết định truy tố nhằm truy tố bằng bản cáo trạng hoặc xác định cách
giải quyết khác như trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
1.1.4.2. Ý nghĩa của việc ra quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Giai đoạn truy tố tạo cơ sở pháp lý để sau này Tòa án quyết định đưa vụ án ra
xét xử, vì vậy việc ra quyết định trong giai đoạn truy tố có ý nghĩa sau:
- Các quyết định này là cơ sở pháp lý để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt trình
tự các giai đoạn tố tụng và các quan hệ tố tụng. Nếu đủ căn cứ để truy tố thì lúc này
sẽ phát sinh trình tự giai đoạn tố tụng mới đó là giai đoạn xét xử sơ thẩm và quan hệ
tố tụng mới đó là quan hệ giữa VKS và Tòa án; giữa bị can, những người tham gia tố

tụng với Tòa án. Nếu không đủ điều kiện truy tố thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm
đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì
trình tự tố tụng trở lại giai đoạn điều tra đó là việc CQĐT thực hiện các yêu cầu điều
tra bổ sung của Viện kiểm sát. Quan hệ tố tụng trong giai đoạn này là quan hệ giữa
VKS và Cơ quan điều tra. Trong trường hợp VKS tạm đình chỉ vụ án thì trình tự tố
tụng tạm dừng. Nếu tạm đình chỉ vụ án vì lý do bị can trốn mà không biết rõ bị can ở
đâu thì VKS phải yêu cầu CQĐT ra lệnh truy nã bị can bỏ trốn. Trong trường hợp
đình chỉ vụ án thì cũng chấm dứt trình tự tố tụng và quan hệ tố tụng.
- Trong giai đoạn truy tố nếu VKS phát hiện và khắc phục những thiếu sót trong
quá trình điều tra thì việc làm đó cũng chính là để đảm bảo pháp chế, đảm bảo việc
tuân theo pháp luật trong công tác truy tố để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực của
Nhà nước pháp quyền.
- Việc ra quyết định đúng đắn và chính xác của VKS trong giai đoạn truy tố giúp
cho việc truy tố đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn, qua đó đảm bảo việc điều tra, truy tố,
xét xử công minh, khách quan, toàn diện. Do có sự kiểm tra xem xét các điều kiện pháp
lý cần và đủ trước khi quyết định truy tố nên có thể hạn chế được những sai lầm, thiếu
sót trong hoạt động truy tố; hạn chế được những điểm chưa thống nhất về quan điểm
đối với việc giải quyết vụ án giữa CQĐT và VKS, giữa VKS và Tòa án; hạn chế được
những trường hợp KSV bị động, lúng túng trước những diễn biến tại phiên tòa nhất là
trong phần tranh luận. Việc truy tố đạt kết quả tốt và hạn chế được những khiếm khuyết
nêu trên sẽ góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động của VKS nói riêng


11

và các cơ quan tư pháp nói chung; góp phần vào việc giáo dục ý thức pháp luật cho
nhân dân, qua đó góp phần giữ vững an ninh chính trị ổn định trật tự an toàn xã hội
tăng cường hiệu quả của công tác phòng ngừa tội phạm.
- Việc chuẩn bị tốt các điều kiện pháp lý cần và đủ trước khi quyết định truy tố
làm cho chất lượng công tác truy tố được tốt hơn, tránh được oan sai đảm bảo các

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh vụ án phải xét xử lại nhiều lần, từ đó
vụ án được giải quyết nhanh hơn, tiết kiệm kinh phí của Nhà nước, kịp thời phục vụ
yêu cầu chính trị địa phương.
1.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định truy tố (bản cáo trạng)
Bản cáo trạng là một văn bản tố tụng hình sự áp dụng pháp luật, trong đó VKS
quyết định truy tố một (hoặc nhiều bị can), về một (hoặc nhiều) hành vi phạm tội cụ
thể được quy định trong BLHS mà có căn cứ cho rằng bị can (hoặc các bị can) đã
thực hiện ra trước Tòa án để xét xử [32, tr. 339].
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu thấy có đủ chứng cứ để truy tố mà không
có các căn cứ phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án thì
Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án
bằng bản cáo trạng. Trường hợp CQĐT đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của VKS và
chuyển lại hồ sơ đến VKS, nếu không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần
thứ hai thì VKS ra cáo trạng để truy tố.
Khoản 1 Điều 23 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án”. Quyền
công tố thể hiện trong TTHS là quyền truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo
trạng. Như vậy, “cáo trạng” là hình thức thực hiện quyền truy tố của VKS, qua đó VKS
thay mặt Nhà nước nêu lên những căn cứ pháp lý chứng minh tội phạm và thể hiện
quan điểm của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Bản cáo trạng là cơ sở
pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, đồng thời còn là cơ sở pháp lý để bị
can và những người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


