Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.76 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động Ngân hàng liên quan đến mọi ngành, mọi cấp, đến các đơn
vị sản xuất kinh doanh, hầu hết các hộ dân thông qua việc nhân dân gửi tiền
tiết kiệm, tổ chức cá nhân mở tài khoản thanh toán…Tập thể và cá nhân vay
vốn Ngân hàng để sản xuất kinh doanh tăng thu nhập, giải quyết việc làm
cho gia đình và xã hội. Đó là những hoạt động kinh tế diễn ra thường xuyên,
liên tục hàng ngày ở mỗi địa phương cũng như toàn xã hội. Để cho những
hoạt động trên được thông suốt và ngày càng phát triển thì các tổ chức kinh
tế cũng như mọi người dân phải có những hiểu biết nhất định và hoạt động
ngân hàng. Trong một bài viết của em, với đề tài: " Nguồn vốn kinh doanh
của Ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của
Ngân hàng thương mại Việt Nam", Em muốn đưa ra một cái nhìn bao quát
nhất về hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam
cũng như các Ngân hàng thương mại ở các nước khác trong thời gian qua
cùng với những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thu hút có hiệu
quả hơn nữa nguồn vốn quan trọng này trong những năm tới.
Nội dung của đề tài này bao gồm có 3 chương như sau:
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận chung.
CHƯƠNG II: Thực trạng huy động vốn trong các Ngân hàng thương
mại Việt Nam trong những năm gần đây.
CHƯƠNG III: Một số giaỉ pháp và kiến nghị nhằm nâng cao việc tạo
lập vốn của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn cô đã tận tình hướng dẫn em và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Vì thời gian cũng như khả năng
có hạn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong
nhận được sự góp ý của cô và của các bạn.


CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI


I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI,
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Sự ra đời của Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng được hình thành phát triển qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, vào khoảng thế
kỷ 15 đến thế kỷ 18, các Ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau, đó là
làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành
giấy bạc Ngân hàng. Sang thế kỷ 18, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng
và phát triển, việc các Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy
bạc Ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc khác nhau đã gây
cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều đó
đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống Ngân hàng thương mại cũng ra đời từ
đó.
Thời kỳ đầu, các Ngân hàng thương mại thực hiện tất cả các hoạt
động của nó như nhận tiền gửi và làm dịch vụ thanh toán, Ban đầu chủ yếu
là nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và ngắn hạn, về sau, các Ngân
hàng thương mại thực hiện cả cho vay trung và dài hạn bằng nguồn vốn
trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành trái
khoán.
Cho đến cuối năm 1960, đặc điểm đặc thù để phân biệt một Ngân
hàng thương mại với một Ngân hàng trung gian khác như là ở chỗ Ngân
hàng thương mại là một đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi
không kỳ hạn cho công chúng. Ngân hàng thương mại có thể tồn tại dưới


nhiều dạng sở hữu khác nhau. Ngân hàng thương mại có thể được thành lập
bằng 100% vốn của tư nhân, 100% vốn của Nhà nước hoặc là sự hùn vốn
giữa tư nhân với Nhà nước hoặc là với nước ngoài. Ngân hàng thương mại
gắn liền với sự phát tiển của sản xuất và lưu thống hàng hoá, Ngân hàng
thương mại đã phát tiển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và trở thành

trung gian tái chính lớn nhất.
2. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Với tư cách là một doanh nghiệp, để hoạt động kinh doanh tốt thì phải
có vốn, để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải tìm cách để huy
động được một số vốn lớn từ các chủ thể kinh tế có vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế để bù lại Ngân hàng thương mại phải trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở
hữu khi đến hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hạng thương mại phải
đảm bảo trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng phương thức thanh toán
của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm thoe. Còn với tư cách người
cho vay thì Ngân hàng thương mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức
là tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác và Ngân hàng thương
mại luôn mong muốn khách hàng của mình sử dụng vốn này có hiệu quả và
hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kỳ hạn thoe quy định đã cam kết. Qua đó
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính lớn nhất, một
trong những trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Vai trò của Ngân hàng
thương mại còn góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, góp phần quan hệ giao lưu kinh tế.
II. VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
PHÂN LOẠI VỐN:
1. Nguồn vốn doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại:
1.1. Vốn chủ sở hữu:


Để bắt đầu hoạt động Ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ Ngân
hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đầy là loại vốn Ngân hàng có thể sử
dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho Ngân hàng. Nguồn
hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ thoe tính
chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ Ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển
của thị trường.

1.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn
ban đầu khác nhau. Nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách
Nhà nước cấp (vốn của nhà nước). Nếu là Ngân hàng cổ phần, các cổ đông
đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do
các bên liên doanh, Ngân hàng tư nhân là thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhâp ròng lớn hơn không,
chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một
phần thu nhập ràng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc
của chủ Ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những Ngân hàng lâu năm, thu
nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ
hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng qui mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước qui định… Đặc điểm
của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho Ngân
hàng có được lượng vôn sở hữu vào lúc cần thiết.
1.1.3. Các quỹ


Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là
quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại
nhằm bù đáp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đáp hao mòn
của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài
sản của Ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát
hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo qui định cụ thể của từng nước, các Ngân hàng
còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc…

Các quỹ của Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ naỳ là từ thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử
dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh thuỳ thuộc vào mục đích sử
dụng quỹ.
1.2. Nguồn vốn đi vay:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu vay
vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cần thành toán và chi cho khách
hàng, các Ngân hàng thương mại có thể đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở
các Ngân hàng thương mại khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức
ngoài nước, v.v… Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được
trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để
bảo đảm cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
Dưới đây sẽ xem xét các nguồn vay chủ yếu:
1.2.1.

