Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đề án môn học Ngành Luật Pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.68 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA LUẬT

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề tài:

“Pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại
và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam’’
Sinh viên thực hiện :
Lớp
:
Giảng viên hướng dẫn:

Đắk Lắk, tháng11 năm 2017


i

MỤC LỤC


ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BNQ

:

Bên nhượng quyền



BNHQ

:

Bên nhận quyền

NQTM

:

Nhượng quyền thương mại


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nếu nói thương trường là “chiến trường” thì hoạt động NQTM là một
trong những “chiến lược” tất yếu nhằm giảm thiểu sự mất mát hy sinh và đem
lại sự thành công trên mặt trận kinh doanh.
NQTM là một hoạt động thương mại có lịch sử lâu đời. Những hình thức
sơ khai của NQTM xuất hiện từ thế kỉ XVII - XVIII tại một số nước châu Âu và
tới nay hoạt động này đã phát triển rộng khắp trên phạm vi tồn thế giới. NQTM
đã có mặt ở đa số các quốc gia và đây cũng là phương thức kinh doanh được các
tập đoàn lớn trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối, dịch vụ sử dụng.
Tại Việt Nam hoạt động NQTM còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, NQTM đang
tỏ ra thích nghi rất tốt với điều kiện kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Bên cạnh
những tín hiệu tích cực chúng ta khơng thể phủ nhận thực tế là đa số người dân
và thậm chí các thương nhân khơng có được những kiến thức cơ bản về hoạt

động này. Đồng thời trên khía cạnh pháp lý, những quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động NQTM còn nhiều bất cập, chưa theo kịp được đòi hỏi của thực
tiễn kinh doanh.
Bởi vậy quan hệ NQTM luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro cũng như các tranh
chấp giữa các chủ thể. Việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động này sẽ
là một động lực to lớn tạo điều kiện cho NQTM đóng góp nhiều hơn vào sự phát
triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Chính vì thế, việc nghiên cứu
“Pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại và thực tiễn áp dụng tại
Việt Nam” vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có giá trị thực tiễn trong hoạt động
thương mại tại Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

NQTM là một nội dung khá quan trọng trong pháp luật thương mại của
Việt Nam. Các cơng trình nghiên cứu về NQTM có thể phân loại theo khía cạnh
kinh tế và pháp lý.
Xét về mặt kinh tế, có các cơng trình nghiên cứu về NQTM điển hình như
“Franchise - bí quyết thành cơng bằng mơ hình nhượng quyền kinh doanh” NXB Trẻ, Hà Nội, năm 2005 và “Mua Franchise cơ hội mới cho các doanh
nghiệp Việt Nam” - Nxb trẻ 2006 của tác giả Lý Q Trung. Bên cạnh đó, cịn
có các bài viết trên các báo và tạp chí như “Thâm nhập thị trường thế giới bằng


2

hoạt động nhượng quyền kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam” của PGS.TS
Nguyễn Đông Phong và ThS Nguyễn Hữu Huy Nhựt đăng trên tạp chí phát triển
kinh tế số 208 tháng 2 năm 2008. Những nghiên cứu trên chủ yếu phân tích xu
hướng phát triển của hoạt động NQTM tại Việt Nam, đồng thời giới thiệu các
đặc điểm của mô hình hoạt động mới mẻ này cùng những kinh nghiệm của các
chủ thể khi tham gia NQTM.
Xét về khía cạnh pháp lý, cũng có nhiều tác phẩm sách, báo, tạp chí

chuyên ngành, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ và các khóa luận cử nhân nghiên
cứu về NQTM. Trong đó có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu:
Luận án Tiến sĩ của Vũ Đặng Hải Yến với đề tài “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”, “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định
của pháp luật Việt Nam” của ThS Nguyễn Bá Bình (tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 2 (163) tháng 1/2010). “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại” của Bùi Ngọc Cường (tạp chí nhà nước và pháp luật số 7
năm 2007), “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh” của
Nguyễn Thanh Tú (tạp chí Nghiên cứu lập pháp 03 năm 2007). Các nghiên cứu
đã tập trung phân tích về các khía cạnh pháp lý của quan hệ NQTM như: tư cách
chủ thể của các bên, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, vấn đề bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ…
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu những nội dung pháp lý cơ bản của hoạt động NQTM
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời, kết hợp với việc tìm hiểu thực
tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về NQTM trong thực tế. Từ đó, kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động NQTM tại
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
NQTM là hoạt động thương mại phức tạp có nội dung liên quan tới nhiều
lĩnh vực khác nhau. Do đó, các quy phạm điều chỉnh hoạt động NQTM cũng
nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vậy, khi nghiên cứu nội
dung về hoạt động NQTM và thực tiễn áp dụng, ngồi việc phân tích các vấn đề
pháp lý được đề cập trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, đề tài liên hệ với các quy phạm điều chỉnh NQTM trong một số văn bản