12

Cáo trạng là văn bản pháp lý tố tụng nên phải tuân thủ đúng hình thức của văn
bản pháp lý đặc thù, nội dung cáo trạng phải tuân thủ đúng quy định tại Điều 167

BLTTHS năm 2003.
Điều 167 BLTTHS năm 2003 quy định:
1. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội
phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết
quan trong khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng
nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết
khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình
sự được áp dụng.
2. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ và
chữ ký của người ra bản cáo trạng.
Viện kiểm sát chỉ được ra quyết định truy tố để xét xử những người có hành vi
phạm tội đã được khởi tố, điều tra và được CQĐT hoàn thành hồ sơ đề nghị truy tố.
Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải đảm bảo tính
có căn cứ, đúng pháp luật và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Theo mẫu
cáo trạng số 107 kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (VKSNDTC) thì bố cục bản cáo trạng
gồm 4 phần: Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của Viện kiểm sát; Phần
mô tả hành vi của bị can; Phần kết luận và phần quyết định.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền truy tố
người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án
bằng bản cáo trạng có ý nghĩa rất quan trọng vì theo quy định của BLTTHS thì Tòa án
không thể xét xử một người nếu người đó không bị VKS truy tố. Quyết định này làm
khởi động hoạt động xét xử, xác định giới hạn xét xử của Tòa án. Tính hợp pháp của
bản cáo trạng trước hết phải thể hiện sự tuân thủ các quy định về thẩm quyền xét xử
của Tòa án được quy định tại các Điều 171, 172, 173, 174 BLTTHS, vụ án được xét xử
sơ thẩm ở cấp nào thì thẩm quyền truy tố thuộc VKS cấp đó theo quy định tại Điều 36
BLTTHS; căn cứ làm phát sinh cáo trạng dựa trên quy định tại các Điều 112, 166
BLTTHS; dựa trên các quyết định tố tụng có liên quan đến vụ án hình sự như: quyết



13

định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can (nếu có); quyết định phục hồi điều tra, quyết
định nhập hoặc tách vụ án hình sự, quyết định chuyển vụ án (nếu có). Đây chính là
những căn cứ pháp lý vững chắc đảm bảo cho quyết định truy tố có cơ sở và hợp pháp.
Tính hợp pháp còn đòi hỏi việc truy tố phải đúng người, đúng tội, nêu rõ các tình tiết
định tội, định khung để áp dụng chính xác pháp luật, truy tố bị can theo đúng tội danh
và điều khoản đã được quy định trong BLHS năm 1999. Cáo trạng không đảm bảo tính
căn cứ và đúng pháp luật sẽ dẫn đến hệ quả Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung
hoặc tuyên một bản án không đúng pháp luật bởi bị ràng buộc về phạm vi xét xử.
Phần nội dung cáo trạng là phần chính, cơ bản nhất, là sự phản ánh kết quả của quá
trình điều tra nên trong đó phải trình bầy tóm tắt nội dung vụ án về các vấn đề sau:
- Thời gian, địa điểm phạm tội của bị can: việc xác định rõ ngày, giờ, tháng,
năm, địa điểm thực hiện tội phạm đảm bảo cho việc phản ánh các tình tiết diễn biến
thực tế của vụ án có cơ sở và khách quan;
- Các tình tiết thể hiện diễn biến của hành vi phạm tội: phải làm rõ được những
hành vi cụ thể của bị can một cách khách quan như phương thức, thủ đoạn, công cụ,
phương tiện, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội; ý thức chủ quan của người thực hiện
hành vi phạm tội? hậu quả về thể chất, vật chất và tinh thần ở mức độ nào? mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm...
- Các chứng cứ buộc tội đối với bị can: Đây là các tình tiết được sử dụng để xác
định hành vi mà bị can (hoặc các bị can) đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội phạm
và đã cấu thành tội phạm nào của BLHS? phạm tội thuộc khung hình phạt nào?
khung có cấu thành cơ bản hay khung có cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ?
đồng thời cũng là những căn cứ để đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.
- Các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can: Đây
là phần trình bày về các tình tiết ảnh hưởng tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự và căn cứ quyết định hình phạt đối với người bị truy tố, làm cơ sở để công tố đề xuất

