Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

So sánh quy định về quyền tác giả trong công ước berne, Hiệp định Trips, pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.05 KB, 7 trang )

SO SÁNH
QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG CÔNG ƯỚC BERNE, HIỆP ĐỊNH TRIPS
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1. Giống nhau:
Trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, do những nỗ lực của Việt Nam trong việc sửa đổi những
quy định của pháp luật cho phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế nên những quy định của
pháp luật Việt Nam tương đối giống những quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
Thứ nhất, về thời điểm phát sinh quyền tác giả. Trong các Điều ước quốc tế Việt Nam là thành
viên cũng như trong pháp luật Việt Nam đều quy định thời điểm phát sinh quyền tác giả sau khi
tác phẩm được hoàn thành. Theo đó một tác phẩm được bảo hộ khi nó được thể hiện ra bên ngoài
thông qua 1 hình thức vật chất nhất định mà không quan tâm đến nội dung, chất lượng của tác
phẩm đó ra sao, đã được công bố hay chưa.
Thứ hai, có những quy định chi tiết về điều kiện bảo hộ đối với một tác phẩm,tác giả. Theo đó
tác phẩm được bảo hộ không phải thông qua bất cứ thủ tục hành chính nào, tác phẩm được bảo
hộ đồng thời với thời điểm phát sinh quyền tác giả. Việc tác giả đăng ký quyền tác giả của mình
với các tổ chứ về sở hữu trí tuệ chỉ nhằm đảm bảo việc hơn những quyền của mình liên quan đến
tác phẩm mà không phải là căn cứ duy nhất xác định tác giả của một tác phẩm.
Thứ ba, quy định về thời hạn bảo hộ. Nhằm đảm bảo quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
cũng như đảm bảo sự công bằng hài hòa với các lợi ích xã hội, các quy định trong các điều ước
quốc tế liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả cũng như trong luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đều
quy định thời hạn bảo hộ khác nhau đối với từng loại tác phẩm.Theo đó, thời hạn bảo hộ quyền
tác giả đối một tác phẩm văn học trong công ước Berne và điều 27 Luật SHTT 2009 đều quy
định là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau thời điểm tác giả qua đời. Quy định này nhằm đảm
bảo phần nào lợi ích kinh tế của những người thừa kế của tác giả. Đồng thời một số quyền nhân
thân (hay quyền tinh thần theo quy định của Công ước Berne) thì được bảo hộ mãi mãi và không
ai có quyền xâm phậm tới những quyền này.
Thứ tư, quy định chi tiết về các loại tác phẩm được bảo hộ, các tác phẩm không được bảo hộ.
Trong các Điều ước quốc tế Việt Nam tham gia liên quan đến vấn đề này và pháp luật dân sự
Việt Nam đều sử dụng phương pháp liệt kê những tác phẩm được bảo hộ. Nhìn chung quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam khá tương thích so với các quy định của Điều ước quốc tế Việt


Nam tham gia về các tác phẩm được bảo hộ.
Bên cạnh đó, việc bảo hộ quyền tác giả chỉ đặt ra giới hạn những tác phẩm nhất định, theo đó chỉ
những tác phẩm được quy định trong văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả mới nhận được
sự bảo hộ từ chính quyền. Đồng thời không phải mọi tác phẩm đều được bảo hộ, có những tác
phẩm cũng là những sản phẩm trí tuệ, hàm chứa trong đó sự sáng tạo nhưng không được bảo hộ
do những lí do nhất định.
Thứ năm, quy định cụ thể về nội dung bảo hộ hay nội dung của quyền tác giả chủ sở hữu. Nhằm
đảm bảo quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm các điều ước quốc tế cũng như pháp luật dân
sự Việt Nam quy định một cách cụ thể, đầy đủ nội dung quyền tác giả trong các văn bản pháp
luật. Quy định nhằm tạo điều kiện để tác giả, chủ sở hữu thông qua đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình.
Thứ sáu, quy định về thực thi quyền tác giả. Việc quy định các quyền của tác giả đối với tác
phẩm sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có cơ chế thực thi nhằm bảo vệ quyền lợi tác giả trước
sự xâm phạm của các chủ thể khác. Theo đó tác giả hoặc chủ sở hữu của tác phẩm đều có quyền
khởi kiện người vi phạm tác phẩm của mình trước tòa án quốc gia thành viên.
2. Sự khác nhau:
Tiêu
chí
Bảo hộ quyền tác giả trong Công
ước Berne
Bảo hộ quyền tác giả trong Hiệp
định TRIPS
Bảo hộ quyền tác giả trong
luật Việt Nam
Phạm
vi
Một trong những nguyên tắc quan
trọng trong công ước Berne cũng
như nhiều điều ước quốc tế khác
đó là nguyên tắc đối xử quốc gia.

