Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Một số vấn đề pháp lý cơ bản về cho thuê tài chính ở việt nam và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.23 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN ĐĂNG HẢI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ
CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. TRƢƠNG THỊ KIM DUNG

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, TS. Trương Thị
Kim Dung đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi có thể hoàn thành được
bản luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội, các cô chú tại thư viện của trường đã trang bị cho tôi đầy đủ kiến
thức và tài liệu cần thiết để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!




MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ
PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH

6

1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH

6

1.1.1 Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính

6

1.1.1.1. Định nghĩa

6

1.1.1.2. Bản chất của hoạt động cho thuê tài chính

10


1.1.2. Các phƣơng thức cho thuê tài chính điển hình

13

1.1.2.1. Bán và cho thuê lại

13

1.1.2.2. Cho thuê tài chính bắc cầu

14

1.1.2.3. Cho thuê tài chính giáp lưng

14

1.1.2.4. Cho thuê tài chính trả góp

14

1.1.3. Những lợi ích của cho thuê tài chính

15

1.1.3.1. Đối với bên cho thuê

15

1.1.3.2. Đối với bên đi thuê


16

1.1.3.3. Đối với nhà sản xuất (nhà cung cấp thiết bị)

18

1.1.3.4. Đối với nền kinh tế

19

1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

20

1.2.1. Khái niệm pháp luật cho thuê tài chính

20

1.2.2. Những yếu tố chi phối đến pháp luật cho thuê tài chính

22

1.2.2.1. Chính sách về hoạt động cho thuê tài chính của Nhà nước

22

1.2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội

24


1.2.2.3. Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính

25

1.2.2.4. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

26


1.2.3. Một số nội dung cơ bản về pháp luật cho thuê tài chính ở Việt Nam

28

1.2.3.1. Những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính

28

1.2.3.2. Những quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính

36

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT
NAM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN

42

2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

42


2.1.2. Những thành tựu đạt đƣợc

42

2.1.2. Những hạn chế cần khắc phục

44

2.1.2.1. Về tình hình tổ chức của các công ty cho thuê tài chính

44

2.1.2.2. Về tình hình nguồn vốn của các công ty cho thuê tài chính

45

2.1.2.3. Về tình hình hoạt động cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính

47

2.1.2.4. Về tình hình thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính

49

2.2. MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHO
THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

52


2.2.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật cho thuê tài chính ở Việt
Nam

52

2.2.2. Những định hƣớng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật cho thuê tài chính ở
Việt Nam

54

2.2.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện của giao dịch cho thuê tài chính

54

2.2.2.2. Hoàn thiện một số quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính

57

2.2.2.3. Hoàn thiện một số quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính

59

2.2.2.4. Hoàn thiện một số quy định pháp luật về khuyến khích, ưu đãi đối với hoạt động
cho thuê tài chính

63

2.2.2.5. Hoàn thiện một số quy định pháp luật cho thuê tài chính khác


66

KẾT LUẬN

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Quyết định 149/QĐ-NH5

Quyết định 149/QĐ-NH5 ngày 27/05/1995 ban hành
thể lệ tín dụng thuê mua

Nghị định 64-CP

Nghị định 64/CP ngày 09/10/1995 ban hành Quy chế
tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê
tài chính tại Việt Nam

Nghị định 16/2001/NĐ-CP

Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài
chính

Nghị định 65/2005/NĐ-CP


Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-CP

Nghị định 95/2008/NĐ-CP

Nghị định 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-CP


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
"Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt
động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong
khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những ngành mũi nhọn, đồng thời
lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao
động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, cải tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những
công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những
yêu cầu để thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp" mà
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII tại Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra.
Ở Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị
trường của các doanh nghiệp, nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nhanh chóng đưa đất
nước bắt kịp tốc độ phát triển của thế giới thì nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn. Mặc dù
Nhà nước ta đã tích cực tìm mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài, chủ trương đa dạng hoá các loại hình cung ứng vốn và tập trung đầu tư cho phát
triển sản xuất kinh doanh nhưng nguồn vốn vẫn khan hiếm và là bài toán làm đau đầu

các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, khả năng tích luỹ vốn của các doanh nghiệp rất
hạn chế, khả năng tái đầu tư, đổi mới thiết bị cũng rất thấp dẫn đến chất lượng sản
phẩm kém, giá thành cao. Do đó, doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm
và cạnh tranh. Mặt khác, doanh nghiệp cũng khó vay được vốn ngân hàng bởi vốn cho
sản xuất kinh doanh là vốn trung và dài hạn trong khi ngân hàng chỉ dư thừa vốn ngắn
hạn. Hơn nữa, khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn, nếu doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ, ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn bởi đất đai, tài sản của doanh nghiệp lại do
Nhà nước nắm giữ, dây chuyền thiết bị lại lạc hậu, giá trị thanh toán thấp. Chính vì