Vay của Ngân hàng trung ương:

Lẽ sống của Ngân hàng thương mại là nhận ký thác và cho vay, Ngân
hàng phải cho vay tới mức mà Ngân hàng trung ương cho phép để tối đa hoá
lợi nhuận. Nhưng không phải lúc nào hoạt đọng của Ngân hàng cũng đều
thuận lợi.
Ngân hàng trung ương là Ngân hàng của các Ngân hàng, là cứu tinh
của các Ngân hàng trong những trường hợp vừa kể trên, là nguồn cho vay


sau cùng (Lender of last resort). Thông thường, tất cả các Ngân hàng trung
gian và một số các tổ chức tài chính khác trong nước được Ngân hàng trung
ương cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tiền tại Ngân hàng
trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá két vốn. Cho
dù Ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt

cao hay thấp thế nào đi nữa, nó vẫn phải cho các Ngân hàng trung gian vay
khi họ thanh khoản để tránh những khủng hoảng tài chính không đáng xây
ra.
Đứng về phía Nhân hàng trung gian, vay mượn tại Ngân hàng trung
ương là một dịch vụ hết sức tiện lợi và hào hứng vào những khi nó hạ lãi
suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích cho
vay đầu tư. Những lúc ấy, tiền trở nên dồi dào, Ngân hàng trung ương thì
hào phóng, rộng rãi và các khoản vay của Ngân hàng trung gian từ nhỏ trở
nên lớn hơn.
Trường hợp không may diễn ra là khi Ngan hàng trung gian đến vay
giữa lúc Ngân hàng trung ương không muốn khuyến khích bành trướng tín
dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc
đó, lãi suất chiết khấu được đưa lên cao và với những khoản lỗ trông thấy
khi vay vốn của Ngân hàng trung ương, các Ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay
trong những tình huống thật ngặt nghèo và tìm cách trả nợ rất nhanh. Những
khi ấy, các khoản vay từ Ngân hàng trung ương chỉ chiếm một phần rất ít
trong tài sản nợ. Thời gian vay ngắn hay dài, hiệu quả của tiền vay cao hay
thấp là phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu của Ngân hàng trung ưong và mức
tiền vay của các Ngân hàng trung gian.
Đứng về phía Ngân hàng trung ương, với tư cách là Ngân hàng của
các Ngân hàng trung ương luôn luôn là chủ nợ của hệ thống Ngân hàng. Đây
là vốn hết sức tế nhị. Có là chủ nợ, Ngân hàng mới dễ điều khiển và giảm sát


hệ thống Ngân hàng trung gian. Nhưng đây cũng là vấn đề dễ bị nhầm lẫn.
Tiền đi vào chu trình kinh tế bằng còn đường các Ngân hàng thương mại
chuyển các hối phiếu và trái phiếu lên Ngân hàng trung ương và bị chiết
khấu mất phần lãi suất phải trả cho khoản được vay, qua đó trở thành người
nợ của Ngân hàng trung ương. Việc Ngân hàng trung ương bút toán khối
lượng tiền vào bên nợ trong bảng cân đối của mình thực chất chỉ là do ghi

theo qui định kế toán, chứ không làm thay đổi Ngân hàng trung ương phát
hành tiền Ngân hàng trung ương để cho vay có lãi và theo lô gích đó thì là
Ngân hàng trung ương là chủ nợ đối với hệ thống Ngân hàng. Vị trí của chủ
nợ này là cân thiết để Ngân hàng trung ương có thể điều tiết việc mở rộng
khối lượng tiền tệ. chính vì lý do đó, các Ngân hàng thưong mại không được
phép gửi tiền có lãi tại Ngân hàng trung ương, thì đó chỉ thuần tuý là việc dự
trữ không có lãi. Nếu Ngân hàng trung ương là người nợ của hệ thống Ngân
hàng thưong mại, thì khi đó nó không còn khả năng tác động trực tiếp vào sự
gia tăng khối lượng tiền tệ bằng chính sách tiền tệ của mình, vì bất cứ lúc
nào các Ngân hàng thương mại cũng có thể rút tiền của họ. Mối quan hệ hữu
cơ giữa thị trường tín dụng bị phá vỡ và Ngân hàng trung ương bị mất đi khả
năng điều tiết của mình.
Tương tự như vây, một vấn đề chủ đạo đối với khả năng điều tiết của
Ngân hàng trung ương là việc Ngân hàng trung ương chỉ được phép cho các
Ngân hàng thương mại vay ngắn hạn. Đây là điều cần thiết, vì và chỉ như
vậy Ngân hàng trung ương mới có thể phản ứng những rối loại có thể xay ra
trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí cấp vốn. Chỉ có các Ngân
hàng thương mại mới được phép cấp tín dụng dài hạn. Để làm được việc
này, các Ngân hàng thương mại phải huy động được tiền gửi dàn hạn của các
chủ sở hữu chỉ sẵn sàng gửi tiền dài hạn nếu những rủi ro mất giá tiền gửi
của họ được giảm một cách tối đa trên cơ sở giá và tỷ giá hối đoái ổn định