Do đó bảo hộ quyền tác giả không
chỉ giới hạn trong các nước thành
viên, các tổ chức, cá nhân quốc gia
thành viên là chủ sở hữu, tác giả
của tác phẩm còn được bảo hộ
bằng pháp luật của các quốc gia
thành viên Điều ước trên phạm vi
lãnh thổ của chính quốc gia đó.
Điều 3 : Mỗi Thành viên phải chấp nhận
cho các công dân của các Thành viên khác
sự đối xử không kém thiện chí hơn so với sự
đối xử của Thành viên đó đối với công dân
của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí
tuệ[3], trong đó có lưu ý tới các ngoại lệ đã
được quy định tương ứng trong Công ước
Paris (1967), Công ước Berne (1971),
Công ước Rome và Hiệp ước về sở hữu trí
tuệ đối với mạch tích hợp. Đối với những
người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm
và các tổ chức phát thanh truyền hình,
nghĩa vụ này chỉ áp dụng với các quyền
được quy định theo Hiệp định này. Bất kỳ
Thành viên nào sử dụng các quy định tại
Điều 6 Công ước Berne và khoản 1(b) Điều
16 Công ước Rome cũng phải thông báo
như đã nêu trong các điều khoản nói trên
cho Hội đồng TRIPS.
Các Thành viên chỉ có thể sử dụng các
ngoại lệ nêu tại khoản 1 liên quan đến các
thủ tục xét xử và hành chính, kể cả việc chỉ

định địa chỉ dịch vụ hoặc bổ nhiệm đại diện
trong phạm vi quyền hạn của một Thành
viên, nếu những ngoại lệ đó là cần thiết để
bảo đảm thi hành đúng các luật và quy định
không trái với các quy định của Hiệp định
Pháp luật dân sự Việt Nam,
đặt biệt là Luật SHTT chủ
yếu bảo vệ quyền lợi của
các tổ chức cá nhân trên
lãnh thổ Việt Nam.
này và nếu cách tiến hành các hoạt động đó
không là một sự hạn chế trá hình hoạt
động thương mại.
Đối
tượng
Công ước Berne liệt kê các tác
phẩm được bảo hộ mang tính chất
“mở” cho các thể loại tác phẩm
mới trong tương lai bên cạnh các
thể loại tác phẩm hiện có.
“mọi sản phẩm trong lĩnh vực văn
học, khoa học và nghệ thuật,
không phân biệt phương thức và
hình thức thể hiện”
Đối tượng được bảo hộ quyền tác
giả được ghi nhận ở nhiều văn bản
pháp luật quốc tế khác nhau, các
điều ước quốc tế này có thể bổ
sung cho nhau về loại đối tượng
được bảo hộ.

Về đối tượng được bảo hộ, theo
ghi nhận tại Điều 9, Hiệp định
TRIPs bảo hộ tất cả các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học
được vật chất hóa đã được liệt kê
tại Điều 2 của Công ước Berne
ví dụ như: như sách các bài
giảng, bài phát biểu, bài thuyết
giáo; các tác phẩm kịch, hay
nhạc kịch, các tác phẩm hoạt
cảnh và kịch câm, các bản nhạc
có lời hay không lời, các tác
phẩm điện ảnh trong đó có các
tác phẩm tương đồng được thể
hiện bằng một quy trình tương tự
quy trình điện ảnh, các tác phẩm
đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu
khắc , có thể bảo hộ một số tác
phẩm là công văn của Nhà nước
về hành pháp, tư pháp, không
bảo hộ đối với các tác phẩm
mang tính chất thời sự thuần túy,
mang tính thông tin, báo chí và
theo Điều 9.2của Hiệp định
Trips, các ý tưởng, thủ tục và
phương thức điều hành hoặc
khái niệm toán học khôngđược
bảo hộ quyền tác giả.
Ngoài ra, Hiệp định TRIPS đã có
Luật SHTT Việt Nam lại

quy định “đóng” đối với
những tác phẩm được nhà
nước thông qua việc liệt kê
cứng nhắc các thể loại tác
phẩm.
Đối tượng được bảo hộ
được quy định, liệt kê
chính thức tại một văn bản
là luật SHTT 2009.
Khoản 1 điều 22 Luật Sở
hữu trí tuệ (SHTT) quy
định: “Chương trình máy
tính (CTMT) là tập hợp
các chỉ dẫn được thể hiện
dưới dạng các lệnh, các
mã, lược đồ hoặc bất kỳ
dạng nào khác, khi gắn
vào một phương tiện mà
máy tính đọc được, có khả
năng làm cho máy tính
thực hiện được một công
việc hoặc đạt được một kết
quả cụ thể. CTMT được
bảo hộ như tác phẩm văn
học, dù được thể hiện dưới
dạng mã nguồn hay mã
máy”, đồng thời khoản 2
điều 59 Luật SHTT quy
định loại trừ cấp bằng độc
quyền sáng chế (patent)