3


pháp luật khác có liên quan như: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao cơng
nghệ, Bộ luật Dân sự, Luật Thuế thu nhập cá nhân.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
từ viết tắt, đề tài gồm 2 chương:
- Chương 1. Khái quát chung về NQTM và một số quy định của pháp luật
hiện hành về NQTM tại Việt Nam.
- Chương 2. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về NQTM tại Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về NQTM
1.1.1. Theo pháp luật trên thế giới
NQTM là một hoạt động đang ngày càng trở nên phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Tuy nhiên, khái niệm NQTM trong pháp luật các nước khác
nhau là khơng hồn tồn đồng nhất với nhau. Theo đó, khái niệm NQTM được
đưa ra bởi một số tổ chức quốc tế hay pháp luật một số quốc gia đó là:
- Theo Hiệp hội NQTM Quốc tế (The International Franchise
Association, viết tắt là IFA): “NQTM là mối quan hệ theo hợp đồng giữa bên
giao quyền và BNHQ, theo đó bên giao quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan
tâm liên tục tới doanh nghiệp của BNHQ trên các khía cạnh như bí quyết kinh
doanh, đào tạo nhân viên. BNHQ hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương
thức phương pháp kinh doanh do bên giao quyền sở hữu hoặc kiểm sốt vì

BNHQ đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng
nguồn lực của mình” 1.
- Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (The US Federal Trade
Commission - FTC): “Hợp đồng NQTM là hợp đồng hay một thỏa thuận giữa ít
nhất 2 người trong đó người mua franchise được cấp quyền bán hay phân phối
sản phẩm, dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thị của người chủ
thương hiệu. Hoạt động kinh doanh của người mua franchise phải triệt để tuân
theo kế hoạch hay hệ thống tiếp thị này gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu,
biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí, quảng cáo và những biểu tượng thương mại
khác của chủ thương hiệu. Người mua franchise phải trả một khoản phí, trực
tiếp hay gián tiếp, gọi là phí franchise” 2.
Như vậy, NQTM được người Mỹ khởi xướng và định nghĩa như một sự
liên kết, một hợp đồng giữa phía chuyển giao (nhà sản xuất hoặc tổ chức dịch
vụ) với người nhận chuyển giao (người kinh doanh độc lập). Định nghĩa này
được xem là khá đầy đủ phản ánh được những vấn đề cơ bản của hoạt động
NQTM như các đối tượng thường xuất hiện trong quan hệ này, vấn đề phí
1
2

/>TS Lý Quý Trung (2005), “francise bí quyết thành cơng bằng mơ hình NQTM”, Nxb Trẻ


5

nhượng quyền. Và quan trọng hơn nữa là tính liên tục cũng như mối quan hệ
mật thiết giữa các bên trong hợp đồng NQTM cũng được đề cập thông qua việc
quy định hoạt động kinh doanh của BNHQ phải tuân thủ triệt để kế hoạch hay
hệ thống tiếp thị của BNQ.
- Theo Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU).
Khái niệm NQTM không được định nghĩa trực tiếp mà được tiếp cận gián tiếp

