Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Chức năng của tòa án trong giai đoạn xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.22 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HOÀNG GIANG

CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: luật hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả

Trần Hoàng Giang


MỤC LỤC


Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu

1

1.Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

5. Những đóng góp mới của luận văn

4

6. Kết cấu luận văn

4

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung và các qui định pháp luật

hiện hành về chức năng của tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

5

vụ án hình sự
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về chức năng của tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm chức năng của tòa án trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
1.1.2 Một số nguyên tắc có liên quan đến việc thực hiện chức
năng của tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2 Qui định của pháp luật hiện hành về chức năng của tòa
án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1 Một số qui định mang tính nguyên tắc
1.2.2 Qui định về trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố

5

5
16

23
23
27

1.2.3 Qui định về trả hồ sơ điều tra bổ sung

29


1.2.4 Qui định về thủ tục bắt đầu phiên tòa và xét hỏi

32

1.2.5 Qui định về thủ tục tranh luận, nghị án và tuyên án

35


Kết luận chƣơng 1

38

Chƣơng 2: Thực tiễn thực hiện chức năng của tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, yêu cầu của cải cách tƣ pháp

40

và một số kiến nghị
2.1 Thực tiễn thực hiện chức năng tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1.1 Thực tiễn thực hiện các qui định về nghiên cứu hồ sơ
và triệu tập người tham gia tố tụng
2.1.2 Thực tiễn thực hiện các qui định về trả hồ sơ điều tra
bổ sung
2.1.3 Thực tiễn thực hiện các qui định về thủ tục bắt đầu
phiên tòa và xét hỏi
2.1.4 Thực tiễn thực hiện các qui định về thủ tục tranh
luận, nghị án và tuyên án
* Nguyên nhân của các hạn chế, bất cập


40
40
43

45

51
59

2.2. Yêu cầu của cải cách tƣ pháp và một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của tòa án trong giai

60

đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.2.1 Cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện chức năng
của tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

60

2.2.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng của toà án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

61

hình sự
Kết luận chƣơng 2
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


65
67


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bên cạnh
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án là một trong các hệ thống cơ quan của Bộ máy Nhà nước,
được hiến định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi
biểu hiện tập trung của quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Ra đời chính thức vào ngày 13/9/1946, hệ thống Toà án của nước ta đã lần lượt
trải qua những thay đổi về tổ chức và hoạt động tương ứng với quy định của Hiến pháp
năm 1946; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà; Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960; Hiến pháp
năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001); Các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002.
Những thay đổi này mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp ứng
các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và
xây dựng đất nước từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuy nhiên, xuất
phát từ yêu cầu đặt ra của thực tiễn xét xử cũng như “yêu cầu của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án là công cụ hữu
hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ..., đòi hỏi ngành Toà án phải được cải
cách mạnh mẽ”(3) trong đó đặc biệt cần xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm
pháp lý cho Tòa án và từng chức danh tư pháp thuộc Tòa án.
Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận xét xử là chức năng duy
nhất của Tòa án. Tuy vậy trong nghiên cứu lập pháp và hoạt động áp dụng vẫn chưa có
sự đồng nhất trong việc tiếp cận vấn đề trên. Hệ quả dẫn tới trong khoa học pháp lý và

thực tế tố tụng tồn tại song song nhiều quan điểm, cách thức tiến hành còn khác nhau về
tổ chức, hoạt động xét xử của Tòa án. Điều này có thể lý giải bởi hai nguyên nhân cơ


2

bản: Ở góc độ luật thực định, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản hướng
dẫn hiện hành vẫn còn tồn tại những bất hợp lý trong phân định chức năng của các chủ
thể tiến hành tố tụng, điển hình trong đó nhiều qui định buộc Tòa án phải chịu trách
nhiệm chứng minh tội phạm và thực hiện những công việc bên phần sân công tố; hoặc
qui định chưa rõ ràng hoặc qui định chưa đẩy đủ các quyền năng để Tòa án có thể thực
hiện được đúng và đầy đủ nhất vai trò trọng tài, người phân xử. Ở góc độ các chủ thể
của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, năng lực, trách nhiệm chưa cao của một bộ phận
cán bộ thực hiện công tác tố tụng cùng với cơ chế, phương thức giải quyết án tại nhiều
cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự khoa học và đúng với qui trình tố tụng cũng là
nguyên nhân làm nảy sinh nhiều hạn chế trong công tác xét xử.
Trong xét xử thì xét xử sơ thẩm mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây đồng thời
được coi là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự. Khác biệt đặc trưng ở giai đoạn này
so với các giai đoạn trước đó là tại đây Tòa án có mặt với nhiệm vụ đưa ra các quyết
định giải quyết vụ án hình sự. Cũng chỉ ở giai đoạn này mà trung tâm là phiên tòa xét xử
mới có sự tham gia và cọ xát đầy đủ nhất giữa các bên buộc tội và gỡ tội, giữa các bên
có quyền và lợi ích đối lập trong trình bày, lập luận đánh giá chứng cứ. Quyết định giải
quyết vụ án của HĐXX (HĐXX) với đúng nhất ý nghĩa của nó là kết quả của tư duy
logic pháp lý cao độ trong xác minh, đánh giá chứng cứ từ trình bày và lập luận của các
bên để xác lập một quan điểm độc lập giải quyết vụ án. Điều đó cho thấy chỉ ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng của Tòa án mới được thể hiện rõ ràng, đầy đủ
và tập trung nhất. Tuy vậy, cùng với đó thì những điểm chưa hợp lý trong các qui định
hiện hành và những hạn chế trong thực hiện chức năng của Tòa án cũng thể hiện rõ nét
ở giai đoạn này. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho công tác nghiên cứu và hoàn thiện
các qui định pháp luật cũng như nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của Tòa án

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nghiên cứu liên quan đến chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đã được nhiều tác giả trình bày trong các công trình ở những cấp độ
khác nhau như: Luận án tiến sĩ luật học “Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự” của
tác giả Lê Tiến Châu, bài viết “Xác định chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp” đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật của
PGS.TS Trần Văn Độ, “Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” – Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy Phượng – Tạp chí Tòa án
nhân dân số 9 (5/2011), “Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải
cách tư pháp” - Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học đại học Quốc gia Hà Nội, Luật
học (2009), “Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” - Ths. Nguyễn Thị Tuyết, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 3/2011,…
Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự đang được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và với
định hướng cải cách tư pháp mà các Nghị quyết 08/NQ-TW, 49/NQ-TW của Bộ Chính
trị đã đề ra, đề tài này hiện đang và tiếp tục thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học, nhiều cán bộ công tác trong ngành tư pháp. Tuy vậy cho đến nay chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ về cơ sở lý luận, các qui định hiện
hành và thực tiễn áp dụng về chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn hướng tới các mục đích:
- Làm rõ khái niệm chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, khẳng định mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của việc nhận thức khái niệm này.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của các qui định về chức năng của Tòa án trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm, đưa ra những ý kiến đóng góp xây dựng pháp luật cũng như yêu
cầu nhận thức của những người tiến hành tố tụng.