hướng xử lý tại Tòa án khi xét xử. Vì vậy cần nêu thật đầy đủ và cụ thể.
Trường hợp bị can phạm nhiều tội thì phải nêu, phân tích, chứng minh về từng
tội phạm của bị can. Nếu vụ án có nhiều bị can thì phải xác định rõ hành vi phạm tội
của từng bị can, vai trò cũng như mức độ trách nhiệm hình sự của mỗi bị can.


14

Phần kết luận của cáo trạng có ý nghĩa quan trọng đối với bị can, giúp bị
can biết rõ họ chính thức bị truy tố về những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào
và phạm vào tội gì? theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó
giúp họ chuẩn bị cho việc trình bầy và tự bào chữa khi bị đưa ra xét xử tại Tòa
án. Vì vậy, phần kết luận của cáo trạng phải xác định:
- Bị can (hoặc những bị can) đã có hành vi (những hành vi) nào, đã phạm
vào tội gì, ở đâu, vào thời điểm nào?
- Lý lịch tư pháp của bị can: phải xác định rõ tên, tuổi, sinh quán, trú quán,
nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn của bị can (nếu có); tiền
án, tiền sự, nhân thân của bị can, bị can đang bị tạm giam hay đang được tại
ngoại; họ, tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp của bố, mẹ, vợ, chồng, con của bị can;
- Hành vi phạm tội của bị can và đồng phạm (nếu có) đã phạm vào điều,
khoản nào của BLHS? nội dung quy định cụ thể của điều, khoản đó được áp
dụng với trường hợp phạm tội của bị can.
Căn cứ vào những vấn đề xác định ở trên để quyết định:
- Truy tố bị can (họ, tên) có lý lịch nêu trên ra trước Tòa án (huyện, tỉnh...)
để xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn;
- Về xử lý vật chứng vụ án (nếu có);
- Về vấn đề dân sự (nếu có).
Phần cuối cùng của cáo trạng ghi rõ kèm theo bản cáo trạng là hồ sơ vụ án
bao gồm bao nhiêu tài liệu, số trang từ bút lục số... đến số...; Ngày, tháng, năm
lập cáo trạng có chữ ký của Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng VKS và dấu cơ

quan [5, tr. 340-342].
Đối với những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn, Bộ luật TTHS
quy định trong giai đoạn truy tố VKS không phải làm bản cáo trạng để truy tố
mà chỉ cần ra quyết định truy tố ngắn gọn và đơn giản nhằm mau chóng chuyển
hồ sơ sang Tòa án để xét xử (điểm a khoản 1 Điều 323 BLTTHS).


15

1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung
Điều 168 BLTTHS quy định VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường
hợp sau:
1. Còn thiếu các chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể
tự mình bổ sung được;
2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Trường hợp thứ nhất, còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được
Bộ luật TTHS không quy định và giải thích thế nào là chứng cứ quan trọng và
chứng cứ nào là chứng cứ không quan trọng đối với vụ án, cũng như việc xác định
thế nào là VKS không thể tự bổ sung được. Tuy nhiên, tại Điều 1 Thông tư liên tịch
số 01 ngày 27/8/2010 của VKSNDTC, Bộ công an, TANDTC (gọi tắt là Thông tư số
01/2010/TTLT) đã hướng dẫn chứng cứ quan trọng đối với vụ án là: “chứng cứ quan
trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS là chứng cứ quy định
tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại
Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu những chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ
án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Những chứng cứ có liên quan đến vụ
án nhưng nó chỉ có ý nghĩa bổ sung thêm thì không được coi là chứng cứ quan trọng.
Thiếu những chứng cứ sau đây là thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:

- Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ
để xác định hành vi xẩy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong Bộ luật hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội
(phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi
phạm hành chính...);
- Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và tình tiết khác của hành vi
phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời
gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như
thế nào;


16

- Chứng cứ để chứng minh “ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ
xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
- Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi, nếu có lỗi thì thuộc
trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do
quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là
chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) hay chưa; có
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào,
trong giai đoạn tố tụng nào;
- Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định
người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục
đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết)
của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự là chứng cứ xác định bị can có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy
định tại Điều 46 BLHS; có tình tiết tăng nặng trách hiệm hình sự nào quy định tại
Điều 48 BLHS hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là
chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can;
- Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành
vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
- Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của
BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không đủ căn cứ để giải quyết vụ án như: chứng cứ
để xác định chính xác độ tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc xác định
chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng
bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức.