và qua đó họ thu được khoản lãi thực tế dương. Nếu một khi Ngân hàng
trung ương có những khoản nợ phải đòi dài hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi
tiềm năng điều tiết của họ và thúc đẩy sự bất ổn định trong khu vực tiền tệ.
Và chính điều này sẽ làm mất đi các điều kiện có thể huy động tiền gửi dài
hạn của các chủ tài sản. Do vậy, tiền đề đối với một hệ thống Ngân hàng hai
cấp có hiệu lực là thiết lập một cơ chế cạnh tranh giữa các Ngân hàng, tức là
hoạt động cạnh tranh trong việc huy động tiền gửi. Cạnh tranh là cách đưa

ra những điều kiện tốt hơn so với những đối thu của mình (như về giá cả,
chất lượng và những điều kiện thương mại.)
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho Ngân hàng trung gian qua hai
hình thức chính:
+ Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tài cấp vốn.
+ Thế chấp (prise en pension) hay ứng trước (advances) có bảo đảm
hay không baỏ đảm.
Thế chấp khác với tái chiết khấu ở hai điểm:
a) Trong chế chấp, chủ nợ không bán phiếu nợ cho Ngân hàng, mà chỉ
đem gửi phiếu ấy làm vật bảo đảm cho việc vay tiền. Khi phiếu nợ đáo hạn,
đích thân chủ nợ phải thu hồi số nợ. Trong kỹ thuật chiết khấu, có sự chuyển
quyền sở hữu trên món nợ ghi trong thương phiếu từ người chủ nợ sang
Ngân hàng.
b) Thời hạn thế chấp thường cấp ngắn, có khi không quá một tuần. Kỹ
thuật này rất thích hợp cho Ngân hàng nào chỉ vay trong một vài ngày, như
cuối tháng, cuối năm, những ngày Tết, v.v…
Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của Ngân hàng Nhà nước
đối với Ngân hàng thương mại như sau:


- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: là hình thức tài trợ
vốn theo kế hoạch, chỉ phân phối cho các Ngân hàng thương mại quốc
doanh.
- Chiết khấu và tái chiết khấu trái phiếu kho bạc, khế ước mà các
Ngân hàng đã cho các khách hàng vay chưa đáo hạn, và các thương phiếu.
- Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của tổ chức tín dụng
1.2.2.

Vay ngắn hạn dụ trữ tại Ngân hàng trung ưong:


Các Ngân hàng vay mượn như vậy được gọi là vay mượn qua vốn
liên bang (như ở Mỹ) hoặc vay tiền trung ương (như ở Pháp) để đáp ứng nhu
cầu thanh khoản.
Để chuẩn bị cho các hoạt động thanh toán bù trừ và chuyển nhượng
lẫn nhau, kể cả qui định dự trữ bắt buộc do Ngân hàng trung ương áp đặt, tất
cả các Ngân hàng thương mại đều phải kỳ gửi những khoản tiền mặt nhất
định tại kho của Ngân hàng trung ương, khoản dự trữ này không sinh lời.
Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc Ngân hàng thương mại
gặp những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt tiền mặt. Đây là điều
thường xảy ra đối với Ngân hàng thương mại ở bất kỳ nước nào. Trong kho
có một số Ngân hàng thương mại thiếu dự trữ, thì cũng có một số Ngân hàng
thương mại khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo qui định của Ngân
hàng trung ương, các Ngân hàng thương mại điện thoại hoặc liên lạc qua
man hình (computer) vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình
thường. Thủ tục vay được tiến hành qua viễn ký (fax) hoặc điện tín. Trong
vòng vài phút sau, Ngân hàng thừa dự trữ trong ngày hôm đó sẽ viết séc
hoặc gửi tín đến chi nhánh Ngân hàng trung ương tại điện phương, yêu cầu
chuyển một phần tiền từ dự trữ của Ngân hàng mình qua cho dự trữ của
Ngân hàng xin vay. Thế là Ngân hàng xin vay trở nên đủ dự trữ theo yêu cầu
của Ngân hàng trung ương với một khoản tài sản nợ phát sinh là số tiền vay


nó trên, thể hiện vào bảng cân đối của ngày hôm đó. Còn Ngân hàng thừa dự
trữ cho vay một phần dư có trên tài khoản để kiếm tiền lãi.
Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống Ngân
hàng thương mại. Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy
nhiên khoản nợ này thường rất ngắn, không quá một tuần, và thường là chỉ
một hay hai ngày, vì mỗi Ngân hàng đều ý thức không thể lạm dụng kéo dài
thời gian gặp khó khăn cho Ngân hàng có thiện chí giúp mình.
Hiện nay ở Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại

Ngân hàng trung ương.
Ở Việt Nam còn có “vốn tiếp nhận”, là những nguồn vốn mà Ngân
hàng thương mại nhận uỷ thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài nước, từ ngân
sách Nhà nước để cho vay trung, dài hạn hoặc kế hoạch xây dựng cơ bản tập
trung của Nhà nước, để thực hiện những chương trình và dự án có mục tiêu
định trước trong sản xuất kinh doanh, cải toạ môi trương, môi sinh.
1.2.3. Vay trên thị trường tiền tệ (TTTT):
Thị trường tiền tệ (TTTT) theo mô hình của các nước phát triển bao
gồm thị trường mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn, thị trường liên Ngân
hàng, thị trường hối đoái. Ở đây chỉ cấp khái quát TTTT trong mối liên quan
với việc vay mượn của các NHTM trên thị trường nầy.
TTTT hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các Ngân hàng, bổ sung kíp
thời cho nhu cầu vốn thông qua việc điều hoà các nguồn vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu. TTTT góp phần sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã có tại các
Ngân hàng, làm cho các nguồn vốn vừa phong phú vừa chủ động nằm trong
tầm tay này hoà trộn, lưu thông, khơi luồng các dòng chảy cho tất cả các
nguồn vốn vào mạng lưới đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước. TTTT giúp
cho NHTM tìm được nguồn vay, đồng thời giúp cho NHTM nào khi dư
thanh khoản có được cơ hội sinh lợi. Đó là nơi người ta đi vay và cho vay


qua việc bán và mua những phiếu nợ ngắn hạn, hay nói cách khác, TTTT là
nơi mua bán trái phiếu ngắn hạn. Nói ngắn gọn, mặt hàng được trao đổi trên
thị trường này là “tiền” hoặc các “chứng từ có giá trị như tiền”. Như vậy đại
diện cho một lượng tiền mà một cá nhân (hoặc doanh nghiệp) nợ người
khác. Một số tài sản tài chính thực hiện chức năng cất giữ giá trị hơn là
phương tiện trao đổi được gọi là các “chứng từ có giá trị như tiền” (hoặc
“cận tiền tệ”).
Các loại tiền (tiền của Ngân hàng trung ương, tiền của Ngân hàng
thương mại…) là những hình thức của giấy nợ IOU (I owe you), mà người

cầm nó là những người cho vay (lender) vì đã gửi tiền vào Ngân hàng
thương mại (trường hợp nắm giữ séc, sổ tiết kiệm, thể tín dụng…), hoặc đã
cung cấp cho nền kinh tế, cho Nhà nước một sản phẩm, một dịch vụ (trong
trường hợp tiền lương, tiền bán sản phẩm, cung ứng dịch vụ). Nhưng tác
nhân phát ra nó là người vay nợ (borrower), là những người đã nhận dịch vụ
(Nhà nước, xí nghiệp, trường học…), hoặc đã nhận tiền (một hình thức đầu
tiên của giấy nợ). Xã hội và nền kinh tế vận hành cùng với việc trao đổi,
chuyển dịch sở hữu hàng hoá, chất xám lao động… thông qua những
phương tiện trung gian là các loại hình giấy nợ này. Sự đa dạng của các loại
hình giấy nợ theo tiến trình phát triển của nền kinh tế hình thành nên hệ
thống tiền tệ: hoặc là phiếu nợ của chính phủ (nếu là tiền mặt), hoặc là phiếu
nợ của Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác. Các loại tiền là
phiếu nợ luôn luôn nằm vào 1 trong 3 trạng thái:
1) Vay, cho vay,
2) Nhận, trả
3) Cất giữ
Dù ở trạng thái nào, tiền cũng là chỉ giấy nợ và dứt khoát đến ngày
phải thanh toán. Cho nên người ta gọi nó là phương tiện để thanh toán. Cái


khác nhau chỉ ở chỗ hiện nay hay tương lai. Cuộc sống của con người và nền
kinh tế là một chuỗi vận động xoay quanh tất cả các “loại nợ”. Quá trình cứ
thế tiếp diễn với những phiếu nợ được hoán chuyển qua tay từng người, vận
động liên tục mỗi phút, mỗi giây, mỗi ngày năm này qua năm khác để hình
thành nên các loại hoạt động kinh tế khác nhau và nền kinh tế với đầy đủ sự
đa dạng của nó.
Xết về tính chất, tiền mặt hay tiền của Nhà nước do Ngân hàng trung
ương phát ra là một loại hình của giấy nợ hay trái phiếu. Nếu mình có tiền
mặt trong tay, điều đó có nghĩa là chính phủ đang nợ mình một khoản tiền.
Trong trường hợp tín phiếu kho bạc, chính phủ nợ người sở hữu tín phiếu

một khoản tương đương với giá trị được ghi trên tín phiếu. Đối với trường
hợp thứ nhất, tiền của chính phủ thức chất là tiền mặt. Những gấy nợ này
được phép luật qui định rằng nó có thể được dùng cất giữ, trao đổi thành các
loại hàng hoá như gạo, ôtô… Còn trong trường hợp thứ hai, tín phiếu kho
bạc chỉ là chứng từ có giá trị như tiền hay là các chứng từ tài chính, chỉ được
chính phủ thanh toán khi chúng đáo hạn, việc chuyển nhượng tín phiếu kho
bạc cho người khác thật ra không phải là khó khăn cho lắm, nhưng bản thân
chính phủ không có trách nhiệm phải thanh toán số tiền ghi trên tín phiếu
trược khi tín phiếu đáo hạn.
Các loại tiền của NHTM cũng mang tính chất tương tự. Cái khác nhau
là “cho vay để được hưởng gấy nợ của chính phủ” là tất cả thành viên của xã
hội và “khoản cho vay” là sản phẩm hoặc dịch vụ do chính họ làm ra cho xã
hội. Trong trường hợp “gấy nợ là tiền của NHTM”, thì người cho vay để
được hưởng gấy nợ loại này những người gửi tiền vào NHTM. Điều quan
trọng là phải có tiền mặt nộp vào NHTM thì mới phát sinh các loại phiếu nợ
hay tiền khác trong hệ thống Ngân hàng. “Khoản cho vay” là tiền mặt pháp
định của chính phủ, nghĩa là người cho vay đã chuyển từ một hình thức gấy