sự bổ sung tác phẩm được bảo
hộ cho Công Ước Berne đối với
phần mềm máy tính dù dưới
dạng mã nguồn hay mã máy đều
phải được bảo hộ theo như tác
phẩm văn học theo Công ước
Berne ( Điều 10).
cho CTMT, như vậy pháp
luật Việt Nam quy định chỉ
bảo hộ quyền tác giả đối
với CTMT.
Quyền
của tác
giả
Trong Công ước Berne các quyền
tác giả được quy định thành các
quyền tinh thần và quyền kinh tế
độc lập với nhau. Đồng thời không
có quy định nào là quyền tinh
thần, quyền nào là quyền kinh tế.
Điều 6bis vá Điều 14ter quy định
về quyền tinh thần, các quyền còn
lại được hiểu là quyền kinh tế.
Công ước Berne quy định về
quyền tiếp theo đối với tác phẩm
mỹ thuật và bản thảo viết
tay( Điều 14ter).
Về các quyền được bảo hộ, Hiệp
định bảo hộ tất cả các quyền của
tác giả trừ các quyền được cấp

theo hoặc phát sinh trên cơ sở
quy định tại Điều 6 bis của Công
ước Berne. Theo Điều 6bis, đó là
các quyền tinh thần phát sinh
trên cơ sở quyền đứng tên tác giả
độc lập với quyền kinh tế của tác
giả như: quyền phản đối bất kì
sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi
hoặc nhưng vi phạm khác đối
với tác phẩm có thể làm phương
hại đến danh dự, tiếng tăm của
tác giả sau khi quyền này được
chuyển nhượng. Ngoài ra còn có
các quyền phát sinh sau khi tác
giả chết theo quy định tại khoản
2 Điều 6 bis.
Pháp luật Việt Nam lại
phân chia quyền tác giả bao
gồm quyền nhân thân và
quyền tài sản. Đồng thời
trong cả luật sân sự 2005
và luật SHTT VN đều quy
định cụ thể về quyền nhân
thân và quyền tác giả gồm
những quyền gì.
Pháp luật dân sự Việt Nam
không quy định về quyền
tiếp theo.
Điều
kiện

bảo hộ
Điều 3 CƯ Berne: Tác phẩm của
các tác giả là công dân của một
trong những nước là thành viên
của Liên hiệp hoặc cư trú ở các
quốc gia thành viên cho dù những
các tác phẩm của họ đã công bố
hay chưa; Tác phẩm của các tác
giả không phải là công dân của
một trong những nước là thành
viên của Liên hiệp mà công bố lần
đầu tiên ở một trong những nước
thành viên của Liên hiệp, hay đồng
Thừa nhận tuân thủ các điều kiện
này theo Công ước Berne về
điều kiện bảo hộ cho tác phẩm
của các tác giả.
Pháp luật Việt Nam cũng
quy định việc bảo hộ quyền
tác giả không cần thiêt phải
thực hiện bất kỳ thủ tục
hành chính nào. Tuy nhiên
tại khoản 1 Điều 8 Luật
SHTT 2009 quy định
không bảo hộ các đối
tượng sở hữu trí tuệ trái với
đạo đức xã hội, trật tự công
cộng có hại cho quốc
phòng an ninh. Như vậy
khác với các quy định

thời công bố ở một nước trong và
một nước ngoài Liên hiệp.
Các tác phẩm được bảo hộ trong
Tư pháp Việt Nam khi được ấn
định trên một hình thái vật chất
nhất định mà không cần trải qua
bất kỳ sự kiểm tra hay cho phép
nào về mặt nội dung và hình thức.
Việc bảo hộ là độc lập đối với chất
lượng hoặc giá trị kèm theo tác
phẩm. Nói một cách khác việc bảo
hộ quyền tác giả đối với một tác
phẩm không phụ thuộc vào nội
dung tác phẩm đó.
trong tư pháp quốc tế Việt
Nan, một tác phẩm có được
bảo hộ hay không còn phụ
thuộc vào nội dung tác
phẩm có trái với đạo đức
xã hội, trật tự công cộng
hay không.
Thực
thi
quyền
tác giả
Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam,
các tác giả hoặc chủ sở hữu của tác
phẩm có thể thực hiện quyền của
mình tại nhiều quốc gia thành viên
của điều ước. Đồng thời cùng với