17

Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng mà VKS
đều ra Quyết định trả hồ sơ điều ra bổ sung. Viện kiểm sát chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án (như đã nêu rên) nếu
VKS không thể tự mình bổ sung được.
Có quan điểm cho rằng “đã là chứng cứ thì đều có giá trị chứng minh như nhau,
không thể chia thành chứng cứ quan trọng và không quan trọng” [12]. Sau khi Thông
tư số 01/2010/TTLT ra đời đã quy định rất cụ thể về thế nào là “Chứng cứ quan trọng”
đã khắc phục những bất đồng về nhận thức về chứng cứ quan trọng trong vụ án. Tuy
nhiên vẫn còn có sự bất đồng trong việc xác định chứng cứ có thể tự bổ sung và không
thể tự bổ sung. Thực tiễn có trường hợp không phải thiếu chứng cứ quan trọng nhưng
VKS vẫn trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc hồ sơ vụ án tuy có thiếu chứng cứ quan
trọng nhưng VKS có thể tự bổ sung được song VKS không điều tra bổ sung mà vẫn trả
hồ sơ để điều tra bổ sung. Cá biệt có trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung mang tính

“đánh đố”, không thể thực hiện được nhưng VKS vẫn trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ví
dụ như trong vụ án: Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Mặc dù có những tài liệu phản ánh bị can có biểu hiện của người say rượu, như có lời
khai của người làm chứng xác định nghe thấy giọng nói lè nhè, bước đi ngoằn nghèo
nhưng nếu trả hồ sơ để điều tra xác định tình trạng say rượu của bị can thì không thể
thực hiện được vì không thể trưng cầu giám định để xác định nồng độ cồn trong máu
của bị can khi mà vụ án tai nạn giao thông đã trôi qua một thời gian [23]. Chúng tôi
thống nhất với quan điểm cho rằng: Việc VKS không thể tự mình bổ sung được là do
không có điều kiện về phương tiện, công cụ, lực lượng để thu thập, bổ sung chứng cứ,
hoặc việc điều tra bổ sung có nhiều khả năng dẫn tới thay đổi tội danh của bị can.
Như vậy, đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS, VKS chỉ
trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có đầy đủ hai yếu tố, một là chứng cứ đó phải là
chứng cứ quan trọng, nếu thiếu VKS không thể truy tố được; hai là VKS không thể tự
bổ sung được.
Trường hợp thứ 2, có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có
người đồng phạm khác
Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ để khởi tố bị can về
một tội phạm hoặc có người đồng phạm khác. Thực tiễn đã chứng minh trong rất


18

nhiều vụ án bị can không chỉ thực hiện một hành vi hoặc một mình thực hiện hành vi
mà hành vi phạm tội của tội phạm ngày nay rất tinh vi, xảo quyệt, thường diễn ra rất
nhiều (chuỗi) hành vi xâm phạm nhiều quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Do đó
việc khởi tố điều tra không hết hành vi hoặc không phát hiện được đồng phạm (trong
vụ án có nhiều bị can...) của CQĐT là không tránh khỏi nếu như quá trình điều tra
chưa khách quan, toàn diện, triệt để dẫn tới bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Kết
quả cuộc điều tra không đạt được nhiệm vụ, mục đích của tố tụng hình sự. Vì vậy, sau
khi nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy có căn cứ khởi tố bị can về một tội khác hoặc có người