4

Trên cơ sở mục đích của việc nghiên cứu đề tại, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
được xác định như sau:
- Các qui định pháp luật hiện hành về chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Thực tiễn thực hiện chức năng của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về pháp luật và đấu tranh phòng
chống tội phạm, chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh,…
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích có hệ thống, đầy đủ chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ cơ sở khoa học đến các qui định hiện hành và thực tiễn áp dụng.
- Phát hiện những qui định chưa thực sự phù hợp, từ đó đóng góp ý kiến hoàn
thiện pháp luật thực định về chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Phân tích các hạn chế trong thực hiện chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, đưa ra đề xuất, kiến nghị khắc phục.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được chia thành hai chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung và các qui định của pháp luật hiện hành
về chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương II: Thực tiễn thực hiện chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự, yêu cầu của cải cách tư pháp và một số kiến nghị


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm chức năng của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
* Tiếp cận chức năng của Tòa án từ phƣơng diện ngôn ngữ
Theo từ điển tiếng Việt, chức năng là “nhiệm vụ, tác dụng nói chung”(39). Như
vậy theo nghĩa chung nhất chức năng của tòa án được hiểu là nhiệm vụ, tác dụng của cơ
quan này. Như đã phân tích ở trên, Tòa án là cơ quan được hình thành và tồn tại do nhu
cầu giải quyết xung đột giữa các thành viên trong xã hội. Các xung đột này được điều
chỉnh ở nhiều mức độ khác nhau, từ cá nhân tự hòa giải đến việc cộng đồng can thiệp và
cao nhất là đưa vào quá trình tố tụng với sự phán xét của Tòa án. Tranh chấp được đưa
ra trước Tòa án có thể xuất phát từ ý chí của một trong các bên khi quan hệ phát sinh
tranh chấp đơn thuần mang tính dân sự (trong đó Nhà nước tôn trọng tự nguyện ý chí và
thỏa thuận của các bên), nhưng cũng có thể chỉ là khâu đoạn cuối cùng trong chu trình
giải quyết một vụ án hình sự do các cơ quan Nhà nước khởi tố, điều tra và đưa ra lời
buộc tội. Nhà nước đại diện cho xã hội thấy rằng hành vi sai lệch giả định của những
chủ thể trong xã hội gây nguy hiểm đến mức độ đáng kể cho xã hội, cần thiết phải được
xác định tính chân thực và xử lý đúng với mức độ nguy hiểm của nó. Như vậy, Tòa án
vốn sinh ra để giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã
hội mà Nhà nước là đại diện. Tuy nhiên, theo hướng tiếp cận này, Tòa án ngoài chức
năng giải quyết các tranh chấp còn có chức năng quản lý (Tòa án cấp trên quản lý Tòa án
cấp dưới), hướng dẫn xét xử, phòng ngừa tội phạm,... Các chức năng này tương ứng với

hoạt động của Tòa án trên các phương diện hành chính - tư pháp và phòng ngừa tội phạm.
* Tiếp cận chức năng của Tòa án từ phƣơng thức tổ chức quyền lực Nhà nƣớc
“Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001), bộ
máy Nhà nước theo đó có sự phân chia: Cơ quan lập pháp ban hành và là người giám sát tối
cao pháp luật; Cơ quan hành pháp là người tổ chức và kiểm tra thường xuyên, chủ động


6

việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội; Các cơ quan tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật “khi có những hành vi, tranh chấp làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp
luật, xâm hại đến lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại trật tự, an toàn xã hội”(30,
tr. 27)

. Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ đại diện cho cơ quan hành pháp,
còn trong hệ thống tư pháp Tòa án giữ vị trí trung tâm với chức năng trung tâm của hệ
thống là chức năng của Tòa án. Vị trí trung tâm đó được thể hiện:
Thứ nhất, xét cặn kẽ về bản chất Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra các
quyết định giải quyết vụ án. Sự tham gia của các chủ thể ở các giai đoạn trước đó (hoạt
động điều tra, truy tố, thu thập chứng cứ) hay ngay tại giai đoạn xét xử (hoạt động buộc
tội, bào chữa tại phiên tòa, tranh luận,....) đều nhằm phục vụ cho hoạt động tư duy, đánh
giá và đưa ra quyết định trên của Tòa án. Kết quả của quá trình tố tụng chính là việc Tòa
án xác định được bản chất của vụ việc để từ đó đưa ra quyết định mang tính quyền lực
Nhà nước thể hiện sự đánh giá pháp lý về vụ việc và xác định trách nhiệm của các chủ
thể liên quan.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước đưa ra các
quyết định về sinh mạng, tự do của công dân, sự tồn tại của tổ chức. Trong tố tụng hình
sự một người chỉ được coi là có tội khi đã có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Tòa án
là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt với

nội dung từ hạn chế, tước bỏ một phần các quyền công dân đến loại trừ hẳn người phạm
tội khỏi xã hội. “Bản án nghiêm minh, đúng pháp luật có hiệu lực của toà án được thi
hành trên thực tế là sự thể hiện đầy đủ sức mạnh của quyền tư pháp trong việc xử lý,
phòng ngừa các vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý, khôi phục các giá trị pháp luật, các
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại”.(30, tr. 29)
* Tiếp cận chức năng của Tòa án từ lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật
Chức năng của Nhà nước “là những phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng
nhất của Nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của Nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò
của Nhà nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng Nhà nước lại là sự biểu
hiện cụ thể của bản chất và vai trò của Nhà nước”(15). Tòa án là một cơ quan Nhà nước
bởi vậy chức năng của Tòa án được qui định bởi bản chất, vai trò của chính cơ quan này.
Có thể thấy Tòa án vốn được hình thành và tồn tại nhằm giải quyết các tranh chấp trong


