BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HẢI
BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG QUAN HỆ
NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan
HÀ NỘI - 2011
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo khoa Sau
đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy chúng em
trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, em trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
tới TS. Nguyễn Phương Lan – người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Và xin gửi lời chân thành cảm ơn đến cơ quan Việ Kiểm sát nhân dân
tỉnh Nghệ An, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu đã giúp đỡ tạo điều
kiện để em hoàn thành khóa học và hoàn thành luận văn này.
Học viên
Nguyễn Thị Hải
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2005
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
Công ước Lahay năm 1993
Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ
em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi giữa các nước
Công ước QTE
Công ước của Liên hiệp quốc về
quyền trẻ em năm 1989
Luật HN&GĐ năm 2000
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Luật BVCS&GDTE
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004
Nghị định 158/2005/NĐ-CP
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ
tịch
Nghị định 19/2011/NĐ-CP
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 quy định chi tiết thi hành
một số điều Luật Nuôi con nuôi
UBND
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền trẻ em trong
6
quan hệ nuôi con nuôi
1.1. Khái niệm quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em
6
1.2. Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi
12
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ
18
nuôi con nuôi
1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi
21
Chương 2: Pháp luật Việt Nam vê việc bảo vệ quyền trẻ em được
23
nhận làm con nuôi và thực tiễn áp dụng
2.1. Bảo vệ quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi
23
2.2. Bảo vệ quyền trẻ em trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi
38
2.3. Bảo vệ quyền trẻ em khi chấm dứt việc nuôi con nuôi
45
2.4. Bảo vệ quyền của con nuôi trong việc nuôi con nuôi thực tế
52
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền
56
trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền trẻ em
56
trong quan hệ nuôi con nuôi
3.2. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ
57
quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con
58
nuôi
KẾT LUẬN
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
71
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc,
là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lúc sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt tới trẻ
em. Sự quan tâm này xuất phát từ tầm nhìn xa, trông rộng “vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”, từ tình thương yêu vô hạn đối với trẻ em,
Bác nói: “cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới
tươi, quả mới tốt. Con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi, thì dân
tộc mới có thể tự cường tự lập”. Việc quan tâm bảo vệ trẻ em đã được
ghi nhận trong Công ước QTE. Việt Nam gia nhập Công ước QTE từ rất
sớm và những quyền này của trẻ em đã được quy định trong hầu hết các
văn bản pháp luật của nước ta, đặc biệt trong Luật BVCS&GDTE.
Điều quan trọng nhất đối với mỗi trẻ em khi sinh ra là sự chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục từ gia đình. Gia đình là cái nôi đầu tiên hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều
trẻ em không có gia đình, không được chung sống với bố mẹ đẻ, kể cả
người họ hàng thân thích khác. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, cả nước hiện có khoảng 1.478.567 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,
trong đó 85.193 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; 1.316.227 trẻ em
khuyết tật, tàn tật; 21.903 trẻ em lang thang; 10.328 trẻ em bị nhiễm
chất độc hóa học... (chiếm 6,55% tổng số trẻ em dưới 16 tuổi). Nếu tính
cả 4 nhóm đối tượng trẻ em bị buôn bán, bắt cóc; trẻ bị ngược đãi, bạo
hành; trẻ sống trong gia đình nghèo và trẻ em bị tai nạn thương tích, tổng
số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt lên tới 4,7 triệu em (chiếm hơn 20% trẻ
em dưới 16 tuổi) [ 44 ]. Bên cạnh những hình thức chăm sóc khác nhau
thì giải pháp tốt nhất cho những trẻ em này là được nhận làm con nuôi.
Việc nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ em được sống ổn định trong gia đình
2
với tình cảm của cha mẹ đối với con, đồng thời là cách thức thực hiện
quyền làm cha mẹ của người nhận nuôi. Việc nuôi con nuôi thể hiện
những tình cảm đạo lý tốt đẹp của con người nên được Nhà nước khuyến
khích thực hiện và ngày càng phát triển. Trong nền kinh tế thị trường và
xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay ngoài những tác động tích cực
cũng bộc lộ nhiều mặt trái về đạo đức lối sống của con người, điều đó
đòi hỏi pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam phải được hoàn thiện
nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ có hiệu
quả quyền lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận làm con nuôi.
Luật nuôi con nuôi có hiệu lực (ngày 1/1/2011) đã đánh dấu bước
tiến quan trọng của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật và
thực tiễn giải quyết các vấn đề về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý thống
nhất và ổn định cao trong quản lý Nhà nước về nuôi con nuôi. Qua đó,
từng bước động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con
người, phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách
trong nhân dân, giúp cho nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có được mái
ấm gia đình. Luật Nuôi con nuôi hiện hành được xây dựng theo hướng
tiếp cận và tương thích với Công ước QTE, Công ước Lahay năm
1993…
Tuy nhiên Luật Nuôi con nuôi vẫn còn có những điểm chưa được
quy định rõ ràng như về điều kiện cho - nhận con nuôi, hệ quả pháp lý
hay vấn đề nuôi con nuôi thực tế, chấm dứt việc nuôi con nuôi, hủy việc
nuôi con nuôi…và chưa thật sự đảm bảo được quyền trẻ em trong quan
hệ nuôi con nuôi.