việc đăng ký quyền tác giả, việc
yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm
quyền lợi của tác giả có thể được
tiến hành ở các cơ quan nhà nước
của nhiều quốc gia thành viên của
Điều ước.
Về các quyền của tác giả đối với
tác phẩm. Theo quy định của
Công ước tác giả được bảo hộ sẽ
có quyền đối với việc dịch, sao
chép tác phẩm trừ một số trường
hợp ngoại lệ đặc biệt các tác
phẩm có thể được phép sao chép,
miễn sao không làm phương hại
đến những quyền lợi hợp pháp
của tác giả. Tác phẩm cũng có
thể được sử dụng tự do có mục
đích một cách hợp pháp và phù
hợp với thông lệ đúng đắn như
việc sử dụng tác phẩm để trích
dẫn, minh họa phục vụ cho việc
giảng dạy. Các quy định này
được ghi nhận cụ thể từ Điều 9
đến Điều 14 công ước Berne, tại
Điều 14 của hiệp định Trips có
cụ thể đối với việc bảo hộ những
ngừơi biểu diễn, người sản xuất
bản ghi âm và các tổ chức phát
hành truyền hình với các bài biểu
diễn, bản ghi âm và chương trình

phát sóng. Hiệp định TRIPS quy
Tác giả, chủ sở hữu của tác
phẩm thực thi quyền tác giả
của mình thông qua cơ
quan có thẩm quyền ở Việt
Nam.
định người biểu diễn có quyền
ngăn cản việc thu, tái bản, phát
trên phương tiện vô tuyến
chương trình biểu diễn của mình
mà không xin phép. Người sản
xuất chương trình thu thanh có
quyền cho phép hoặc cấm tái bản
trực tiếp hoặc gián tiếp chương
trình thu thanh của mình. Các tổ
chức phát thanh truyền hình có
quyền cấm thu, tái bản và phát
lại trên phương tiện vô tuyến
chương trình truyền hình của
mình mà không xin phép.
Thời
hạn
bảo hộ
Điều 7 CƯ Berne Tuân thủ các quy định của Công
ước Berne.Điều 12 Hiệp định
TRIPS quy định: Bảo hộ suốt
đời và 50 năm sau khi tác giả
qua đời trừ đối với tác phẩm
nhiếp ảnh và các tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng thời hạn bảo hộ ít

nhất là 25 năm kể từ ngày tác
phẩm được thực hiện,còn lại các
tác phẩm khác không được tính
thời hạn bảo hộ thì sẽ được bảo
hộ ít nhất 50 năm kể từ ngày phổ
cập tác phẩm đến công chúng
hoặc tính từ ngày tác phẩm được
thực hiện.
Thời hạn bảo hộ đối với người
biểu diễn và người sản xuất
chương trình thu thanh là ít nhất
50 năm, đối với các tổ chức phát
thanh truyền hình là 20 năm tính
từ ngày cuối của năm diễn ra
chương trình biểu diễn hoặc
chương trình được thu thanh,
truyền hình.
Điều 27 Luật SHTT
Việt Nam
3. Kết luận: ( kiểu như tóm lại á)
Công ước Berne đã tạo ra một khung pháp lý, tạo cơ sở cho Việt Nam hoàn thiện hệ thống
luật về bảo hộ quyền tác giả (Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự) phù hợp với các điều ước quốc
tế, tạo ra môi trường pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện. Việc gia nhập
Công ước Berne mở ra cho các tác giả, chủ sở hữu các tác phẩm, các nhà đầu tư tài chính và dịch
vụ trong lĩnh vực này của Việt Nam có thể thuận tiện trong việc chuyển giao quyền tác giả của
các các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học có lợi thế.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS có
những quy định liên quan đến phạm vi các loại quyền SHTT rộng hơn, bao quát hơn.TRIPS đặt
ra những yêu cầu bảo hộ ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia đang phát triển hay
kém phát triển thì những yêu cầu bảo hộ SHTT này vẫn còn cao, Việt Nam cũng không là ngoại

lệ. Ngoài ra, các nước Thành viên hoàn toàn có quyền thiết lập những quy định ở mức cao hơn
miễn không trái với quy định của TRIPS. Đây cũng chính là điểm mà các nước phát triển đã lợi
dụng để dùng sức ép đối với các nước đang phát triển để ký những Hiệp định song phương theo
đó việc bảo hộ giành cho nhau luôn ở mức cao hơn quy định tối thiểu của TRIPS.
Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật SHTT có nhiều quy định chi tiết hơn so với các điều
ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả mà chúng ta tham gia. Tuy nhiên, do chúng ta là một quốc
gia phát triển nên vẫn có những quy định chưa phù hợp với quy định trong cá điều ước quốc tế,
cũng như còn nhiều thiếu sót. Thêm vào là ý thức người dân Việt Nam trong việc tôn trọng
quyền tác giả còn rất kém. Do đó bên cạnh việc tiến hành sửa đổi bổ sung những quy định của
pháp luật cho phù hợp với điều ước quốc tế, chúng ta cần phải có chiến dịch tuyên truyền thay
đổi nhận thức của người dân nhằm đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế trên thực tế.

×