nợ không lãi của chính phủ thành loại gấy nợ khác có lãi của NHTM, còn
được gọi là “tiền-tài sản” vì có đồng thời hai tính chất “tiền” và “khoản đầu
tư”.
Ở trên thị trường tiền tệ (TTTT) thường tập trung mọi thành phần tiền
có trong lưu thông; trên TTTT tiền cũng có giá của nó. Tiền có giá khi tín
dụng và tiền hoà nhập vào làm một và giá của tiền tệ cũng bị chi phối bởi
quan hệ cung cầu. Đối tượng của TTTT là hoạt động mua bán tiền tệ, là lãi
suất tín dụng. Nếu lãi suất trên TTTT bất lợi so với lãi suất chiết khấu, các
Ngân hàng sẽ lựa chọn chiết khấu ở NHTƯ. Trường hợp đó gọi là thị trường
ở Ngân hàng. Trái lại, nếu lãi suất đó thấp hơn lãi suất tái chiết khấu, các
Ngân hàng bỏ ngỏ có lợi hơn và người ta gọi là thị trường “ngoại Ngân

hàng” (gọi là thị trường bỏ ngỏ là vì ai tham gia mua bán trên thị trường này
đều được cả, không gởi hạn vào một tầng lớp nào).
Không có TTTT, nhiều khoản nợ sẽ không được thanh toán kịp thời
và ngược lại nhiều khoản tiền tệ lúc chưa dùng đến lại phải nằm yên trong
dự trữ. Trong nền kinh tế thị trường, việc thanh toán kịp thời, đầy đủ, đúng
hạn là một yếu tố đặc biệt quan trọng để tạo ra niềm tin cho các nhà kinh
doanh và để ổn định quá trình phát triển nền kinh tế. TTTT hỗ trợ tích cực
cho hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt hoạt động cho các NHTM, tạo
vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán, chống nợ
nần dây dưa giữa các doanh nghiệp, và bổ sung kịp thời cho nhu cầu vốn của
các NHTM thông qua việc điều hòa các nguồn vốn từ các nơi thừa đến nơi
thiếu.
Các công cụ lưu thông trên TTTT bao gồm: tín phiếu kho bạc ngắn
hạn, kỳ phiếu thương mại, tín phiếu của công ty tài chính, các hợp đồng vay
mượn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng dưới sự điều tiết của NHTƯ, kỳ
phiếu Ngân hàng, chứng chỉ tiền gởi tiết kiệm, khế ước giao hàng, v.v… Mỗi


công cụ xuất hiện trên TTTT đều nhằm đáp ứng các nhu cầu cụ thể của các
thành viên TTTT.
Các NHTM có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành
phiếu nợ để vay tiền trên TTTT. Khả năng vay vốn của thị trường thông qua
việc phát hành phiếu nợ tuỳ thuộc vào 3 yếu tố:
1) Mức độ chấp nhận của nhân dân đối với nó như một phương tiện
thanh toán trong lưu thông.
2) Sự khuyến khích hay không của Ngân hàng trung ương.
3) Hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn đã vay được.
Tuy nhiên, khi NHTM quyết định vay của thị trường bằng hình thức
này, bao giờ nó cũng có sẵn những kế hoạch đầu tư nhất định và chắc chắn
là có hiệu quả. Vì thế yếu tố thứ ba không thành vấn đề, chỉ còn hai yếu tố

đầu quyết định được khả năng nhanh hay chậm của quá trình phát hành.
1.2.4. Vay từ công ty mẹ (parent company)
Ở các nước phát triển mỗi công ty hoặc tập đoàn kinh doanh có thể là
chủ của từ một đến rất nhiều NHTM. Thay vì Ngân hàng phát hành trái
phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị trường, các công ty mẹ của Ngân
hàng có thể thay thế nó làm chuyện đó dưới hình thức phát hành trái phiếu,
cổ phiếu công ty hoặc các loại thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động
được về cho Ngân hàng hoạt động. Nếu NHTM vay tiền của thị trường bằng
các hình thức kể trên, nó có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc của
NHTƯ về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục. Mỗi khi NHTƯ ràng buộc họ quá
nhiều điều kiện khó, không thể phát hành trái phiếu được như ý muốn, hoặc
nếu phát hành được cũng sẽ phải trả chi phí rất cao, thì NHTM giao cho các
công ty mẹ phát hành các loại giấy nợ là cách trốn thoát của họ đối với
NHTƯ để đạt được cũng mục đích ấy. Đây là lý do giải thích vì sao hầu như
ở tất cả các nước phát triển, các NHTM luôn luôn là con đẻ của một công ty