Vì vậy, luận văn đã lựa chọn đề tài “bảo vệ quyền trẻ em trong
quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam”. Việc nghiên cứu đề tài
là một yêu cầu khách quan, nhằm phát hiện những điểm còn tồn tại của
Luật Nuôi con nuôi và hoàn thiện nó nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ
em được nhận làm con nuôi.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi, đánh giá các
quy định của pháp luật Việt Nam từ góc độ bảo vệ quyền trẻ em được
nhận làm con nuôi và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan
hệ nuôi con nuôi, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan và
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật nuôi con nuôi.
* Luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền trẻ em
trong quan hệ nuôi con nuôi, xây dựng khái niệm quyền trẻ em, khái
niệm bảo vệ quyền trẻ em, khái niệm bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ
nuôi con nuôi…Đây là những khái niệm làm cơ sở để nghiên cứu quy
định của pháp luật về việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con
nuôi.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng của pháp luật Việt Nam
về nuôi con nuôi trong nước - tức là việc nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam với nhau thường trú ở Việt Nam. Tiếp đến, phân tích, nhận xét
quá trình cho - nhận con nuôi từ giai đoạn xác lập quan hệ nuôi con nuôi
đến thực hiện, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Trên cơ sở đó, làm rõ sự
cần thiết của việc phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật đáp
ứng kịp thời nhu cầu của thực tiễn khách quan và bảo vệ tốt hơn quyền
của trẻ em được nhận làm con nuôi.
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả pháp luật điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi nhằm đảm bảo quyền trẻ
em trong quan hệ nuôi con nuôi.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bảo
vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi, các quy định của pháp luật
4
Việt Nam hiện hành, thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ở
nước ta trong những năm gần đây.
* Luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo vệ quyền trẻ em trong
quan hệ nuôi con nuôi trong nước, giữa công dân Việt Nam với nhau
thường trú tại Việt Nam - việc cho nhận con nuôi được xác lập, thực hiện
tại Việt Nam và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Pháp luật về nuôi con nuôi được nghiên cứu cơ bản là Luật Nuôi
con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Trong đó có sự so sánh, đối
chiếu, đánh giá với các quy định của chế định nuôi con nuôi trong Luật
HN&GĐ và pháp luật có liên quan khác.
- Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài trẻ em là công dân dưới 16
tuổi (Điều 1 Luật BVCS&GDTE). Quyền của trẻ em trong quan hệ nuôi
con nuôi được xác định là quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi.
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn cũng nghiên cứu,
phân tích, so sánh các quy định của pháp luật nước ngoài có liên quan
với nội dung của đề tài.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để giải quyết những vấn đề cơ bản của đề tài, trong luận văn đã sử
dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu sau:
- Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở
gắn liền những lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu là dựa trên những phương pháp phân
tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh…
5. Những điểm đóng góp mới của luận văn.
Luận văn có một số điểm mới sau:
- Nghiên cứu về quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật thế giới và
pháp luật Việt Nam. Từ đó xây dựng một số khái niệm như quyền trẻ
5
em, bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con
nuôi.
- Phân tích pháp luật về nuôi con nuôi từ góc độ bảo vệ quyền trẻ
em trong quan hệ nuôi con nuôi; đánh giá những mặt được và những mặt
còn hạn chế của pháp luật nuôi con nuôi. Từ góc độ bảo vệ quyền trẻ em
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi nhằm
bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
6. Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền trẻ em
trong quan hệ nuôi con nuôi.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền của trẻ em
được nhận làm con nuôi và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ
quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ
EM TRONG QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em.
1.1.1. Khái niệm quyền trẻ em.
Phần lớn các nước đều định nghĩa trẻ em dựa trên dấu hiệu tuổi.
Việc xác định một người là trẻ em căn cứ vào các yếu tố nhân chủng
học, các chỉ số phát triển tâm sinh lý, thể lực và trí tuệ của con người,
các điều kiện kinh tế - xã hội trong các giai đoạn khác nhau mà mỗi nước
quy định một độ tuổi khác nhau. Theo Điều 1 Công ước QTE: “trẻ em là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy
định tuổi thành niên sớm hơn”. Pháp luật Việt Nam chưa có các quy định
thống nhất về khái niệm trẻ em trong từng ngành luật cụ thể. Theo Điều
1 Luật BVCS&GDTE : “trẻ em qui định trong luật này là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi”. Theo BLDS năm 2005 thì “trẻ em là những người
dưới 15 tuổi”. Theo Luật thanh niên năm 2005 thì “trẻ em là những
người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”…
Đặc điểm của trẻ em là người chưa phát triển hoàn thiện cả về thể
chất lẫn tinh thần, cần sự bảo vệ chăm sóc giáo dục của gia đình, nhà
trường và toàn xã hội. Mỗi trẻ em có đặc thù riêng, có mặt mạnh và năng
lực khác nhau. Tuổi thơ là giai đoạn phát triển con người mang tính chất
quyết định. Trẻ em có hàng loạt các nhu cầu phát triển ở các thời kỳ khác
nhau của tuổi thơ.