đồng phạm khác thuộc các trường hợp sau thì Viện kiểm sát hoặc ra quyết định trả hồ
sơ trong đó nêu rõ yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định thay đổi
quyết định khởi tố bị can hoặc tự mình ra quyết định ra các quyết định nêu trên và trả
hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra bổ sung.
+ Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
+ Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ cho thấy còn có
căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;
+ Ngoài bị can đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn
có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng
chưa được khởi tố bị can.
Trong trường hợp nghiên cứu hồ sơ thấy có căn cứ để tách vụ án theo Điều 117
BLTTHS thì VKS không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp thứ ba, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
Vi phạm thủ tục tố tụng là việc các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng không thực hiện đầy đủ những chức trách, nhiệm vụ được giao trong việc thu
thập, đánh giá, bảo quản chứng cứ... trong các vụ án hình sự dẫn đến việc xử lý vụ án
có khả năng bị sai lệch không đúng pháp luật. Trong một vụ án hình sự thì việc vi
phạm các thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS có thể dẫn đến những hậu
quả pháp lý khác nhau, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, không phải
mọi vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đều dẫn đến việc trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì VKS chỉ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bộ luật


19

TTHS chưa quy định cụ thể thế nào là “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
hình sự”, chính vì vậy trước khi Thông tư số 01/2010/TTLT ra đời việc nhận
thức và áp dụng vấn đề này trên thực tiễn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

còn chưa thống nhất, mặc dù tại tiểu mục 4.4 mục 4 phần I Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng phần thứ ba “xét xử sơ thẩm” đã giải thích “Vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải
theo thủ tục đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ
qua hoặc thực hiện không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách
quan toàn diện” [30]. Tuy nhiên, đánh giá tình tiết như thế nào là “làm cho việc
giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện” mang tính chủ quan cao nên việc
nhận thức cũng như thực hiện giữa các địa phương, các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng không thống nhất. Để khắc phục hiện tượng đó,
tại Điều 4 Thông tư số 01/2010/TTLT quy định rất cụ thể: “Có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng” quy định tại khoản 3 Điều 168 BLTTHS năm 2003 là
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định
sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Những trường hợp sau đây được coi
là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:
- Lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê
chuẩn của VKS, nhưng đã không có sự phê chuẩn của VKS hoặc việc ký lệnh,
quyết định không đúng thẩm quyền;
- Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự;


20


- Xác định không đúng tư cách của người tham gia tố tụng trong quá trình
điều tra dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
- Khởi tố vụ án nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật tố
tụng hình sự;
- Nhập hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117
của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can theo đúng quy định
của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can;
- Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm
quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự,
của bị can, bị cáo);
- Không có người phiên dịch cho những người tham gia tố tụng trong
trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo
quy định tại Điều 61 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của Bộ luật tố
tụng hình sự;
- Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình
tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án
hình sự;
- Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình
điều tra không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ
vụ án;
- Việc điều tra không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp các cơ quan có
thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;
- Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;



21

- Khiếu nại, tố cáo của bị can và những người tham gia tố tụng khác không
được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm hại nghiêm trọng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
- Những trường hợp khác được xác định theo khoản 1 Điều này nhưng
phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Tuy nhiên đối với một số trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải
tiến hành nhưng cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng đã
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thuộc trường hợp phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nhưng nếu như việc trả hồ sơ để điều ra bổ sung CQĐT cũng
không thể khắc phục được (như xác định nồng độ cồn trong máu, khám nghiệm
hiện trường... qua một thời gian điều tra thông thường dấu vết đã bị mất hoặc
không còn) thì VKS không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Không trả hồ sơ để điều ra bổ sung trong trường hợp tuy có vi phạm thủ tục
tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng hoặc trường hợp bị can chưa thành niên trong giai đoạn
điều tra nhưng đến khi truy tố thì bị can đã đủ 18 tuổi.
Việc VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ra quyết định bằng văn bản
và do Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng VKS ký. Nội dung của Quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ số, ngày, tháng, năm và lần trả hồ sơ (thứ
nhất hoặc thứ hai). Trong phần nội dung phải ghi cụ thể “Những chứng cứ quan
trọng đối với vụ án” cần phải điều tra bổ sung, “Tội phạm khác hoặc người đồng
phạm khác” phải khởi tố hoặc “Những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”
cần được khắc phục và nêu rõ căn cứ pháp luật quy định tại một trong các khoản
1,2 và 3 Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 121 BLTTHS quy định số lần VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung
không quá hai lần và chỉ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai
trong trường hợp những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung trong quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung lần thứ nhất chưa được điều tra bổ sung hoặc tuy đã điều

tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung xét thấy


×