7

xã hội, phương diện hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của nó là xét xử. Hiến pháp
1992 sửa đổi năm 2001, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đều khẳng định điều này:
“Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự
và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam…” (Điều 127 Hiến pháp, Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002)
Do vậy Tòa án có chức năng xét xử: Sau khi nghiên cứu hồ sơ Tòa án đưa ra các
quyết định xử lý hoặc mở phiên tòa xem xét một cách công khai, đầy đủ, toàn diện,
khách quan chứng cứ do các bên cung cấp, điều khiển tranh luận để xác định sự thật
khách quan và đưa ra quyết định giải quyết vụ án thể hiện bằng bản án hoặc các quyết
định tố tụng khác.
* Những quan điểm khác nhau về chức năng của Tòa án
- Khi xem xét từ phương diện các hoạt động Tòa án thực hiện
Tuy đều thống nhất xét xử là chức năng của Tòa án nhưng đó có phải là chức

năng duy nhất hay không thì hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Một số tác giả
cho rằng Tòa án còn có chức năng thi hành án, chức năng giáo dục và phòng ngừa tội
phạm [xem (21)]. Các quan điểm này lấy minh chứng từ các qui định của pháp luật hiện
hành. Cụ thể, đoạn cuối Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân qui định:
“Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với
Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã
hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.
Điều 256 BLTTHS qui định về trách nhiệm ra quyết định thi hành án của Tòa án
cấp sơ thẩm hoặc ủy thác cho Tòa án cùng cấp ra quyết định thi hành án; Điều 27 BLTTHS
qui định về trách nhiệm “phát hiện, khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội” của các
cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm Tòa án) và các cơ quan, tổ chức khác,...
Những quan điểm này đều chứa đựng hạt nhân hợp lý khi tiếp cận chức năng của tòa
án từ nhiều phương diện khác nhau. Tuy vậy, xét riêng trong tố tụng hình sự, giới hạn phạm
vi chỉ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì xét xử là chức năng duy nhất của Tòa án. Bởi lẽ:
Về trách nhiệm của Tòa án trong phòng ngừa tội phạm: Trong lý luận khoa học,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm là hai bộ phận gắn bó khăng khít, chặt chẽ với
nhau. Phòng ngừa xuất phát từ việc vẽ được bức tranh toàn cảnh của một, một số loại
hoặc tội phạm nói chung, lý giải nguyên nhân phát sinh để từ đó đưa ra các giải pháp áp


8

dụng trên thực tế nhằm hạn chế, ngăn ngừa tội phạm mới. Trong công tác đó thì các cơ
quan quản lý nhà nước, duy trì trật tự đóng vai trò tối quan trọng trong việc giảm thiểu
và ngăn ngừa các nguyên nhân phát sinh tội phạm. Khác biệt với nó, đấu tranh chống tội
phạm về bản chất chính là việc phát hiện và xử lý tội phạm đã tồn tại và xảy ra trên thực
tế. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó bao gồm Tòa án
với hoạt động xét xử. Thông qua quá trình xử lý, trực tiếp nắm rõ quá trình tội phạm nảy
sinh và diễn ra mà cơ quan điều tra, VKS (VKS), Tòa án, cơ quan thi hành án có thể
phát hiện được những nguyên nhân nhất định của tội phạm từ đó kiến nghị khắc phục.

Những kiến nghị khắc phục này chính là hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án nói
riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Qua đó có thể thấy với Tòa án, hoạt
động phòng ngừa tội phạm là hoạt động phái sinh từ hoạt động căn bản là xét xử. Nó
không giữ vị trí chốt yếu trong quá trình tố tụng nói chung và hoạt động của Tòa án nói
riêng. Tòa án không có chức năng chuyên tâm nghiên cứu và đưa ra được đồng bộ các
giải pháp toàn diện nhằm ngăn ngừa tội phạm mới phát sinh mà chỉ thông qua chính xét
xử để góp phần giáo dục người phạm tội, giáo dục chung cộng đồng, phát hiện các
nguyên nhân tội phạm và kiến nghị các cơ quan hữu quan. Như vậy, phòng ngừa tội phạm
không thể được coi là phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng của Tòa án, và vì vậy
không thể là chức năng của cơ quan này.
Về thi hành án: Ở đây cần có sự phân biệt hai hoạt động: hoạt động áp dụng và
hoạt động thực thi pháp luật. Về bản chất, Tòa án là thiết chế công áp dụng pháp luật
giải quyết các xung đột giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội. Quá trình
tố tụng suy cho cùng phải kết thúc khi đã có quyết định giải quyết vụ án của Tòa án có
hiệu lực pháp luật. Khi đó hoạt động áp dụng pháp luật đã chấm dứt và hoạt động thực
thi pháp luật bắt đầu được thực hiện. Đây là hai hoạt động tiếp nối liên tục do đó Tòa án
– chủ thể của hoạt động liền trước ngoài việc thực hiện công việc của mình cũng đồng
thời phải tiến hành các công việc cần thiết khác đề đảm bảo cho hoạt động liền tiếp ngay
sau đó. Hay nói cách khác để bản án, quyết định có hiệu lực được thực thi trên thực tế
Tòa án có thể đảm nhiệm một số hành vi tố tụng sau tuyên án nhằm đảm bảo sự tiếp nối
và hoạt động của cơ quan thi hành án ờ giai đoạn tiếp sau. Những hoạt động này không
thể giữ vị trí chính yếu, không thể là phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng của Tòa
án. Như vậy, tuy thực hiện một số hành vi tố tụng liên quan tới thi hành án nhưng hoàn