Nghiên cứu quyền trẻ em trước hết phải hiểu được quyền con
người. Quyền con người theo nghĩa chung là quyền của mọi cá nhân,
mang tính phổ quát và không thể chuyển nhượng có nghĩa là chúng được
áp dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi [37,tr.12]. Đây là những quyền tự
nhiên của con người, tồn tại một cách khách quan, ngay từ khi con người
7
sinh ra đã có. Khi nhà nước ra đời thì những quyền này được nhà nước
công nhận và đảm bảo thực hiện, quyền con người từ quyền tự nhiên trở
thành quyền công dân. Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về phẩm
giá và các quyền. Họ…cần đối xử với nhau trong tình bác ái” (Điều 1).
Theo nghĩa hẹp hơn, quyền con người thường gắn với một loại
chủ thể nhất định, những chủ thể này có thể được phân biệt theo giới tính
hoặc lứa tuổi. Quyền con người là các quyền của tất cả cá nhân, cho dù
họ có quyền công dân của một nước cụ thể nào hay không, quyền công
dân là các quyền cơ bản đặc biệt được đảm bảo cho các công dân của
một quốc gia cụ thể. Ví dụ quyền ứng cử và quyền được bầu cử…[37,
tr.30].
Quyền trẻ em là một bộ phận của quyền con người, là “quyền con
người của chủ thể đặc biệt” là trẻ em. Những quyền này được Nhà nước
thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Dưới góc độ pháp lý,
quyền trẻ em được xem xét từ góc độ khách quan và chủ quan như sau:
+ Quyền trẻ em theo nghĩa khách quan được hiểu là tất cả các
quyền lợi được hưởng của cá nhân trẻ em, những quyền này có ở trẻ em
ngay từ khi sinh ra, tồn tại khách quan và được Nhà nước công nhận, ghi
nhận thành các quyền và nghĩa vụ cơ bản của trẻ em và đảm bảo thực
hiện bằng pháp luật.
Nội dung quyền trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như
điều kiện kinh tế xã hội, chế độ chính trị, phong tục tập quán, tư tưởng
đạo đức của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Trong xu thế hiện nay, quyền trẻ
em ngày càng được mở rộng và phát triển, trẻ em từ đối tượng được
hưởng quyền thành chủ thể có quyền. Quyền trẻ em được Nhà nước tôn
trọng và bảo vệ bằng pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia.
8
Quyền trẻ em đã được quy định cụ thể trong Công ước QTE và
yêu cầu :“Các thành viên phải tôn trọng và đảm bảo các quyền được nêu
ra trong Công ước này đối với mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ
mà không có một sự phân biệt đối xử nào, bất kể trẻ em, cha mẹ hay
người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến gì khác, nguồn gốc quốc gia, dân tộc hay
xã hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những mối tương quan
khác”.
Theo Công ước QTE được chia làm bốn nhóm quyền cơ bản:
Nhóm quyền sống còn: Quyền sống còn là quyền cơ bản của mỗi
cá nhân, tiền đề cho việc bảo vệ tất cả các quyền khác của con người.
Bảo vệ quyền này của trẻ cần dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của
trẻ. Cần phải được thực hiện ngay không chậm trễ vì trẻ rất dễ bị tổn
thương.
Có rất nhiều nguy cơ đe dọa quyền sống còn của trẻ như: gây ra
những tai nạn thương tích, những tổn thương do người lớn đem lại, thiếu
sự chăm sóc yêu thương và hỗ trợ của gia đình, bị phân biệt đối xử. Và
những nguy cơ đe dọa tới sự sống còn của trẻ em có thể xảy ra ở bất cứ
nơi nào, cộng đồng và quốc gia nào, kể cả ngay tại gia đình. Bởi vậy, tất
cả chúng ta phải có trách nhiệm đảm bảo quyền được sống ở mức cao
nhất có thể được.
Nhóm quyền bảo vệ: Quyền được bảo vệ là việc bảo vệ trẻ em
khỏi bị phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng,
xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ... Tác
động đó có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội
của trẻ em, cho nên trẻ em cần được bảo vệ.
Nhóm quyền phát triển: Là những điều kiện để đảm bảo sự phát
triển về thể chất cũng như tinh thần của trẻ em, bao gồm mọi hình thức
giáo dục (chính quy và không chính quy). Và quyền được có mức sống
9
đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội
của trẻ. Quyền được chăm sóc sức khỏe, được học tập và phát triển năng
khiếu. Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục
thể thao, du lịch...
Nhóm quyền tham gia: Là việc trẻ em được quyền nắm bắt và bày
tỏ chính kiến của bản thân. Bao gồm quyền được bày tỏ ý kiến trong mọi
vấn đề có liên quan tới bản thân, quyền được lắng nghe và được kết giao
hội họp; quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt
động xã hội.