kinh doanh, công ty tài chính, hoặc ít nhất là có quan hệ mật thiết với các đối
tượng trên. Khi công ty mẹ phát hàng trái phiếu, nó không phải bị ràng buộc
về dự trữ, lãi suất, số lượng do NHTƯ qui định, vì nó không phải là một
Ngân hàng. Tiền thu nhập được chuyển giao cho Ngân hàng kinh doanh.
Như vậy, công ty mẹ vay của thị trường và đến lượt Ngân hàng vay của công
ty mẹ. Vốn vay này có thể được Ngân hàng xếp vào nhóm nợ ngắn hạn (nếu
công ty mẹ phát hành trái phiếu ngắn hạn và cho Ngân hàng vay lại cũng
ngắn hạn), hoặc có thể là tài sản nợ dài hạn. Một đôi khi cũng có thể được
nhập vào vốn cổ phần nếu công ty mẹ quyết định gia tăng vốn cơ bản cho
Ngân hàng.
1.2.5. Vay từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác:
Ngoài các loại vay đã nêu trên, các NHTM để đảm bảo vốn cho hoạt
động kinh doanh còn vay ở các Ngân hàng khạc, giữa các NHTM và các tổ

chức tín dụng có thể cho vay lẫn nhau theo nguyên tắc:
+ Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp.
+ Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng.
+Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cổ hay xin bảo lãnh
của NHTƯ.
1.3. Nguồn vốn huy động:
Các Ngân hàng huy động vốn được thông qua các hình thức:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư
- Phát hành kỳ phiếu
- Phát hành trái phiếu
- Các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn
Các hình thức trên, các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất cao
hơn so với lãi suất tiền gửi. Nguồn vốn này chỉ phát sinh khi Ngân hàng


thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Qua đó ta thấy
nguồn vốn huy động là công cụ chính, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của NHTM. Số vốn mà NHTM huy động là tài sản của các chủ
sở hữu Ngân hàng được quyền sử dụng nhưng phải có trách nhiệm hoàn trả
cho họ đúng thời hạn cả vốn và lãi. Các NHTM chỉ được sử dụng nguồn
vốn này vào các nghiệp vụ tín dụng như cho vay, đầu tư, chiết khấu… mà
không được sử dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản cố
định cho Ngân hàng cũng như các mục đích khác ngoài kinh doanh.

2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò làm trung gian tài chính đó
là thu nhập tiền gửi tạo nguồn vốn. Nguồn vốn trong NHTM không những là
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của

các NHTM. Do vậy nguồn vốn của các NHTM có vai trò quyết định khả
năng thanh toán và chi trả của một Ngân hàng, gây thanh thế và uy tín cho
Ngân hàng đó. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn vốn phong phú
đa dạng phục vụ cho mục đích mở rộng quy mô hoạt động tín dụng của
Ngân hàng thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY:
Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa
Việt Nam thành một nước có nền kinh tế phát triển mạnh, Nhà nước Việt
Nam đã xác định mục tiêu hàng đầu và quan trọng đó là phải có nguồn vốn
và trong số nguồn vốn của NHTM thì số vốn huy động chiếm số lượng lớn,
hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay về vấn đề huy động vốn đang
diễn ra trong điều kiện khá thuận lợi vì có thị trường chứng khoán ra đời,
tiền nhàn rỗi của dân cư tăng lên… Nhưng bên cạch đó cũng có nhiều khó
khăn và thử thách. Trong một số năm trở lại đây thì huy động vốn trong
nước của các Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định và bằng các hình
thức huy động truyền thống như nhận tiền gửi còn có thêm các loại hình huy
động mới đó là huy động bằng ngoại tệ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…
1. Các hình thức huy động vốn trong các Ngân hàng thương mại:


Nguồn vốn huy động là số vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn của các
NHTM, các NHTM Việt Nam đã xây dựng chiến lược huy động vốn bằng
nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, ngoài ra còn có các hình
thức huy động khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi
có kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra

bất cứ lúc nào. Ở nhiều nước thì phần lớn các giao dịch thanh toán được
thực hiện bằng séc còn Việt Nam thì tài khoản được thực hiện thường gọi là
tài khoản tiền gửi thanh toán gồm tài khoản thanh toán dùng cho doanh
nghiệp và tài khoản thanh toán cho cá nhân. Hiện nay các NHTM trả lãi
thanh toán cho loại tiền gửi này (khoảng 0,1%/tháng).
- Tiền gửi không có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút
ra sau một thời hạn nhất định ở Việt Nam trong những năm qua thì tỷ trọng
tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi có 2
loại tiền gửi có kỳ hạn đã được áp dụng:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn theo tài khoản.
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn dướn hình thức phát hành trái phiếu Ngân
hàng trong đó chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm
mục đích đã định và được huy động theo 2 phương thức.
 Phát hành theo mệnh giá: Người mua trả tiền mua kì phiếu
mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu khi đến hạn Ngân hàng sẽ hoàn trả vốn
gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.
 Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
- Tiền gửi tiết kiệm: Việt Nam đã có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng
có thể gửi, rút nhiều lần vào bất cứ lúc nào.


+Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút ra sau một
thời gian nhất định, nếu khách hàng rút trước thì phải có điều kiện là hưởng
lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích là hình thức tiết kiệm trung và dài
hạn nhằm mục đích xây dụng nhà ở. Ngoài số tiền lãi khách hàng còn được
Ngân hàng cho vay nhằm mục đích bổ sung vốn cho xây dụng nhà ở.
+ Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền
gửi phi giao dịch.