thông qua khái niệm “quyền thương mại”. Quyền thương mại là một "tập hợp
những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản
quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc
cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng"3.
- Theo Bộ luật dân sự Nga khái niệm bản chất pháp lý của NQTM được
thể hiện như sau: "Theo hợp đồng NQTM, một bên (bên có quyền) phải cấp cho
bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời
hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một
tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu
hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc
quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá, nhãn
hiệu” 4.
Về khái niệm NQTM trong pháp luật Nga cũng giống như của Cộng đồng
chung Châu Âu EC, khái niệm này cho rằng NQTM là một quan hệ hai chiều
một mặt bên nhượng chuyển giao cho bên kia quyền sử dụng một số yếu tố
thuộc quyền sở hữu cả họ và nhận một khoản tiền từ phía bên kia. Tuy nhiên,
khái niệm này vẫn không thể hiện được cụ thể tính liên tục và mối quan hệ mật
thiết giữa các bên trong suốt quá trình kinh doanh theo phương thức NQTM.
Đây là một điểm thiếu sót của những khái niệm này khi so sánh với khái niệm
của Hội đồng thương mại Hoa Kỳ.
Như vậy, với các hệ thống pháp luật khác nhau có những khái niệm khơng
giống nhau về NQTM, sự khác nhau đó dựa trên cơ sở hướng tiếp cận vấn đề.
Có những nước tiếp cận trên cơ sở các chủ thể và quyền nghĩa vụ của họ trong
quan hệ NQTM, có những quốc gia lại tiếp cận trên cơ sở khái niệm về quyền
thương mại. Tuy nhiên, về cơ bản trong hệ thống pháp luật một số quốc gia và tổ
3

/>4
/>


6

chức quốc tế có sự thống nhất về bản chất của quan hệ NQTM ở một số điểm
như sau:
- Quan hệ NQTM ln có sự tồn tại của BNQ và bên BNHQ trong đó
BNQ là chủ sở hữu hoặc là chủ thể kiểm sốt các quyền sở hữu trí tuệ và
phương thức kinh doanh.
- Các bên cùng kinh doanh trên cơ sở sử dụng chung các yếu tố như nhãn
hiệu hàng hố, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo của BNQ và cách thức tổ chức kinh doanh do
BNQ quy định.
- Giữa BNQ và BNHQ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. BNQ có quyền
kiểm tra giám sát đồng thời có nghĩa vụ hỗ trợ hướng dẫn đối với BNHQ.
1.1.2. Theo pháp luật Việt Nam
Trước đây, hoạt động NQTM được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và
pháp luật chuyển giao công nghệ với tên gọi “cấp phép đặc quyền kinh doanh”.
Luật Thương mại 2005 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong các quy
định về NQTM trong pháp luật Việt Nam khi lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về
hoạt động NQTM trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao,
theo đó: “NQTM là hoạt động thương mại, theo đó BNQ cho phép và yêu cầu
BNHQ tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các
điều kiện sau đây:
- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do BNQ quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hố,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của BNQ;
- BNQ có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho BNHQ trong việc điều hành
công việc kinh doanh” 5.
Khái niệm về NQTM ở Việt Nam có sự kế thừa các quy định về NQTM

trong pháp luật của một số nước. Khái niệm này đã cơ bản thể hiện được bản
chất của hoạt động NQTM tuy nhiên chưa làm rõ nghĩa vụ tài chính (nghĩa vụ
thanh tốn phí nhượng quyền) giữa các bên. Quan hệ NQTM đầu tiên phải nói
tới nó là một quan hệ thương mại trong đó có sự trao đổi ngang bằng giữa các
bên tham gia quan hệ. Một mặt pháp luật Việt Nam quy định khá nhiều các
5

Điều 284 Luật thương mại 2005


7

quyền, nghĩa vụ của BNQ đối với BNHQ thì lại quên đi nghĩa vụ cơ bản nhất
của BNHQ đối với BNQ trong quan hệ NQTM đó là trả phí nhượng quyền.
Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu NQTM là một mối quan hệ theo hợp
đồng giữa BNQ và BNHQ. Theo đó, BNQ cấp cho BNHQ quyền tiến hành hoạt
động kinh doanh hàng hoá, hoặc dịch vụ gắn với nhãn hiệu, và yếu tố sở hữu trí
tuệ của BNQ trong một thời gian nhất định, tại một lãnh thổ xác định để đổi lấy
một khoản phí trực tiếp hoặc gián tiếp từ BNHQ.
1.2. Một số quy định của pháp luật hiện hành về nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam
1.2.1. Quy định về đối tượng của hợp đồng NQTM:
Hoạt động NQTM có ở Việt Nam từ những 1990 nhưng đến năm 2005,
hoạt động thương mại này mới chính thức được luật hố tại Luật Thương mại
2005. Ngày 31/3/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy
định chi tiết hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm một, một số hoặc
toàn bộ các quyền sau đây:
- Quyền được BNQ cho phép và u cầu BNHQ tự mình tiến hành cơng
việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do BNQ quy
định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh

doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của BNQ;
- Quyền được BNQ cấp cho BNHQ sơ cấp quyền thương mại chung;
- Quyền được BNQ thứ cấp cấp lại cho BNHQ thứ cấp theo hợp đồng
NQTM chung;
- Quyền được BNQ cấp cho BNHQ quyền thương mại theo hợp đồng phát
triển quyền thương mại.6
Theo đó, quyền thương mại có nội dung khác nhau trong từng hợp đồng
nhượng quyền. Sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Dựa
vào sự thoả thuận này sẽ cho phép BNHQ được sử dụng quyền thương mại đến
đâu.
1.2.2. Quy định pháp luật về quyền thương mại cơ bản:
Quyền thương mại đầu tiên được đề cập là quyền được tiến hành hoạt
động kinh doanh sản phẩm hoặc dịch vụ theo một hệ thống do BNQ quyết định
và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
6

Khoản 6 Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006.


8

doanh, tên thương mại của BNQ. Đây là quyền cơ bản cần có trong mọi hợp
đồng NQTM.
Như vậy, ta có thể thấy xu hướng thống nhất của các nhà làm luật về bản
chất của hoạt động NQTM. NQTM khơng cịn được xem là một bộ phận của
chuyển giao công nghệ nữa mà là một hoạt động thương mại độc lập và được
điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật riêng. Ở đây, đã có sự thay đổi nhận
thức cơ bản về hoạt động NQTM chứ không đơn thuần chỉ là việc thay đổi tên
gọi từ cấp phép đặc quyền kinh doanh sang NQTM.
Sự thay đổi của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn này là thực sự cần

thiết bởi vì cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì hoạt động NQTM
ngày càng trở nên phổ biến, đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế và xã hội. Đồng thời những quy định cũ của pháp luật Việt Nam về hoạt
động cấp phép đặc quyền kinh doanh trong khuôn khổ của hoạt động chuyển
giao công nghệ đã bộc lộ những hạn chế và không còn phù hợp để điều chỉnh
các quan hệ NQTM.
1.2.3. Hợp đồng NQTM:
Hợp đồng NQTM là văn bản được ký kết bởi các bên trong quan hệ
nhượng quyền, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tiến hành nhượng
quyền. Trong hợp đồng NQTM, điều khoản cực kỳ quan trọng là điều khoản về
đối tượng của hợp đồng, trong đó quy định mục đích hướng tới của các bên khi
tham gia ký kết hợp đồng nhượng quyền.
Luật Thương mại 2005 lần đầu tiên quy định về NQTM đã tạo cơ sở pháp
lý để các chủ thể tiến hành kinh doanh theo phương thức này. Điều 285 Luật
thương mại 2005 quy định hợp đồng NQTM phải được lập bằng văn bản hoặc
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức tương đương với
văn bản hiện nay là telex, fax, điện báo, thông điệp dữ liệu….
Thực tế tại Việt Nam, NQTM là một hoạt động còn khá mới mẻ và pháp
luật điều chỉnh về hoạt động này cũng ra đời chưa lâu. Do đó, đây vẫn được xem
là một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro có thể dẫn tới tranh chấp giữa các chủ thể
của hợp đồng.
Hợp đồng NQTM là sự thể hiện rõ nhất ý chí, quyền và nghĩa vụ cụ thể
của các bên trong quan hệ hợp đồng vì thế nó có giá trị pháp lý cao trong việc
giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng và đúng đắn. Do đó pháp luật


9

Việt Nam quy định bắt buộc hợp đồng NQTM phải được lập bằng văn bản là
hoàn toàn hợp lý.