Luật BVCS&GDTE, ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em từ
Điều 11 đến Điều 22 gồm: Quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền
được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được sống chung với cha mẹ, quyền
được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự;
quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền vui chơi giải
trí, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch; quyền được
phát triển năng khiếu; quyền có tài sản; quyền được tiếp cận với thông
tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
+ Theo nghĩa chủ quan, quyền trẻ em được hiểu là năng lực hành
vi của chủ thể, là khả năng thực hiện và bảo đảm các quyền mà pháp luật
đã dành cho trẻ em trong thực tế. Quyền trẻ em chỉ trở thành hiện thực
khi trẻ em bằng chính hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên không phải mọi trường
hợp trẻ em đều có thể tự mình thực hiện được những quyền này. Do đó,
về mặt nguyên tắc mọi trẻ em đều có người đại diện hoặc người giám hộ.
Những người này thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho trẻ khi trẻ không
có khả năng thực hiện như khi tham gia vào những quan hệ mà đòi hỏi
những điều kiện nhất định hoặc khi trẻ không có khả năng nhận thức,
điều khiển hành vi của mình…Đồng thời, quyền trẻ em còn được Nhà
nước bảo đảm thực hiện bằng việc quy định trách nhiệm của các cá nhân,
10
cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ. Với việc quy định này, quyền trẻ em vẫn
được bảo đảm thực hiện trong một số trường hợp mà trẻ em không thể
thực hiện được quyền của mình bằng hành vi của chính mình.
Quyền trẻ em chỉ được bảo đảm thực hiện khi được pháp luật ghi
nhận và mặt khác, việc ghi nhận quyền trẻ em chỉ có ý nghĩa khi những
quyền này được thực thi trong thực tế. Do đó, song song với việc ghi
nhận các quyền của trẻ em, pháp luật cần có các biện pháp bảo đảm để
các quyền này trở thành hiện thực.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em.
Quyền trẻ em đã được nhân loại thừa nhận và quy định trong pháp
luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc thực hiện
quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức và hành động của người
khác nên việc bảo vệ quyền trẻ em là rất cần thiết. Bảo vệ quyền trẻ em
chính là bảo vệ những quyền mà trẻ em được hưởng và bảo đảm cho trẻ
em được thực hiện những quyền đó.
Theo Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em định nghĩa bảo vệ
quyền trẻ em là xây dựng hệ thống và cơ chế hoạt động hiệu quả để
phòng ngừa, can thiệp và giải quyết tình trạng xâm hại, xao nhãng, bóc
lột và bạo lực đối với trẻ em. Cụ thể:
Xâm hại là những hành động cố ý gây hại hoặc có thể đe dọa gây
thiệt hại đối với sự an toàn, sự phát triển và nhân phẩm của trẻ em. Có ba
hình thức xâm hại là xâm hại về thể chất, tinh thần và tình dục.
Xao nhãng là việc không cung cấp những thứ cần thiết trong đời
sống vật chất cũng như tinh thần. Hoặc không đảm bảo sự an toàn và sự
phát triển về thể chất cho một đứa trẻ, thiếu sự quan tâm, chăm sóc trẻ.
Các hình thức xao nhãng là không chăm sóc, không quan tâm, bảo vệ
hay bỏ bê trẻ em.
Bóc lột trẻ em có nghĩa là sử dụng, tận dụng hoặc khai thác trẻ để
kiếm lời làm tăng thu nhập cho người khác và dẫn đến hành động đối xử
11
thô bạo, ác độc và nguy hiểm cho trẻ em. Có các hình thức bóc lột về
tình dục và bóc lột về kinh tế.
Bạo lực, theo tổ chức sức khỏe thế giới có ba loại: Bạo lực tự thân
tức là việc tự tử và tự gây hại cho bản thân; bạo lực đôi bên là tất cả các
hình thức xâm hại, bóc lột và xao nhãng về thể chất, tinh thần, tình dục
thông qua việc bạo lực trong gia đình và các hình thức bạo lực khác do
khác biệt về giới tính; bạo lực tập thể là do tổ chức, tập thể gây ra do sự
lạm quyền hoặc sử dụng quá đáng quyền hạn được pháp luật cho phép.
Như vậy, có thể hiểu bảo vệ quyền trẻ em là hệ thống các biện
pháp, các cơ chế, cách thức hoạt động được pháp luật quy định nhằm
đảm bảo có hiệu quả việc phòng ngừa, can thiệp, giải quyết tình trạng
trẻ em bị bỏ rơi, xao nhãng, xâm hại, bóc lột hoặc bạo lực nhằm đảm
bảo thực hiện quyền cơ bản của trẻ em trong thực tế.
Công ước QTE đã nhắc lại quyền được bảo vệ của trẻ em rằng:
“Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm
sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như
sau khi ra đời”.
Việt Nam là quốc gia sớm phê chuẩn Công ước QTE và đó là cơ
sở pháp lý của việc quy định về quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam,
cũng như bảo vệ quyền trẻ em trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nhà nước, xã hội, gia đình và
công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em…” (Điều
40). Điều 65 Hiến pháp quy định: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và
xã hội bảo bệ, chăm sóc và giáo dục”.
Bảo vệ trẻ em là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật
HN&GĐ Việt Nam: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo
vệ phụ nữ và trẻ em…”.
Luật BVCS&GDTE quy định: “Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và
12
công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan tổ chức, gia đình, cá nhân
có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng
đầu…” (Điều 5).