Khi nguồn vốn huy động và nguồn vốn tự có không đủ cho nhu cấu sử
dụng vốn của mình thì các NHTM còn được phép huy động phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ gửi có kỳ hạn để bổ sung nguồn vốn huy
động của mình.
2. Kết quả huy động vốn của NHTM Việt Nam trong những năm gần
đây:
Bằng các hình thức huy động vốn của mình, các NHTM Việt Nam đã
huy động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động
kinh doanh của mình. Số lượng vốn huy động ngày một tăng lên chiếm 60%
tổng nguồn vốn. Đây là một số trong số kết quả huy động vốn của các
NHTM.
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội
đến hết quí I/2001 tổng nguồn vốn huy động của các NHTM là 58.000 tỷ
đồng trong đó nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 24.000tỷ đồng (đổi
ra VNĐ) chiếm tỷ trọng 41,3% tổng nguồn vốn huy động và tăng 3,3% so
với cuối năm 1990; Qua đó ta thấy việc huy động vốn bằng ngoại tệ cũng
chiếm phần lớn trong tổng số vốn huy động được.


Ngân hàng công thương Việt Nam có số vốn huy động tăng lên rất
nhanh từ năm 1991 đến năm 1994 nhưng đến năm 2000 thì tổng số vốn huy
động đã được vượt lên mức chỉ tiêu của 6 tháng năm 1994.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG 6 THÁNG ĐẦU
1994.


chỉ tiêu

1991


1992

1993

6 tháng

Tổng nguồn vốn

4.249

6.273

8.610

đầu 1994
10.946

Vốn huy động

2.828

4.126

5.520

7.115

- TG không trả lãi

461


345

80

55

-Tiền gửi tiết kiệm

1.455

1.909

1.223

1.974

11

1.066

1.974

65,7%

64,1%

65,01%

- Kỳ phiếu

Tỷ lệ vốn huy động

66,5%

so tổng nguồn vốn
(Theo đề án của sinh viên Cũ Hữu Trường, Trường học viện NH. 6/2001)

Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2000 có những bước tiến mới
trong việc huy động vốn, đẩy nhanh các hình thức huy động vốn và hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng Công thương năm 2000 đã khắc phục được
tồn tại cũ, vừa chủ động tích cực phát triển mọi mặt trong hoạt động kinh
doanh nên đã đạt được những thành tựu đáng kể: Nguồn vốn huy động được
năm 2000 là 46.768 tỷ so với đầu năm là 10.811 tỷ, tốc độ tăng 30%, trong
đó vốn huy động VNĐ tăng 24%, ngoại tệ tăng 53% nên kết quả đã vượt chỉ
tiêu để ra là 3%.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 1994 đã có tăng
lên so với năm 1991 về số vốn huy động của mình theo số liệu về chỉ tiêu
của 6 tháng đầu năm 1994 thì số vốn của Ngân hàng Nông nghiệp được huy
động dưới hình thức tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu.


Các chỉ tiêu

1991

1992

1993

6 tháng đầu


Tổng nguồn vốn

4199

5183

6739

1994
9165

Vốn huy động: Tiết

1449

2131

3493

4409

kiệm và kì phiếu
Tỉ lệ vốn huy động so

1607
30%

1514
44%


2241
51%

3167
47%

với nguồn vốn
(Theo đề án cũ của sinh viên Cũ Hữu Trường, Trường học viện NH. 6/2001)

Trong thời gian này số vốn huy động tăng nhanh mặc dù tỉ lệ vốn huy
động so với tổng nguồn vốn không tăng đều theo các những năm đến hết
năm 2000 thì mặc dù với những khó khăn đặc thù riêng như là lũ lụt xảy ra
và giá một số mặt hàng bị sụt giá và thua lỗ như cà phê, gạo nhưng Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã vượt qua khó khăn để đạt
được khá toàn diện với mức tăng trưởng cao đến hết năm 2000 thì tổng
nguồn vốn huy động đã đạt 48.000 tỷ, tăng 3,3%.
Từ đầu năm đến ngày 1/11/1999 thì các Ngân hàng thương mại đã
tham gia vào 39 phiên đấu thầu trái phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Các
NHTM là những được trúng thầu phần lớn về việc đầu tư nguồn vốn vào trái
phiếu và từ 19/5 đến 15/7/1999 thì việc mua bán trái phiếu của Ngân hàng
thương mại đạt 2.530 tỷ đồng.
Nhưng từ ngày 15/5/1999 kho bạc Nhà nước dùng việc bán lẻ trái
phiếu ra xã hội, từ ngày 15/7/1999 thì dừng việc phát hành công trái nên dân
cư chỉ còn cách gửi tiền vốn vào Ngân hàng nên nguồn vốn từ tiền gửi của
người dân lại tâng lên. Như vậy nó đã tạo điều kiện cho NHTM trong việc
huy động vốn của mình, giúp cho các NHTM thực hiện huy động vốn để đầu
tư với khối lượng lớn.