Các yếu tố chính trong một hợp đồng nhượng quyền bao gồm:
- Chủ thể của hợp đồng: Hợp đồng NQTM ghi nhận sự thoả thuận của hai
chủ thể độc lập, BNQ và BNHQ. BNQ có thể là BNQ sơ cấp (BNQ ban đầu)
hoặc BNQ thứ cấp (bên được quyền cấp phép lại). BNHQ cũng phân thành
BNHQ sơ cấp và BNHQ thứ cấp.
+ BNQ: Là một bên trong hợp đồng, có thẩm quyền chuyển giao các
quyền kinh doanh cho một hoặc nhiều bên để tiến hành kinh doanh, phân phối
hàng hoá, dịch vụ dựa trên quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ. Quyền
chuyển giao các đối tượng sở hữu trí tuệ này xuất phát từ quyền sở hữu đối với
các đối tượng này hoặc được chủ sở hữu quyền thương mại cho phép cấp lại cho
bên thứ ba.
+ BNHQ: là bên được cấp phép sử dụng quyền kinh doanh, có nghĩa vụ
chính là trả phí nhượng quyền.
Các bên trong hợp đồng phải thoả mãn các điều kiện do pháp luật quy
định để có thể tiến hành NQTM. Đối với BNQ, các điều kiện có phần khắt khe
hơn như: quy định về thời hạn đã hoạt động kinh doanh trước khi nhượng
quyền, các nghĩa vụ về đăng ký nhượng quyền và các tài liệu bắt buộc phải giao
cho BNHQ trước khi đàm phán, ký kết hợp đồng. BNHQ thường chỉ cần thoả
mãn điều kiện có đăng ký kinh doanh ngành nghề dự kiến nhận quyền.
- Đối tượng hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền là quyền
thương mại mà BNQ chuyển nhượng cho BNHQ trong một thời gian nhất định
tại một khu vực địa lý nhất định.
- Thời hạn hợp đồng: BNHQ chỉ có thể sử dụng quyền thương mại do
BNQ cấp trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng. Thời hạn của hợp
đồng nhượng quyền thường kéo dài vì BNHQ cần có thời gian để tiến hành hoạt
động kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận so với chi phí đã bỏ ra ban đầu.
Thời hạn thơng thường là 2, 3, 5 hay 10 năm.
- Phí nhượng quyền: Đây là khoản phí mà BNHQ phải trả cho BNQ, đổi
lại, họ được nhận quyền thương mại cũng như sự hỗ trợ của BNQ. Phí nhượng
quyền bao gồm 2 loại: phí nhượng quyền ban đầu (initial fee) và phí hàng tháng

(loyalty/monthly fee).


10

+ Phí nhượng quyền ban đầu thơng thường được trả một lần, khi ký hợp
đồng, được xem như là khoản phí ban đầu để gia nhập vào hệ thống NQTM
(franchise network).
+ Phí hàng tháng được trả hàng tháng tính theo phần trăm của doanh thu
mỗi tháng của cửa hàng nhượng quyền. Ngồi ra, có thể có thêm phí tiếp thị
(marketing fee) đóng góp vào chi phí cho việc quảng bá thương hiệu của toàn hệ
thống.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên: là phần quan trọng trong một hợp đồng
nhượng quyền. Các nghĩa vụ chủ yếu của BNQ là hỗ trợ BNHQ trong hoạt động
kinh doanh; bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm, dịch vụ; đối xử
công bằng với các BNHQ trong hệ thống,… Đối với BNHQ, nghĩa vụ quan
trọng và chủ yếu là trả đủ phí nhượng quyền, tuân thủ theo sự chỉ dẫn của BNQ,
đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống, bảo vệ bí mật kinh doanh…
1.2.4. Đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại
Để tạo cơ sở cho hoạt động nhượng quyền được an tồn hơn, các đối
tượng sở hữu trí tuệ phải được đăng ký tại nước sở tại cũng như tại quốc gia
khác, nơi BNQ có dự định nhượng quyền. Cụ thể:
- Điều ước quốc tế quy định chủ sở hữu các đối tượng là quyền sở hữu trí
tuệ cần phải đăng ký tại cơ quan của tổ chức quốc tế mà quốc gia là thành viên.
- Điều 17 Nghị định số 35/2006/NĐ- CP quy định: “Trước khi tiến hành
hoạt động NQTM, thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài dự kiến
nhượng quyền phải đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền theo
quy định tại Nghị định này. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký hoạt động NQTM
có trách nhiệm đăng ký hoạt động NQTM của thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt
động NQTM và thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó.”