Việc bảo vệ như thế nào cho có hiệu quả, đảm bảo quyền của trẻ
em là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Việc bảo vệ
quyền trẻ em chính là việc quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các
cha mẹ, ông bà, anh, chị, họ hàng thân thích và toàn xã hội; là những
biện pháp trừng phạt những vi phạm đến quyền của trẻ em.
Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự
nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình,
đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm
đương được đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng.
1.2. Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
Công ước QTE ghi nhận việc nuôi con nuôi với mục đích vì quyền
lợi của trẻ em và yêu cầu các quốc gia phải: “Đảm bảo rằng việc cho
nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được tiến hành với sự cho phép bởi những
nhà chức trách có thẩm quyền theo đúng pháp luật, thủ tục được áp
dụng và trên cơ sở tất cả các thông tin đáng tin cậy, rằng xét tình trạng
của trẻ em về cha, mẹ, họ hàng, người giám hộ pháp lý thì việc nhận trẻ
em làm con nuôi là có thể được phép và rằng nếu được yêu cầu, những
người có liên quan cho biết họ đã được thông tin và đồng ý việc nhận
làm con nuôi trên cơ sở đã tham khảo ý kiến cần thiết” (Điều 21).
Tiếp đến Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định khá rõ vấn đề nuôi
con nuôi rằng: “…bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”
(Khoản 1 Điều 67).
Trên cơ sở đó, Luật BVCS&GDTE quy định: “Trẻ em, không
phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con
nuôi, con riêng, con chung, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn
13
giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám
hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo
quy định của pháp luật” (Điều 4).
Luật Nuôi con nuôi - văn bản pháp lý chuyên ngành về lĩnh vực
nuôi con nuôi đã có sự quy định khá chi tiết về nguyên tắc, điều kiện;
thẩm quyền trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi; hệ quả pháp
lý của việc nuôi con nuôi…Việc cho nhận con nuôi thực hiện với mục
đích “vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi” (Điều 2).
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con
nuôi.
Trong thế giới của chúng ta hiện nay còn rất nhiều trẻ em phải
chịu thiệt thòi và bất hạnh, trong đó có những trẻ em vì các lý do khác
nhau mà không được sống và lớn lên trong sự chăm sóc nuôi dưỡng của
cha mẹ. Trong những hoàn cảnh như vậy, để đảm bảo quyền được chăm
sóc trong gia đình của trẻ em thì giải pháp cho làm con nuôi được Nhà
nước khuyến khích và ủng hộ.
Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi quy định: “nuôi con nuôi là
việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi”. Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha
mẹ với con giữa người nuôi và con nuôi với mục đích đảm bảo cho
người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc
phù hợp với đạo đức xã hội. Và việc đảm bảo quyền của trẻ em được
thực hiện trong suốt quá trình đó thì sự bảo vệ trẻ em là việc làm cần
thiết.
Như vậy, bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi là hệ
thống các biện pháp, các cơ chế, cách thức hoạt động được pháp luật quy
định nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em được nhận làm con nuôi quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong môi trường gia
đình, từ việc xác lập, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi.
14
1.2.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi
con nuôi.
Thứ nhất, việc nuôi con nuôi bảo đảm cho trẻ được nuôi dưỡng,
yêu thương và chăm sóc từ gia đình cha mẹ nuôi như gia đình ruột thịt.
Việc nuôi con nuôi mang lại cho trẻ em những lợi ích tốt nhất, đảm bảo
môi trường phát triển tốt nhất cho trẻ được nhận nuôi, bảo vệ được các
quyền của trẻ em, đặc biệt là quyền được sống trong gia đình.
Điều 7 Công ước QTE ghi nhận “trẻ em sẽ không bị buộc phải
cách ly cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ trừ trường hợp…sự cách ly là
cần thiết cho những lợi ích tốt nhất của trẻ em”.
Khi trẻ được sống trong gia đình với môi trường sống an toàn,
lành mạnh sẽ có đầy đủ điều kiện để phát triển tư chất cũng như phát huy
khả năng của bản thân.
Việc đảm bảo quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi - quyền
được sống trong gia đình và quyền được sống trong gia đình gốc không
có gì mâu thuẫn với nhau mà có tác động bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Bởi
vì trẻ có thể không được sống trong môi trường gia đình ruột thịt của
mình vì nhiều lý do khác nhau như hoàn cảnh khách quan hoặc lỗi của
cha mẹ đối với con… Khi đó trẻ em sẽ rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
không có nơi nương tựa. Vậy việc tìm cho trẻ một gia đình để trẻ được
yêu thương chăm sóc như gia đình gốc là việc làm cần thiết, đảm bảo
quyền lợi cho trẻ.
Và việc nuôi con nuôi là tìm kiếm cho đứa trẻ một gia đình chứ
không phải là tìm cho gia đình một đứa trẻ như đã quy định trong Tuyên
bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến
việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em.
Thứ hai, hình thức nuôi con nuôi có ý nghĩa bảo vệ, chăm sóc trẻ
em tốt hơn so với các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ khác.