9

toàn không thể nói Tòa án có chức năng thi hành án.
- Khi xem xét từ khái niệm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Về khái niệm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện vẫn còn những

quan điểm chưa thống nhất về thời điểm khởi đầu và kết thúc của giai đoạn này. Sự
khác nhau đó dẫn tới sự kéo giãn hoặc co hẹp chức năng của Tòa án:
Nhóm quan điểm thứ nhất: Xét xử sơ thẩm chỉ xuất hiện và tồn tại trong phiên tòa
[xem (8), tr. 86 - 88], bởi lẽ chỉ ở tại phiên tòa mới có được đầy đủ sự tham gia và cọ xát
giữa bên buộc tội và bào chữa, giữa các bên có quyền, lợi ích đối lập và Tòa án là người
đứng ra phán xử từ các chứng cứ được xác định, thẩm tra và đánh giá tại đó. Điều đó
đồng nghĩa với việc chức năng của Tòa án chỉ được thực hiện tại phiên tòa, Tòa án với sự
thể hiện đầy đủ nhất là người duy trì trật tự tố tụng, thu nhận, thẩm tra chứng cứ, lắng
nghe lập luận của các bên từ đó xác định sự thật khách quan và đưa ra phán quyết.
Nhóm quan điểm thứ hai: Giai đoạn này bắt đầu từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử và kết thúc sau khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa(*). Chức năng của Tòa án
là xét xử chỉ đánh dấu sự tồn tại của mình kể từ thời điểm xuất hiện đối tượng chịu sự xét
xử là bị cáo. Các công việc từ khi nhận cáo trạng và thụ lý hồ sơ đến trước khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử thuộc về hoạt động tiền xét xử mà cụ thể ở đây là việc tiến hành
các công việc cần thiết để thực hiện chức năng xét xử.
Nhóm quan điểm thứ ba: Giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi tòa nhận cáo trạng
và thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc sau khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa [xem (5), (8)
tr. 86 - 88], chức năng của Tòa án được thực hiện trong suốt cả quá trình này.
Ở bình diện tổng thể có thể thấy các nhóm quan điểm trên không phủ nhận nhau
hoàn toàn mà đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý và bổ sung cho nhau trong nhìn
nhận về giai đoạn xét xử sơ thẩm và chức năng của Tòa án trong đó. Nhóm quan điểm
thứ nhất đứng ở góc độ xem xét Tòa án với trung tâm là phiên tòa, nơi hoạt động xét xử
được thực hiện đầy đủ, có sự tham gia, cọ xát của các bên đối lập, nơi sự đấu tranh của
buộc tội và bào chữa thể hiện tập trung nhất. Nhóm quan điểm thứ hai xem xét Tòa án
trong quan hệ trung tâm giữa chủ thể xét xử và đối tượng chính chịu sự xét xử trong tố
tụng hình sự là bị cáo. Chức năng của Tòa án theo đó xuất hiện, tồn tại tương ứng với sự

(*): Phỏng vấn ý kiến chuyên gia.



10

xuất hiện và tồn tại của HĐXX và bị cáo. Tuy vậy, hai cách tiếp cận này không bao hàm
được quá trình tư duy pháp lý cao độ của thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
hình sự, chánh án, phó chánh án trong trong giai đoạn trước đó. Mặt khác không phải
trong mọi trường hợp Tòa án đều quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu chỉ coi chức năng
của Tòa án sớm nhất bắt đầu được thực hiện khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì vô
hình chung đã loại bỏ quá trình tư duy, đánh giá chứng cứ ở mức độ nhất định để ra các
quyết định khác như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án. Trong các trường hợp đó
vụ án hoàn toàn có thể không được đưa ra xét xử, việc giải quyết vụ án có thể được
chấm dứt ngay, vậy Tòa án khi đó không thực hiện chức năng của mình?
Với cách nhìn nhận ở hướng mở rộng chúng tôi cho rằng nhóm quan điểm thứ ba
phù hợp hơn cả. Theo đó, giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi VKS chuyển giao cáo
trạng và hồ sơ, Tòa án thụ lý và chính thức bắt đầu thực hiện chức năng của mình:
Sau khi thụ lý, Chánh án phân công thẩm phán giải quyết vụ án. Thẩm phán tiến
hành nghiên cứu hồ sơ và ra một trong các quyết định: quyết định đưa vụ án ra xét xử, trả
hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Để đảm bảo mọi quyết định của
mình có căn cứ, hợp pháp và phù hợp với qui luật khách quan chuẩn bị xét xử có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Trong đó thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ, đánh giá toàn
bộ các tài liệu đã được cơ quan điều tra, VKS thu thập. Đồng thời cũng trong giai đoạn
này đã có sự hiện diện của bên bào chữa: bị cáo, luật sư, người bào chữa khác. Những
người này có quyền nghiên cứu hồ sơ, đưa ra yêu cầu, bổ sung tài liệu. Bên buộc tội cũng
có thể có các hoạt động nhằm thay đổi, bổ sung hoặc rút truy tố. Như vậy, mặc dù chưa
chính thức có sự đấu tranh công khai của các bên đối lập, HĐXX chưa được thành lập
nhưng giai đoạn này vẫn có sự hiện diện và thực hiện chức năng của bên buộc tội, bào
chữa. Chức năng xét xử đã bắt đầu được thực hiện với biểu hiện cụ thể là sự tiếp nhận
những bổ sung, thay đổi từ các bên, đánh giá tính xác thực và pháp lý về các tình tiết
trong vụ án cũng như xem xét qui trình tố tụng đã được thực hiện trước đó bởi cơ quan
điều tra, công tố. Mặt khác chỉ khi xem xét ở hướng mở rộng này mới đảm bảo đầy đủ vai



11

trò của các chủ thể thực hiện chức năng của Tòa án gồm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án, thư ký,…
Hơn nữa, quá trình tố tụng không phải trong mọi trường hợp đều kết thúc bằng một
phán quyết của Tòa án: bản án kết tội hoặc tuyên vô tội. Nó có thể bị tạm ngưng hoặc được
kết thúc ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bằng việc Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ vụ án. Tuy vậy, trong tất cả các trường hợp đó các quyết định này vẫn là kết
quả từ việc Tòa án thực hiện chức năng của mình. Tạm đình chỉ không chấm dứt chu trình
tố tụng, mà bản chất là tạm ngưng việc giải quyết vụ án hình sự do vấp phải những khó
khăn khách quan. Khi những khó khăn đó không còn tồn tại, quá trình tố tụng được khôi
phục đồng nghĩa với việc chức năng của Tòa án tiếp tục được thực hiện. Quyết định đình
chỉ vụ án có hiệu lực sẽ chấm dứt hoàn toàn quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều đó xảy
ra trong hai trường hợp. Thứ nhất, bản thân cơ quan công tố tự hủy bỏ lời buộc tội của mình
đưa tới hậu quả tất yếu là sự chấm dứt của xét xử. Thứ hai, khi Tòa án cho rằng cáo buộc
của cơ quan công tố đã không còn hoặc không có cơ sở tồn tại: không còn đối tượng buộc
tội (bị can đã chết); cáo buộc bị vô hiệu do hết thời hạn (hết thời hạn truy cứu TNHS) hoặc
hành vi bị truy tố trước đó đã được một Tòa án khác xử lý. Như vậy mặc dù không quyết
định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong suốt phân đoạn sau khi nhận cáo trạng và thụ lý hồ sơ
Tòa án đã thực hiện chức năng với kết quả chính là việc ra một trong bốn quyết định: Đưa
vụ án ra xét xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
* Tính chất của xét xử sơ thẩm qui định chức năng của Tòa án trong giai
đoạn này
Tính chất của xét xử sơ thẩm đồng thời cũng qui định sự khác biệt giữa chức
năng của Tòa án trong giai đoạn này với chức năng của các cơ quan tư pháp khác như
VKS, cơ quan điều tra và với chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm:
Điều tra với mục đích ban đầu là làm sáng rõ các nghi vấn về sự việc có dấu hiệu
tội phạm. Trong các trường hợp thông thường cơ quan điều tra và công tố chỉ đánh dấu