Trong thời gian tới, khi hoạt động NQTM trở nên phổ biến thì các tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ là khơng thể tránh khỏi. Việc các nhà nhượng
quyền từ nước ngồi tìm kiếm đối tác là thương nhân Việt Nam để nhượng
quyền đòi hỏi phải đăng ký nhãn hiệu, tên thương mại, sáng chế, giải pháp hữu
ích của mình… trước khi tiến hành nhượng quyền để nhằm bảo đảm khơng
trùng lắp và bị tranh chấp. Từ đó khách hàng yên tâm sử dụng hàng hoá, dịch vụ
mà BNHQ cung cấp với chất lượng đã được chứng minh. Đây là vấn đề không
chỉ bên dự kiến nhượng quyền lưu tâm mà bên dự kiến nhận quyền phải đảm
bảo nhằm hạn chế rủi ro vì tài sản trí tuệ là một phần rất giá trị trong một thương


11

vụ nhượng quyền, BNQ nếu được yêu cầu phải chứng minh bằng các văn bằng
bảo hộ các quyền về sở hữu trí tuệ của mình.
1.2.5. Bồi thường thiệt hại cho khách hàng và nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước trong hoạt động NQTM
Mặt dù là hai chủ thể độc lập nhưng BNQ vẫn có quyền kiểm sốt đối với
BNHQ, bao gồm cả kiểm soát chất lượng hàng hoá dịch vụ khi đưa ra thị
trường. Do đó, pháp luật nước ngoài quy định đối với bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng đều yêu cầu về trách nhiệm liên đới của
BNQ, trừ trường hợp BNQ chứng minh được lỗi hồn tồn thuộc về BNHQ như
khơng tuân thủ quy định mặc dù đã được BNQ nhắc nhở.
Điều 608 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Cá nhân, pháp nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khơng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà
gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”7. Tuy nhiên, Luật Thương
mại năm 2005 lại chưa quy định về trách nhiệm bồi thường cho khách hàng
hoặc người thứ ba nếu như thiệt hại xảy ra do dịch vụ hoặc hàng hoá là đối
tượng của hợp đồng NQTM gây ra.
Về nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 quy định chi tiết một số điều của luật
thuế thu nhập cá nhân và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế thu
nhập cá nhân để hướng dẫn chế độ thuế đối với các khoản thu nhập từ NQTM.
Hiện nay, hoạt động NQTM tại Việt Nam đang từng bước trở nên thịnh
hành và chứng minh được những ưu thế của một phương thức kinh doanh hiệu
quả. Trong thời gian tới, các cơ quan Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu ban hành
các chính sách, hành lang pháp lý phù hợp với tình hình thực tế để hoạt động
NQTM phát huy được các điểm mạnh, đóng góp tích cực vào sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam.

7

Điều 608 Bộ luật Dân sự 2015.


12

CHƯƠNG 2.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động NQTM của một số
doanh nghiệp Việt Nam
2.1.1. Cà phê Trung Nguyên
Cà phê Trung Nguyên có thể xem là doanh nghiệp Việt Nam đi tiên phong
trong hoạt động NQTM. Thương hiệu cà phê Trung Nguyên phát triển mạnh vào
những năm 2001-2002 với hàng trăm cửa hàng trên khắp các tỉnh thành trong cả
nước và từng bước thâm nhập ra thị trường nước ngồi. Nhìn chung, trong thời
gian đầu chuỗi cửa hàng Trung Nguyên được xem là thành công và tạo lập được
thương hiệu cho riêng mình.
Tuy nhiên, việc tạo lập một thương hiệu đã khó thì việc duy trì và gia tăng

giá trị của thương hiệu cịn khó khăn hơn. Và thực sự những thành công và thất
bại của mô hình NQTM của cà phê Trung Nguyên cần phải được xem xét kĩ như
là những bài học đắt giá cho những doanh nghiệp muốn hoạt động trong lĩnh
vực đầy tiềm năng này. Trong hoạt động NQTM của Cà phê Trung nguyên, các
nhà nghiên cứu đã rút ra một số vấn đề như sau:
- Truyền thơng đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong thành cơng của
thương hiệu “Trung Ngun”. Có thể nói chính bài viết, phóng sự mang nội
dung tích cực về “hiện tượng cà phê” là yếu tố này đã tạo nên cơn sốt Trung
Nguyên trong những năm đầu hoạt động.
- Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, cơ chế kiểm soát của cà phê Trung
Nguyên đối với BNHQ cịn nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ
thương hiệu “Trung Nguyên” bị ảnh hưởng, uy tín bị giảm sút trong mắt khách
hàng.
- Nhiều thương hiệu cà phê như Highland, Smith Coffee với chất lượng
sản phẩm và cách phục vụ tốt cạnh tranh trực tiếp với Trung Nguyên.
2.1.2. Phở 24
Phở 24 là một thương hiệu rất nổi tiếng tại Việt Nam tiến hành NQTM.
Hệ thống nhà hàng Phở 24 hiện tại đang rất thành công và đảm bảo đầy đủ các
chuẩn mực, tiêu chuẩn của một hệ thống NQTM đặc trưng nhất. Thành công của