15
Luật BVCS&GDTE đã quy định các hình thức trợ giúp trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt gồm: Đóng góp tự nguyện bằng tiền hoặc hiện vật;
nhận làm con nuôi; nhận đỡ đầu hoặc nhận làm gia đình thay thế...(Điều
43).
So với các hình thức nuôi dưỡng khác, nuôi con nuôi là hình thức
có những ưu thế vượt trội và được khuyến khích áp dụng.
Hình thức nuôi dưỡng trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt là một hình thức phổ biến nhất để chăm sóc, bảo vệ
trẻ em. Hình thức này thường có quy mô và mang tính tập thể, đây là
điểm khác biệt lớn nhất so với hình thức nuôi con nuôi. Việc nuôi con
nuôi “mang tính chất cá nhân và riêng tư” [30, tr.70], bởi vì sự chăm
sóc, yêu thương của gia đình cha mẹ nuôi là hướng tới một trẻ em cụ thể,
đứa trẻ được sự quan tâm, chăm sóc thường xuyên, được thừa nhận là
một thành viên của gia đình. Trong một số trường hợp một người hoặc
hai người là vợ chồng có thể nhận nhiều đứa trẻ làm con nuôi, nhưng
những đứa trẻ này vẫn có tình cảm gia đình, có quan hệ cha mẹ và con,
quan hệ anh chị em với nhau. Điều đó mang lại cho đứa trẻ sự tự tin, tình
yêu thương, đảm bảo cho đứa trẻ được phát triển bình thường mà sự nuôi
dưỡng trong các cơ sở nuôi dưỡng không thể có được.
Hình thức giám hộ, hình thức này được quy định tại điều 58
BLDS, theo đó, cá nhân hoặc tổ chức được pháp luật quy định hoặc được
cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Trong quan
hệ giám hộ, người giám hộ không có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà chỉ có
nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ và việc chăm sóc này
chủ yếu bằng tài sản của người được giám hộ, giữa họ không có quan hệ
cha mẹ và con. Trong khi đó, trong quan hệ nuôi con nuôi, giữa các bên
có quan hệ cha mẹ và con và nghĩa vụ nuôi dưỡng là nghĩa vụ bắt buộc
đối với các bên.
16
Với sự yêu thương, chăm sóc của gia đình nhận nuôi có ý nghĩa
lớn đối với việc phát hiện và phát triển khả năng của trẻ. Trẻ em sống
trong gia đình mới sẽ tự tin và không bị mặc cảm với số phận. Mặt khác
điều đó có tác động tích cực đến việc hoàn thiện nhân cách của trẻ.
Thứ ba, việc nuôi con nuôi xác lập quan hệ cha mẹ con, đồng thời
xác lập quan hệ giữa người con nuôi với các thành viên trong gia đình
của cha mẹ nuôi. Con nuôi và cha mẹ nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
cha mẹ - con với nhau. Con nuôi không bị phân biệt đối xử với con đẻ.
Thứ tư, việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi cần
thực hiện thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình từ khi xác lập đến
thực hiện và chấm dứt. Việc bảo vệ trẻ em cần có sự tham gia, tích cực
theo dõi, giám sát có trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức xã hội có liên
quan. Bởi vì việc xác lập mối quan hệ cha mẹ và con không có chung
huyết thống là một quá trình lâu dài đòi hỏi sự gắn bó thật sự bằng tình
cảm, trách nhiệm giữa hai bên cha mẹ nuôi và con nuôi. Tiếp đến là việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình chung sống cũng có thể có
nhiều mâu thuẫn, xung đột và quyền trẻ em vẫn còn bị xâm phạm. Hoặc
khi chấm dứt cần bảo đảm cho trẻ được tiếp tục sống trong môi trường
an toàn, lành mạnh, đồng thời bảo vệ quyền nhân thân cũng như quyền
về tài sản cho trẻ sau khi chấm dứt quan hệ với cha mẹ nuôi.
1.2.3. Nội dung của việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi
con nuôi.
Việc bảo vệ quyền trẻ em phải được thực hiện trong toàn bộ quá
cho, nhận con nuôi; thực hiện việc nuôi con nuôi cũng như chấm dứt
việc nuôi con nuôi.
- Bảo vệ trẻ em trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi: Phải
đảm bảo cho trẻ được sống trong môi trường gia đình có tính chất an
toàn, lành mạnh, tạo điều kiện cho trẻ phát triển về thể chất, tinh thần và
phát huy được khả năng của bản thân. Trong giai đoạn xem xét giải
17
quyết việc nuôi con nuôi, cần phát hiện, ngăn chặn kịp thời những hành
vi sai phạm, xâm hại quyền lợi của trẻ em như bóc lột lao động, xâm hại
tình dục… Đảm bảo việc nhận nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt đẹp cho
người con nuôi.
Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ con phải có sự
đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thể hiện bằng sự đăng ký
thì mối quan hệ đó mới có giá trị pháp lý. Từ đó cơ quan, tổ chức xã hội
mới có cơ sở pháp lý để bảo vệ cũng như bảo đảm quyền trẻ em được
thực hiện.