quá trình buộc tội của mình qua quyết định khởi tố bị can. Để tới được phiên tòa, các chủ


12

thể này nhất thiết phải thể hiện tuyên bố chính thức qua các quyết định: Khởi tố bị can,
kết luận điều tra và đề nghị truy tố, truy tố. Tuy buộc tội và xét xử đều được cụ thể hóa
kết quả bằng một tuyên bố nhưng sự khác biệt cơ bản ở chỗ: Trong các giai đoạn trước
xét xử tuyên bố của các chủ thể trên thông thường là sự cáo buộc dành cho một hoặc
nhiều cá nhân. Ở giai đoạn xét xử tuyên bố của Tòa án thông thường lại là một phán
quyết, mang tính quyền lực Nhà nước. Về nguyên tắc, sau phán quyết là sự thi hành còn
sau cáo buộc là sự bảo vệ cáo buộc trước quan tòa. Mặt khác, cũng chỉ tại xét xử mới có
thể đảm bảo sự hiện diện công khai và đầy đủ nhất của các bên có quyền lợi đối lập, nhân
chứng và những người liên quan tới quá trình giải quyết vụ án như giám định viên, người
phiên dịch, đại diện gia đình,… Một phiên tòa lý tưởng có thể coi như một phiên đối chất
đầy đủ và toàn diện với người duy trì là HĐXX - điều không thể có trong những giai đoạn
trước đó với những chức năng không phải chức năng xét xử của Tòa án.
Cũng tại xét xử sơ thẩm tòa án sẽ xem xét toàn diện và đầy đủ toàn bộ các vấn đề
của vụ án với một giới hạn bó buộc duy nhất là quyết định truy tố của VKS. Trong khi
đó, ở xét xử phúc thẩm tòa án một lần nữa bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo, kháng
nghị. HĐXX phúc thẩm chỉ có thể xem xét những phần không bị kháng cáo, kháng nghị
trong những trường hợp cần thiết. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, ngoài xét xử có thể
thấy còn có sự hiện diện của hoạt động xét lại bản án, quyết định của cấp sơ thẩm.
Không chỉ đánh giá về tính xác thực và pháp lý của các tình tiết của vụ án, cấp phúc
thẩm đồng thời tiến hành xem xét tính có căn cứ, hợp pháp của các quyết định, bản án
sơ thẩm. Bản án phúc thẩm có thể coi đồng thời là kết quả của xét xử: xem xét, đánh giá
các vấn đề của vụ án, đưa ra quyết định giải quyết vụ án và xét lại: quyết định, bản án
mới là sự hủy bỏ quyết định, bản án sơ thẩm. Cho tới giám đốc thẩm và tái thẩm Tòa án
hoàn toàn không còn kết thúc việc thực hiện chức năng của mình bằng một phán quyết
mà thay vào đó là bác kháng nghị hoặc “phá án”.

Từ các phân tích trên, theo chúng tôi:
Chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử với
tính chất là xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ án, bao gồm và


13

thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ và thụ lý vụ án đến khi
HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa mà đích cuối cùng là giải quyết triệt để vụ án.
Trong đó xét xử được hiểu cụ thể là việc sau khi nghiên cứu hồ sơ Tòa án đưa ra
các quyết định xử lý hoặc mở phiên tòa xem xét một cách công khai, đầy đủ, toàn diện,
khách quan chứng cứ do các bên cung cấp, điều khiển tranh luận để xác định sự thật
khách quan và đưa ra quyết định giải quyết vụ án thể hiện bằng bản án hoặc các quyết
định tố tụng khác.
Thực hiện chức năng xét xử đưa tới hậu quả pháp lý là vụ án hoặc bị đình chỉ
hoặc Tòa án đưa ra phán quyết về việc bị cáo có hay không có tội, quyết định hình phạt
và các vấn đề khác trong vụ án. Cần nhấn mạnh rằng việc vụ án có thể kết thúc ngay
trong quá trình chuẩn bị xét xử bằng việc Tòa án ra quyết định đình chỉ không có nghĩa
trong toàn bộ quá trình đó chức năng của Tòa án không phải là xét xử, mà đó hoặc là sự
phủ nhận tính có căn cứ tồn tại của lời buộc tội hoặc là sự đương nhiên chấm dứt của
quá trình tố tụng khi không còn sự cáo buộc. Quyết định tạm đình chỉ hay trả hồ sơ điều
tra bổ sung về bản chất cũng chỉ là sự tạm gián đoạn quá trình tố tụng nhằm khắc phục
các điều kiện cần thiết còn thiếu để mở phiên tòa sơ thẩm.(*)
* Nội dung chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong tố tụng hình sự chức năng của Tòa án được cụ thể hóa qua các qui định về
thẩm quyền: “quyền … trong xem xét, quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án hình
sự theo truy tố của VKS trong phạm vi chức năng được pháp luật qui định”(20). Các
thẩm quyền trên trên lại cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án và sau
cùng là các nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh tư pháp thuộc tòa án. Điều đó nghĩa
rằng chức năng của tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được pháp luật tố

tụng hình sự qui định dưới dạng các nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án trong giai đoạn này.
Về nguyên tắc, tòa án sẽ chỉ có các thẩm quyền và nhiệm vụ, quyền hạn thuộc về xét xử
hoặc các hoạt động đảm bảo xét xử, những thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn không
(*):Theo Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2011, trong tổng số
67.840 vụ/ 120.384 bị cáo tòa án sơ thẩm các cấp đã thụ lý, tòa án quyết định đình chỉ 328 vụ/
551 bị cáo (chiếm 0,5% về số vụ và 0,5% về số bị cáo); tạm đình chỉ 158 vụ/ 325 bị cáo (chiếm
0,2% về số vụ và 0,3% về số bị cáo).