13

phở 24 ngoài các yếu tố về mặt kinh tế thì xét trên khía cạnh NQTM có thể nêu
ra một số nguyên nhân sau đây:
- Phở 24 mặc dù ra đời sau nhưng có sự chuẩn bị, nghiên cứu thị trường
cũng như đặc điểm của NQTM một cách kĩ lưỡng trước khi bắt đầu hoạt động.
Thậm chí việc chọn tên Phở 24 dễ đọc, dễ nhớ cũng nhằm mục đích tạo điều
kiện để nhãn hiệu này phát triển rộng khắp cả trong nước và trên thế giới.
- Phở 24 rất chú trọng tới tính đồng nhất. Nói một cách khác, các cửa

hàng phở 24 rất giống nhau cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức, việc bài
trí, cách sử dụng khẩu hiệu, hay cung cách phục vụ giữa các cửa hàng này rất
khó tìm ra sự khác biệt. Về nội dung thì phở 24 rất chú trọng tới chất lượng hàng
hóa mà các cửa hàng của mình cung cấp tới khách hàng, mỗi tô phở phải bảo
đảm được các tiêu chuẩn nhất định về phương pháp nấu, khối lượng nguyên
liệu…. Chính sự đồng nhất này đã làm cho khách hàng khơng cịn cảm thấy bất
an về chất lượng hàng hóa khi lựa chọn bất kì một cửa hàng phở 24 nào, từ đó
góp phần bảo vệ và khơng ngừng nâng cao uy tín của Phở 24. Đây là kết quả của
mối quan hệ gắn bó, kiểm sốt chặt chẽ giữa BNQ và các BNHQ mà Phở 24 đã
xây dựng. Đó chính là điểm hồn tồn khác biệt với hệ thống cà phê Trung
Nguyên
Trên đây chỉ là hai nhãn hiệu tiêu biểu hoạt động trong lĩnh vực NQTM
tại Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp mới ra đời chọn NQTM
làm con đường phát triển và cũng có nhiều các thương hiệu nhượng quyền từ
nước ngồi vào Việt Nam làm cho bức tranh thương mại trong lĩnh vực này ngày
càng phong phú. Đó chính là cơ hội đồng thời cùng là thách thức cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Các bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về NQTM
Kết quả phân tích, đánh giá của các chuyên gia về các quy định pháp luật
liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại đã chỉ rõ hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động này vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Một trong những khuyết
điểm được bộc lộ trong quá trình áp dụng vào thực tiễn trong hoạt động nhượng
quyền thương mại là quy định về đối tượng của hợp đồng NQTM.
Đối tượng của hợp đồng NQTM là một trong những điều khoản đầu tiên
của hợp đồng nhượng quyền. BNQ có xu hướng trao cho BNHQ quyền thương
mại cơ bản là chủ yếu, nhất là đối với nhượng quyền trong phạm vi lãnh thổ của
một nước. Điều khoản về đối tượng quy định các quyền thuộc sở hữu trí tuệ


14


được trao cho BNHQ sử dụng như các hợp đồng nhượng quyền trên thế giới sẽ
liệt kê những quyền nào được trao. Ngồi nhãn hiêu, tên thương mại và bí mật
kinh doanh, các yếu tố khác như khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh
cũng là một phần không thể thiếu của đối tượng hợp đồng. Các yếu tố này
thường không được quy định chi tiết trong điều khoản về đối tượng mà được
tách ra một phần riêng về nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ và quyền sở
hữu trí tuệ.
2.3. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về NQTM
Một số kiến nghị về quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM
nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp:
- Hoàn thiện và thống nhất khái niệm NQTM trong các văn bản quy
phạm pháp luật.
- Hoàn thiện những quy phạm pháp luật về chủ thể, đối tượng NQTM.
- Hoàn thiện những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng NQTM.
- Hoàn thiện quy định về chấm dứt hợp đồng NQTM
- Quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng đối với BNQ và BNHQ trong hợp động NQTM.