- Bảo vệ trẻ em trong việc thực hiện quan hệ nuôi con nuôi: Trong
quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi, việc bảo vệ quyền trẻ em là cần
thiết nhất, như bảo vệ con nuôi không bị kì thị, phân biệt đối xử, không
bị xao nhãng hay lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để trục lợi cá nhân.
Bảo vệ trẻ em được nhận nuôi đúng với mục đích của việc nuôi con
nuôi, con nuôi được gia đình cha, mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng như gia
đình ruột thịt. Đồng thời bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ được thực hiện
đầy đủ trong gia đình cha mẹ nuôi.
Việc xác lập mối quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi và con
nuôi đồng thời xác lập quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. Do đó, pháp luật
cần quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con gồm quan hệ
giữa cha mẹ đẻ - cha mẹ nuôi - con nuôi, quan hệ giữa con nuôi và các
thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Từ đó, đảm bảo quyền và
lợi ích tốt nhất cho trẻ, đồng thời tránh xảy ra tranh chấp.
- Bảo vệ trẻ em trong việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi: Bảo
vệ trẻ em chính là bảo đảm tốt nhất về quyền nhân thân và tài sản của trẻ
em được nhận làm con nuôi. Bởi vì việc chấm dứt quan hệ cha mẹ và
con có thể làm trẻ rơi vào tình trạng quẩn bách, không nơi nương tựa,
ảnh hưởng nặng nề về tâm lý hoặc quyền đối với tài sản của trẻ bị tước
đoạt…
18
Pháp luật cần quy định giải pháp hạn chế tối đa việc chấm dứt
quan hệ nuôi con nuôi, chỉ khi nào việc chấm dứt là vì lợi ích của đứa trẻ
được nhận nuôi bị xâm phạm nghiêm trọng. Việc chấm dứt cần đảm bảo
cho đứa trẻ luôn được chăm sóc, nuôi dưỡng, luôn được sống trong môi
trường an toàn, lành mạnh. Mặt khác, căn cứ chấm dứt, đường lối giải
quyết và hệ quả pháp lý của việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi cần
được quy định rõ ràng, cụ thể tránh xảy ra tranh chấp.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền trẻ em trong
quan hệ nuôi con nuôi.
Việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán, truyền thống văn hóa dân tộc, đạo đức lối sống, sự hiểu biết và ý
thức trách nhiệm của chính người nhận nuôi, chính sách xã hội của Đảng
và Nhà nước…
Điều kiện kinh tế - xã hội: Xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã tạo ra
những cơ hội lớn, tạo tiền đề phát triển nhưng cũng tạo ra sự phân hóa
giàu nghèo rõ rệt. Với tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhu
cầu của cá nhân được đặt lên hàng đầu, và khi nhu cầu đó mang tính vật
chất, coi vật chất là cốt lõi thì những giá trị nhân văn như lòng nhân ái,
sự khoan dung, trọng tình nghĩa sẽ có nguy cơ mai một. Điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi, ảnh
hưởng trực tiếp đến thái độ và hành vi xử sự của con người đối với việc
bảo vệ trẻ em. Và những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt mong muốn được
sống trong gia đình trở thành đối tượng thỏa mãn lợi ích vật chất của
người khác trong quá trình giải quyết việc cho nhận con nuôi.
Đặc biệt trong xu thế hội nhập hiện nay, nhiều người nước ngoài
có nhu cầu xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Với tiềm lực kinh tế
mạnh hơn, với sự hỗ trợ vật chất, kỹ thuật cho các cơ sở nuôi dưỡng,
người nước ngoài nhiều khả năng nhận được trẻ em Việt Nam làm con
19
nuôi hơn chính công dân Việt Nam ở trong nước. Và có nhiều cơ sở nuôi
dưỡng, cá nhân có thẩm quyền vì lợi ích vật chất cá nhân mà cố ý giới
thiệu và giải quyết việc cho trẻ làm con nuôi nước ngoài, cản trở việc
nhận nuôi con nuôi trong nước mặc dù việc nhận nuôi trong nước là giải
pháp trước tiên đối với trẻ em không có gia đình chăm sóc. Vì vậy đã
ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ cũng như không coi trọng việc bảo vệ
quyền trẻ em.
Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa dân tộc: Việc nhận nuôi
con nuôi ảnh hưởng sâu đậm của truyền thống văn hóa dân tộc đặc biệt
là truyền thống “thương người như thể thương thân” hay “lá lành đùm lá
rách”, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc trẻ em lang thang cơ nhỡ, không
nơi nương tựa.
Tuy nhiên với sự giao lưu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa hiện
nay đã bộc lộ nhiều sự biến đổi tiêu cực ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo
vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi. Nhiều gia đình Việt Nam
vẫn giữ quan niệm “một giọt máu đào hơn ao nước lã” dẫn đến sự phân
biệt đối xử với con nuôi, không coi trọng con nuôi, đối xử không công
bằng giữa con nuôi và con đẻ. Có trường hợp lợi dụng việc nuôi con
nuôi để có nguồn lao động trong gia đình, nhằm bóc lột sức lao động, trẻ
làm con nuôi không được chăm sóc, nuôi dưỡng đúng với mục đích nuôi
con nuôi. Quyền của trẻ em bị xâm phạm và khó được phát hiện và xử lý
kịp thời.