14

nằm trong hoặc phát sinh từ xét xử đều không thể thuộc về tòa án. Mặt khác trong tố
tụng hình sự, chỉ có xét xử khi đã có buộc tội do vậy những thẩm quyền, nhiệm vụ và
quyền hạn của tòa án này cũng chỉ có thể xuất hiện khi đã có truy tố và chịu sự phụ
thuộc nhất định vào phạm vi truy tố.
Có thể tóm lược một số nhiệm vụ quyền hạn cơ bản của tòa án trong xét xử sơ
thẩm gồm:
* Thụ lý và nghiên cứu hồ sơ, đưa ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét
xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ, tạm đình chỉ toàn bộ vụ án hoặc đối với một,
một số bị can. Trong trường hợp quyết định đưa vụ án ra xét xử tòa án tiến hành chuẩn
bị các điều kiện cần thiết cho phiên tòa sơ thẩm như triệu tập người tham gia tố tụng,
tống đạt quyết định, áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn... Các chủ
thể thực hiện chính gồm Chánh án và thẩm phán được phân công giải quyết vụ án.
Cụ thể, sau khi thụ lý hồ sơ, chánh án phân công thẩm phán giải quyết vụ án.
Thẩm phán này tiến hành nghiên cứu hồ sơ, trước tiên cần đánh giá về tính hợp pháp
của toàn bộ quá trình tố tụng trước đó. Trường hợp cho rằng có vi phạm nghiêm trọng
nhưng có thể khắc phục sẽ yêu cầu VKS sửa chữa các sai sót đó qua quyết định trả hồ
sơ điều tra bổ sung. Tuy vậy cần khẳng định nguyên tắc: Tòa án chỉ được phép yêu cầu
cơ quan công tố đảm bảo đầy đủ các tiến trình theo luật định mà không được sử dụng
quyền này như một phương tiện nhằm giúp VKS củng cố hồ sơ buộc tội. Trường hợp

những vi phạm đó không thể khắc phục được cũng có nghĩa quá trình điều tra, truy tố đã
không đảm bảo tính hợp pháp. Sự buộc tội vì vậy không còn giá trị pháp lý và có thể là
cơ sở để đình chỉ tố tụng hoặc HĐXX tuyên vô tội tại phiên tòa.
Đồng thời trong giai đoạn này thẩm phán được phân công phải tiến hành đánh
giá tính xác thực, pháp lý các tình tiết trong vụ án, xác định những điều kiện cần thiết
cho xét xử, cơ sở để ra một trong các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc đưa vụ án
ra xét xử. Thông thường các đánh giá này chủ yếu căn cứ từ quá trình nghiên cứu hồ sơ
VKS chuyển sang nhưng trong không ít trưởng hợp thẩm phán phải tiến hành nghiên


15

cứu, đánh giá các đồ vật, tài liệu mà bị cáo, người bào chữa, các chủ thể liên quan đến
quá trình giải quyết vụ án mới cung cấp. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là kết quả của
quá trình tư duy đánh giá cả về tính xác thực và pháp lý của các tình tiết trong vụ án,
đánh giá về qui trình tố tụng trước đó của cơ quan điều tra, công tố. Qua đánh giá đó mà
thẩm phán cho rằng đã có đầy đủ các cơ sở để mở phiên tòa xét xử và thực hiện các hoạt
động đảm bảo cho xét xử như triệu tập thành phần dự phiên tòa, tống đạt, đề nghị Chánh
án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo,... Trong trường
hợp VKS rút toàn bộ truy tố chấm dứt sự buộc tội, Tòa án sẽ kết thúc quá trình thực
hiện chức năng của mình thông qua quyết định đình chỉ vụ án đồng thời cũng chấm dứt
cả quá trình tố tụng đối với vụ án đó.
* Các nhiệm vụ, quyền hạn khi xét xử tại phiên tòa: HĐXX thực hiện thủ tục bắt
đầu phiên tòa, xét hỏi và điều khiển xét hỏi, điều khiển tranh luận, nghị án và tuyên án.
Phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện tập trung và rõ nét nhất chức năng của tòa án. Tại
đây HĐXX là người điều hành, duy trì trật tự tố tụng, lắng nghe các bên và đánh giá khách
quan, toàn diện toàn bộ các vấn đề của vụ án, đưa ra phán quyết về việc có hay không có
tội, tuyên hình phạt và giải quyết các vấn đề khác của vụ án. HĐXX là người khai mạc và
kết thúc phiên tòa, xác minh sự có mặt của bị cáo, người bị hại, người làm chứng,,... các
chủ thể có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án đã triệu tập. Sự thiếu vắng một trong các

bên buộc tội hay bào chữa, thiếu vắng nhân chứng hay các chủ thể liên quan là cơ sở để
HĐXX quyết định hoãn phiên tòa khi thấy rằng việc tiếp tục xét xử không thể đảm bảo
quyền lợi của các bên cũng như xác định được sự thật của vụ án. HĐXX đồng thời tiếp
nhận những đồ vật, tài liệu bổ sung từ các bên cũng như xem xét chấp nhận hay không yêu
cầu của họ như triệu tập thêm người làm chứng, bổ sung chứng cứ mới,.... Tại phiên tòa các
bên buộc tội và bào chữa không chỉ tiến hành việc xét hỏi để làm rõ các tình tiết khách
quan, đánh giá pháp lý về chúng mà còn đấu tranh phủ nhận sự xem xét, đánh giá của bên
kia, thậm chí bên bào chữa có thể đưa ra các căn cứ phủ nhận tính hợp pháp trong quá trình
tiến hành tố tụng, thu thập chứng cứ của cơ quan điều tra và công tố. Vì vậy, ngoài việc