15

KẾT LUẬN
Hoạt động NQTM tại Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc và
có những đóng góp ngày càng to lớn vào nền kinh tế quốc gia. NQTM đã thể
hiện được sự thích nghi rất tốt với mơi trường kinh tế tại Việt Nam và được xem
như một lĩnh vực hoạt động đầy hứa hẹn trong giai đoạn sắp tới.
Về các quy định pháp luật điều chỉnh NQTM, trải qua quá trình áp dụng

đi cùng với sự phát triển của hoạt động NQTM, những quy định của pháp luật
về lĩnh vực này cũng có nhiều sự thay đổi. Nhìn chung những thay đổi đó là theo
hướng tích cực và đã tiếp cận hoạt động này đúng với bản chất của nó là một
hoạt động thương mại độc lập có nhiều điểm đặc thù. Mặc dù vậy, chúng ta cũng
không thể phủ nhận một thực tế là mặc dù hoạt động NQTM đã được triển khai
tại Việt Nam hơn 27 năm, tuy nhiên khung pháp lý của hoạt động này sau nhiều
thay đổi vẫn cịn điểm thiếu sót, bất cập; chưa đáp ứng được nhu cầu của các
quan hệ xã hội phát sinh trên thực tế.
Trong giai đoạn hiện tại, việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ
NQTM cần có một sự phối hợp tích cực giữa tất cả các BNQ và BNHQ; giữa
các chủ thể tham gia hoạt động NQTM với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên về lâu
về dài, việc xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ, khoa học nhằm tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển của NQTM tại Việt Nam cần được nhanh chóng được
hồn thiện.


16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015;
2. Luật Thương mại năm 2005;
3. Luật Sở hữu Trí tuệ 2006; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Sở hữu Trí tuệ năm 2009;
4. Luật chuyển giao Công nghệ 2017;
5. Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007
6. Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động NQTM;
7. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 quy định chi tiết một số
điều của luật thuế thu nhập cá nhân và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
thuế thu nhập cá nhân;

8. Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy
định chi tiết Luật Thương mại
9. Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 của Bộ Thương mại
hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; Thông tư
số 04/2016/TT-BCT ngày 06/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương sửa đổi,
bổ sung một số Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công Thương về thủ tục hành chính
trong lĩnh vực thương mại điện tử, hóa chất, sản xuất kinh doanh rượu, nhượng
quyền thương mại, hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa,
năng lượng, an toàn thực phẩm và điện lực.
10. Lý Quý Trung, “Franchise – bí quyết thành cơng bằng mơ hình
nhượng quyền kinh doanh”, NXB Trẻ, Hà Nội, năm 2005.
11. Nguyễn Khánh Trung, “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam – giải
pháp nào cho sự phát triển bền vững”, Thời báo kinh tế Sài Gòn.
12. PGS–TS Nguyễn Văn Luyện – TS. Lê Thị Bích Thọ – TS. Dương Anh
Sơn (2006), “Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế”, Nxb Đại học quốc
gia Tp.HCM.


17

13. ThS. Nguyễn Bá Bình (2008), “Bước đầu tìm hiểu hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngồi dưới giác độ pháp luật Việt Nam” - Tạp
chí luật học (5), tr 9-15
14. ThS. Nguyễn Bá Bình (2006), “NQTM - Bản chất và mối quan hệ với
hoạt động chuyển giao cơng nghệ, hoạt động li-xăng!”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (02), tr. 21-26.
15. TS. Nguyễn Thanh Tâm (2006) – Quyền sở hữu công nghiệp trong
hoạt động thương mại – Nxb Tư Pháp
16. ThS Vũ Đăng Hải Yến (2005), “NQTM – những vấn đề lý luận và

thực tiễn”, Tạp chí luật học (3), tr. 46.
17. ThS. Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của
hợp đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (4), tr. 4145.
18. ThS Vũ Đặng Hải Yến (2008) – “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học
19. />20.
21. />22. />


×