Do đó, việc giữ gìn, duy trì những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc là một nhân tố chi phối đến việc bảo vệ trẻ em trong quan hệ nuôi
con nuôi.
Đạo đức, lối sống: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
tồn tại xã hội và thay đổi theo sự tồn tại xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường với xu thế toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, đạo đức, lối sống của con
người bị chi phối ít nhiều bởi sự tiêu cực của xã hội đương thời, nên những
20
quan niệm đạo đức, không lành mạnh, có tính vụ lợi, lối sống phóng túng, tự
do…sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ trẻ em.
Lĩnh vực nuôi con nuôi là lĩnh vực nhạy cảm, người nhận nuôi con nuôi
luôn muốn tìm được một đứa trẻ phù hợp cho nên họ có thể câu kết với một số
cá nhân, tổ chức môi giới, trung gian trong việc tìm con nuôi. Tâm lý đó tạo ra
quan hệ cung - cầu trong cơ chế thị trường và gắn liền với nó là những hành vi
trục lợi về vật chất, làm biến dạng quan hệ nuôi con nuôi.
Ý thức, trách nhiệm, tình yêu thương, sự hiểu biết của cha mẹ nuôi: Đây
là yếu tố rất quan trọng đối với việc bảo vệ trẻ em khi nhận nuôi con nuôi. Việc
con nuôi có được đảm bảo quyền lợi, được phát triển hoàn thiện về thể chất và
tư chất hay không là phụ thuộc chủ yếu ở sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ
nuôi.
Thực tế vẫn còn nhiều cá nhân, cha mẹ nuôi thiếu sự hiểu biết cũng như
chưa được tập huấn về cách làm cha mẹ, nên chưa xác định được quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ trong quan hệ với con nuôi.
Mặt khác, những mục đích có tính vụ lợi sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ
trẻ em như lợi dụng cho con làm con nuôi của người có công với cách mạng để
hưởng chính sách của Nhà nước…Đặc biệt những quan niệm không đúng có
tính chất lây lan nhận con nuôi trong quần chúng như nuôi con nuôi lập tự, nuôi
con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình, không vì mục đích chăm
sóc, nuôi dưỡng cũng như bảo đảm quyền lợi của trẻ. Đây thực chất là mang lại
cho gia đình một đứa trẻ chứ không phải là mang lại cho đứa trẻ một gia đình.
Sự quan tâm sát sao của các cấp chính quyền, của tổ chức xã hội có liên
quan trong lĩnh vực nuôi con nuôi: Đây là yếu tố cần thiết đối với việc bảm đảm
quyền trẻ em khi được nhận làm con nuôi.
Đúng vậy, trách nhiệm, sự hiểu biết về pháp luật cũng như nắm bắt tâm
lý người muốn nhận nuôi con cũng như trẻ em của các cá nhân, tổ chức có thẩm
quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi là rất quan trọng. Thực tế, nhiều trường hợp
năng lực của cán bộ còn kém, thiếu sự nhiệt tình đã hướng dẫn hời hợt, không
21
cụ thể trong quá trình giải quyết việc cho nhận con nuôi dẫn đến quyền trẻ em
vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng.
Chính sách xã hội của Nhà nước: Chính sách, đường lối chủ trương của
Nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có
việc nuôi con nuôi. Chính sách xã hội có thể tác động theo hai hướng: thúc đẩy,
khuyến khích việc nhận nuôi con nuôi hoặc hạn chế, kìm hãm việc nhận nuôi
con nuôi. Các biện pháp, chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới việc nhận nuôi
con nuôi như là: biện pháp hỗ trợ về kinh tế và phúc lợi xã hội cho người nhận
nuôi con nuôi, đặc biệt là nhận những đứa trẻ bệnh tật, khuyết tật…(ví dụ:
Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ
giúp kinh phí cho gia đình, cá nhận nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị
bỏ rơi) [ 34 ]. Thông qua đó, Nhà nước hướng tới đối tượng được bảo vệ là trẻ
em, đảm bảo cho trẻ được sống trong môi trường gia đình.
Đồng thời, chính sách xã hội thể hiện bằng các chương trình tập huấn, hỗ
trợ về phương pháp, nghiệp vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi cho cán bộ chuyên
môn cũng như cho những người muốn nhận con nuôi…
Ngoài ra, hệ thống quy phạm pháp luật cũng ảnh hưởng đến việc bảo vệ
trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi. Thực tế cho thấy, pháp luật chưa quy định
các chế tài cụ thể để xử lý nghiêm ngặt các trường hợp xâm hại trẻ em nên sự vi
phạm quyền trẻ em vẫn xảy ra.
1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con
nuôi.
Nuôi con nuôi là hình thức tốt nhất trong các hình thức chăm sóc, nuôi
dưỡng những trẻ em bị cách ly khỏi cha mẹ, gia đình huyết thống mà vẫn đảm
bảo quyền được sống trong gia đình của trẻ em. Việc nuôi con nuôi nhằm xác
lập quan hệ cha mẹ và con, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Trẻ em được nhận làm con nuôi có được sự
yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Về bản chất,