16

điểu khiển xét hỏi và tranh luận tòa án sẽ buộc phải tiến hành trực tiếp xét hỏi những vấn đề
cần thiết nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án là cơ sở cho quyết định, bản án.
Trong tranh luận, HĐXX không phải một bên mà là người đứng trên duy trì sự đối
đáp qua lại giữa bên buộc tội và bào chữa, giữa các bên có quyền lợi, nghĩa vụ đối ứng
nhau trong vấn đề dân sự. Tại nghị án, HĐXX là chủ thể duy nhất và phải luôn được đảm
bảo không có sự tham gia của bất kỳ ai khác trong quá trình làm việc. Cuối cùng bản án
được HĐXX tuyên đọc công khai, bị cáo có thể được trả tự do ngay tại tòa hoặc tiếp tục
chấp hành các biện pháp ngăn chặn để đảm bảo cho các quá trình sau phiên tòa sơ thẩm.
Như vậy, xuyên suốt từ khi tiếp nhận hồ sơ và thụ lý vụ án đến khi phiên tòa được
bế mạc có thể thấy nội dung cơ bản chức năng của tòa án là sự tiếp nhận chứng cứ và lập
luận từ các bên, đánh giá tính xác thực của sự việc được nêu ra, đánh giá pháp lý về các tình
tiết từ việc lắng nghe và xem xét sự trình bày, quan điểm đánh giá chứng cứ của các bên
hoặc thông qua xét hỏi trực tiếp để xác minh những vấn đề chưa rõ ràng. Từ tư duy logic
pháp lý cao độ và lấy quyết định theo đa số trong HĐXX, bản án là kết quả thể hiện rõ nét
và tập trung nhất việc thực hiện chức năng của tòa án với nội dung là sự khẳng định về tính
chân thực, pháp lý các tình tiết của sự việc, khẳng định sự vô tội hoặc kết tội và áp dụng
hình phạt đối với bị cáo, giải quyết các vấn đề khác trong vụ án.

1.1.2 Một số nguyên tắc có liên quan đến việc thực hiện chức năng của tòa
án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
* Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Đây là nguyên tắc căn bản của tố tụng hình sự nói chung và trong thực hiện chức
năng của tòa án nói riêng. Tội phạm hoặc hành vi không phải tội phạm đã tồn tại trong
quá khứ và là hiện thực khách quan. Các cơ quan tố tụng nói chung và tòa án nói riêng
giải quyết vụ án về bản chất chính là việc xác định sự thật đó, tái hiện lại một cách chân
thực, đầy đủ, toàn diện nhất để từ đó đưa ra quyết định xử lý chính xác, đúng luật và
hợp lý. Sự việc phạm tội là hiện tượng khách quan với đầy đủ các khía cạnh đa dạng và
không lặp lại hoàn toàn trong bất kỳ một sự việc phạm tội nào trước hoặc sau đó. Vì


17

vậy, tòa án phải tái hiện nó với đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa buộc tội hay gỡ tội, các
tình tiết phản ánh sự tăng nặng hay giảm nhẹ tính nguy hiểm của hành vi, các tình tiết
phản ánh nhân thân của người phạm tội,… mới có thể giải quyết được đúng đắn và triệt
để vụ án, xác định đúng mức TNHS cũng như đưa ra hình phạt đảm bảo hiệu quả và các
tác dụng của nó.
Sự thật khách quan không đồng nhất với sự việc phạm tội và hành vi phạm tội
của bị can, bị cáo. Nó có thể là sự việc phạm tội, có thể không phải; có thể có hành vi
phạm tội của bị cáo, cũng có thể có hành vi phạm tội nhưng không phải do bị can, bị cáo
thực hiện. Vì vậy trách nhiệm xác định sự thật khách quan của tòa án không đồng nghĩa
với trách nhiệm chứng minh tội phạm. Khác với cơ quan công tố, tòa án không đưa ra
lời buộc tội, không có trách nhiệm chứng minh sự cáo buộc. Mọi hành vi tố tụng của tòa
án trong chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa nếu nhằm tới mục đích buộc tội về nguyên tắc
là sự lấn sân công tố, thể hiện sự định kiến của quan tòa, tạo ra sự mất bình đẳng lớn
giữa bên buộc tội và bào chữa. Cơ quan tài phán không làm thay cơ quan công tố, không
làm thay bên bào chữa. Mọi quá trình xét hỏi, điều khiển xét hỏi hay điều khiển tranh
luận đều phải hướng tới mục đích duy nhất là xác định sự thật khách quan, cơ sở để đưa

ra phán quyết. Về nguyên tắc, tòa án chỉ được phép tiến hành các hành vi tố tụng thuộc
chức năng, chỉ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện chức năng là xét xử. Nói cách
khác tòa án chỉ có trách nhiệm chứng minh tính đúng đắn của quyết định và phán quyết
do chính cơ quan này ban hành.
* Nguyên tắc suy đoán vô tội
Một người chỉ có tội khi đã có bản án kết tội họ có hiệu lực pháp luật. Bị can, bị
cáo không phải người có tội. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Điều
đó qui định các trách nhiệm cho cơ quan tố tụng:
Cơ quan công tố khi đưa ra lời cáo buộc phải có trách nhiệm chứng minh cho sự
cáo buộc đó. Họ phải đóng vai trò tích cực trong việc làm rõ các chứng cứ, đáp lại luận


18

điểm bào chữa của bị cáo, người bào chữa mà không được quyền giữ im lặng. Tòa án
không có quyền chứng minh tội phạm mà phải xem xét công tâm các chứng cứ, luận
điểm bên buộc tội và gỡ tội đưa ra để phán quyết. Việc chứng minh tội phạm không đơn
thuần là sự lấn sân sang cơ quan công tố mà còn thể hiện sự vi phạm nguyên tắc suy
đoán vô tội của tòa án.
Do được suy đoán vô tội nên các cơ quan tố tụng phải đảm bảo đúng các thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo. Họ có quyền không bị chậm trễ đưa ra xét xử
để có thể nhanh chóng được đưa ra khỏi vòng quay tố tụng, chấm dứt các biện pháp ngăn
chặn, khôi phục các quyền cơ bản của công dân khi được tuyên vô tội. HĐXX là chủ thể
đưa ra phán quyết về việc bị cáo có hay không có tội, xác định TNHS và quyết định hình
phạt. Vì vậy bị cáo có quyền được sớm nhất chứng minh sự vô tội hoặc chứng minh tính
nguy hiểm giảm nhẹ của hành vi đã thực hiện tại phiên tòa. Các biện pháp ngăn chặn về bản
chất là sự hạn chế các điều kiện của người bị tình nghi nhằm ngăn ngừa tội phạm, là sự đảm
bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong các trường hợp cần thiết. Vì vậy việc nhanh
chóng được đưa ra xét xử cũng là quyền của bị can, bị cáo để họ có thể được sớm dỡ bỏ

các hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ phải được HĐXX giải thích theo hướng
có lợi cho bị cáo. Và vì vậy bản án hình sự chỉ có hai loại: tuyên vô tội hoặc có tội mà
không thể có một bản án “lửng lơ” như: “Từ các chứng cứ nêu và phân tích ở trên
HĐXX có đủ cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý cho rằng hành vi của các bị cáo có
dấu hiệu của tội phạm …”.
Nguyên tắc này cũng đồng thời xác định: bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh
và hoàn toàn có quyền giữ im lặng. Hành vi khai gian dối của bị cáo nhằm chối tội chỉ
có thể là cơ sở để không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải” mà không thể là một căn cứ xem xét tăng nặng TNHS.
* Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Quyền bào chữa có thể coi là tổng thể các hành vi tố tụng hướng tới việc bãi bỏ


19

sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Bảo đảm quyền bào chữa
có nội dung cơ bản là đảm bảo đầy đủ các điều kiện để bị can, bị cáo có thể tự bào chữa
hoặc nhờ người bào chữa.
Để thực hiện điều đó các cơ quan tố tụng nói chung và tòa án nói riêng:
- Phải đảm bảo việc bị can, bị cáo nhận được đầy đủ các văn bản quan trọng, liên
quan trực tiếp tới buộc tội, xét xử như cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc bị can đã nhận được cáo trạng
của VKS là điều kiện buộc phải có để tòa án thụ lý hồ sơ vụ án; việc bị cáo được nhận
quyết định vụ án ra xét xử là điều kiện tiên quyết để có thể mở phiên tòa sơ thẩm.
- Phải giải thích đầy đủ các quyền, nghĩa vụ cho bị can, bị cáo đặc biệt là quyền
có thể tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Đối với các bị can, bị cáo bị truy tố theo
khung có hình phạt cao nhất là chung thân, tử hình nếu bị can, bị cáo không mời người
bào chữa, tòa án phải có trách nhiệm chỉ định luật sư.
- Bảo đảm quyền được tiếp cận hồ sơ của người bào chữa. Người bào chữa, luật

sư có quyền tiếp cận các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra, VKS thu
thập để chứng minh tội phạm cũng như các tài liệu khác trong đó có giá trị gỡ tội, giải
quyết phần dân sự và xử lý vật chứng. Chỉ trên cơ sở đó họ mới có thể nắm bắt được
đầy đủ nội dung, tình tiết của vụ án để thực hiện quyền của mình một cách đúng đắn và
hiệu quả nhất.
- Bảo đảm quyền được xuất trình, bổ sung tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị can, bị
cáo, người bào chữa xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Sự bổ sung đó có thể ở tại
phiên tòa, cũng có thể ngay trong chuẩn bị xét xử, HĐXX và thẩm phán chủ tọa phiên
tòa có nghĩa vụ tiếp nhận, xem xét để đảm bảo giải quyết vụ án đúng đắn.
- Bảo đảm quyền được tranh luận và được đáp lại ý kiến tranh luận từ vị Đại diện
VKS tại phiên tòa. VKS khi truy tố bị can ra trước tòa án có trách nhiệm chứng minh tội
phạm, chứng minh lỗi của bị cáo tại phiên tòa. Ngược lại với quyền im lặng và không
phải chịu TNHS của bị cáo khi khai báo gian dối thì đại diện VKS tại phiên tòa phải có


20

trách nhiệm bảo vệ sự buộc tội của mình, phản bác lại lập luận của bị cáo, người bào chữa
mà không có quyền giữ im lặng. HĐXX với vai trò điều khiển tranh luận có trách nhiệm
yêu cầu đại diện VKS đáp lại các ý kiến của bên bào chữa. Nội dung bào chữa, tranh luận
của bị cáo, người bào chữa và ý kiến đáp lại, sự không đáp lại của đại diện VKS đều là
căn cứ để HĐXX xem xét, cân nhắc đưa ra phán quyết.
* Nguyên tắc độc lập của tòa án
Đây là nguyên tắc căn bản, được thừa nhận trong lịch sử tư pháp và cũng là yêu
cầu tiên quyết của nền tư pháp tiến bộ, bao gồm những nội dung cơ bản:
Tòa án phải độc lập về mặt tổ chức. Xét về khía cạnh hành chính, tòa án là một
cơ quan Nhà nước, vì vậy không thể có sự độc lập tuyệt đối. Tuy vậy, tòa án không thể
chịu sự chỉ đạo, can thiệp sâu vào công tác nghiệp vụ, hay chịu sự quản lý trực tiếp của
các cơ quan Nhà nước tại địa phương. Tòa án cấp dưới chỉ trực thuộc tòa án cấp trên về
quản lý, tòa án các cấp chỉ nằm dưới sự quản lý hành chính cao nhất của Tòa án nhân

dân tối cao. Cùng với đó, ngoài quan hệ này, mối quan hệ giữa quan hệ giữa tòa án cấp
dưới với tòa án cấp trên là quan hệ tố tụng, chịu sự điều chỉnh của BLTTHS và một số
văn bản pháp luật có liên quan.
Bản án, quyết định của tòa án có thể khác biệt, có thể trùng khớp với kết luận điều
tra, cáo trạng hay luận tội của VKS nhưng trong mọi trường hợp đó nó đều phải là kết quả
của quá trình tư duy độc lập của thẩm phán, HĐXX. Qua nghiên cứu hồ sơ, qua thẩm tra
chứng cứ công khai cũng như qua nghe các bên đối đáp, tranh luận mà thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án hay HĐXX phải tư duy độc lập để xác định sự thật khách
quan và áp dụng đúng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự,… để đưa ra quyết định,
phán quyết. Khi giải quyết vụ án, tòa án phải xác định sự bình đẳng trong quan hệ tố tụng
giữa bên buộc tội và bào chữa, từ đó mới có thể công tâm trong xét xử.
Trong nghị án các thành viên của HĐXX ngang quyền và độc lập, quyết định
được lấy theo đa số. Về nguyên tắc HĐXX sơ thẩm bao gồm thẩm phán chủ tọa phiên
tòa, thẩm phán tham gia (nếu có) và các hội thẩm. Các thành viên này thông qua xét hỏi,


×