3. Thanh tựu đạt được và nguyên nhân ảnh hưởng đến việc huy động
vốn của các NHTM:
Đất nược Việt Nam tuy còn nghèo, tích luỹ chưa nhiều nhưng nguồn
tạm thời nhàn rỗi trong dân cư trong các doanh nghiệp và tổ chức xã hội còn
lớn, nếu có chính sách và biện pháp huy động tốt để gom góp lại sẽ trở thành
nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Qua số liệu và thực tế đã
chứng minh về công việc huy động vốn của các NHTM Việt Nam từ năm
1991 đến nay huy động vốn huy động được chưa phải là thoả mãn nhu cầu
của kinh doanh nhưng đó cũng là một kết quả lớn về việc vấn đề tạo vốn, tạo
điều kiện cho các NHTM ngày càng phát triển.
a. Những nguyên nhân chủ yếu:
- Xác định rõ vị trí quan trọng hàng đầu của việc nguồn vốn trong việc
hoạt động kinh doanh của mình.
Có chính sách lãi suất hợp lý, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn
đúng đắn thích hợp.
- Tạo ra chính sách khách hàng cùng với việc nâng cao chất lượng
phục vụ.
- Đảm bảo an toàn vốn và tài sản bằng các biện pháp tăng cường kiểm
trả giảm sát, quản lý nghiêm.
b. Nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả quá trình huy động vốn:
Trước sự đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam vào thời kỳ thay đổi và mở
cửa với vị trí và trách nhiệm của mình các Ngân hàng còn bộc lộ một số khó
khăn tồn tại ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của mình cụ thể.
- Nền kinh tế tài chính chưa thật sự ổn định vững chắc sự mất giá của
đồng tiền của những năm trước còn ám ảnh, do đó một bộ phận đáng kể
trong dân chúng chưa yên tâm gửi tiền.


- Các NHTM còn thiếu những hình thức huy động vốn hấp dẫn thu
hút khách hàng tham gia.

- Khối lượng tiền nhàn rỗi, chờ đợi để đưa vào hoạt động kinh doanh
hoá được nên khách hàng có thể gửi vào loại không kỳ hạn nhưng lãi suất
tiền gửi lại rất thấp chưa theo kịp chỉ số trước giá nên không có tác động
kích thích.
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gửi tại Ngân hàng còn phát triển
chậm và có xu thế giảm sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
4. Đánh giá hiệu quả huy động của các NHTM:
Trong những năm gần đây các NHTM đã hoạt động có hiệu quả.
Vì dụ như Ngân hàng công thương Đống Đa đã thực hiện công việc
trong những năm vừa qua và đạt được hiệu quả như sau:
4.1. Những kết quả đạt được:
Chỉ sau hơn 10 năm thành lập là chi nhánh phụ thuộc NHCT Việt
Nam, NHCT Đống Đa đã xây dựng cho mình một nguồn vốn hoạt động khá
vững chắc, cơ cấu nguồn vốn huy động không ngừng đa dạng: Ngoài thu hút
tiền gửi tiết kiệm như trước đây, Ngân hàng còn tăng tỉ trọng huy động vốn
bằng phát hành kỳ phiếu, tỉ trọng vốn huy động từ tiền gửi công ty giảm dần
nhường chỗ cho sự tăng lên của tiền gửi các doanh nghiệp.
Nguồn vốn huy động tăng trưởng tạo cho Ngân hàng tự lực về vốn
kinh doanh. Ngoài ra Ngân hàng còn có vốn chuyển về NHCT Việt Nam để
điều hoà cho toàn hệ thống.
Là Ngân hàng có tiềm lực nguồn vốn mạnh, Ngân hàng luôn thực hiện
điều hoà vốn vượt kế hoạch giao xuống từ NHCT Việt nam như:
Năm 1999 kế hoạch là 510 tỉ thực hiện 580 tỉ
Năm 2000 kế hoạch là 790 tỉ thực hiện là 800 tỉ
Năm 2001 kế hoạch là 231 tỉ thực hiện là 435 tỉ


Trong hoạt động kinh doanh, NHCT Đống Đa đã chú trọng đến các
hình thức huy động vốn, nhờ đó nguồn vốn huy động tăng nhanh. Năm 1999
tổng nguồn vốn là 1429 tỉ, năm 2000 là 1850 tỉ, năm 2001 là 2010 tỉ. Sự

tăng lên của quy mô tiền gửi đã tạo điều kiện cho Ngân hàng thực hiện tốt
chiến lược kinh doanh của mình. Hầu hết các khách hàng gửi tiền không kỳ
hạn đều sử dụng rất nhiều các dịch vụ của Ngân hàng như: chuyển tiền, thu
hộ, chi hộ, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ... từ đó đem lại khoản thu
nhập đáng kể cho Ngân hàng.
Kết quả trong qua hệ với khách hàng: nhờ có chiến lược khách hàng
đúng đắn, Ngân hàng đã thiết lập được quan hệ tốt với khách hàng cả về
chiều rộng và chiều sâu. Số lượng các khách hàng mở tài khoản qua Ngân
hàng tăng nhanh qua các năm.
4.2. Những tồn tại và nguyên nhân:
4.2.1. Những tồn tại:
Tỉ trọng nguồn vốn chưa thật hợp lý:
Trong tổng số nguồn vốn huy động thì nguồn vốn của các tổ chức
kinh tế, cá nhân chiếm tỉ trọng nhỏ hơn nhiều so với tiền gửi của dân cư, mà
nguồn vốn của các tổ chức kinh tế thường là vốn không kỳ hạn có lãi suất
thấp, còn vốn của dân cư thường là tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất cao.
Nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỉ trọng nhỏ, còn nguồn vốn có kỳ hạn lại
lớn trong khi đó dư nợ cho vay còn thấp so với nguồn huy động, Đây là vấn đề
cần quan tâm vì Ngân hàng vẫn phải trả lãi suất cao cho nguồn tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi ngoại tệ còn thấp, Ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu thanh
toán và nhập khẩu cho các đơn vị sản xuất kinh doanh
Ngân hàng huy động vốn với thời hạn ngắn nhưng lại cho vay với các
dự án trung dài hạn.


×