2

những lý do đó nên số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ngày càng nhiều. Tình trạng nợ
nần kéo dài, kể cả nợ ngân sách và nợ chiếm dụng vốn lẫn nhau diễn ra khá phổ biến.
Đứng trước thực trạng này, cho thuê tài chính như một phương thuốc hữu hiệu giải
quyết căn bệnh trầm kha thiếu nguồn vốn. Đây là công cụ vừa giảm thiểu rủi ro đối với
vốn đầu tư vừa nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp,
đưa nền kinh tế sớm tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam tuy còn là một hoạt động cấp tín dụng
trung và dài hạn hết sức mới mẻ nhưng có thể thấy nhu cầu của nền kinh tế nước ta đối
với hoạt động này là rất lớn. Nhưng qua thời gian thực tế thực hiện cho thấy sự phát
triển của hoạt động này trên thị trường Việt Nam còn chậm, chưa tương xứng với vai
trò, khả năng và chưa phát huy hết những ưu điểm của nó. Một trong các nguyên nhân
chính là hành lang pháp lý của chúng ta còn thiếu, nhiều sơ hở và chưa đồng bộ. Sự
không phù hợp của pháp luật trong mối quan hệ với kinh tế nói chung và trong mối
quan hệ với hoạt động cho thuê tài chính nói riêng sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt
động này.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, qua tìm hiểu thực tế và tiến hành phân tích
đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính,
tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về cho thuê tài chính

ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình khoa học, một số bài viết nghiên cứu về
cho thuê tài chính. Ngoài một số bài báo khoa học nhỏ được đăng trên các Tạp chí
Ngân hàng, Tạp chí Luật học…, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Luận
án tiến sỹ kinh tế “Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam” năm 2005 của tác giả Vũ
Quốc Trung, Học viện Ngân hàng; Luận văn thạc sỹ kinh tế “Giải pháp mở rộng hoạt
động của các công ty cho thuê tài chính trong điều kiện hội nhập kinh tế” năm 2008
của tác giả Dương Thân Thiện, Học viện Ngân hàng… Những nghiên cứu của các tác
giả trên chủ yếu tập trung nghiên cứu khía cạnh kinh tế của hoạt động cho thuê tài


3

chính. Ngoài ra, đi sâu nghiên cứu khía cạnh pháp lý của hoạt động cho thuê tài chính
thì có thể kể tới Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về công ty cho thuê tài chính
trực thuộc tổ chức tín dụng” năm 2003 của tác giả Đinh Tiểu Khuê, Khoa Luật Đại
học Quốc gia và một số khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật… Tuy nhiên,
các công trình này chỉ tập trung vào việc nghiên cứu một số nội dung nhất định, chưa
bao quát được toàn bộ pháp luật cho thuê tài chính và đối tượng nghiên cứu đã có một
số thay đổi tại thời điểm hiện tại (khi chưa có nhiều Nghị định sửa đổi, bổ sung và các
Thông tư hướng dẫn chi tiết).
Bản luận văn này đi sâu phân tích, đánh giá những vấn đề cơ bản nhất của pháp
luật cho thuê tài chính trong bối cảnh kinh tế, pháp lý mới; xác định lại vai trò của hoạt
động cho thuê tài chính, đi sâu nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật và thực tế áp
dụng pháp luật cho thuê tài chính, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật cho
thuê tài chính phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về cho thuê tài chính và pháp luật

cho thuê tài chính; đánh giá thực trạng pháp luật cho thuê tài chính ở Việt Nam; so
sánh pháp luật cho thuê tài chính Việt Nam với mảng pháp luật tương ứng của một số
nước và thông lệ quốc tế; trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Bản luận văn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản
về cho thuê tài chính mà còn đi sâu nghiên cứu, đánh giả mảng pháp luật này và đưa ra
quan điểm riêng của tác giả về một số vấn đề cốt lõi của pháp luật cho thuê tài chính
cần hoàn thiện.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài là quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề
tài gồm: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.


4

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về hoạt
động cho thuê tài chính và thực trạng quy định pháp luật cho thuê tài chính, trên cơ sở
tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, luận văn sẽ tìm ra hướng hoàn thiện pháp luật cho
thuê tài chính ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu có các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hoạt động cho thuê tài chính và pháp luật
cho thuê tài chính;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật cho thuê tài chính, so sánh với pháp luật của
một số nước trên thế giới và thông lệ quốc tế về cho thuê tài chính, tìm ra những ưu
điểm và những hạn chế của mảng pháp luật này;
- Đưa ra những định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật cho thuê tài chính

ở Việt Nam và chỉ ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ đóng góp một số điểm mới như
sau:
- Làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, vai trò của
hoạt động cho thuê tài chính và pháp luật cho thuê tài chính.
- Pháp luật cho thuê tài chính sẽ được nghiên cứu một cách toàn diện, cả mặt
tích cực và mặt hạn chế, từ đó, xác định lại vai trò của hoạt động này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật cho thuê tài chính ở Việt Nam cho
đến thời điểm hiện tại; tập trung phân tích, bình luận và đưa ra quan điểm riêng đối với
những vấn đề về cho thuê tài chính còn có nhiều quan điểm đối lập nhau.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước và thông lệ quốc tế về cho thuê tài
chính. So sánh, đánh giá pháp luật hiện hành về cho thuê tài chính ở Việt Nam trong
với pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới và thông lệ quốc tế về cho thuê tài chính,
nhằm rút ra những kinh nghiệm trong việc hoàn thiện xây dựng pháp luật cho thuê tài
chính ở Việt Nam.


5

- Đưa ra một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật cho thuê tài chính
ở Việt Nam, góp phần không nhỏ cho sự phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Việt
Nam trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn được bố cục
bởi 2 Chương:
Chương 1: Khái quát về hoạt động cho thuê tài chính và pháp luật cho thuê tài
chính.
Chương 2: Thực trạng pháp luật cho thuê tài chính ở Việt Nam và phương
hướng hoàn thiện.



6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ
PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính
1.1.1.1. Định nghĩa
Được xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử thế giới văn minh nhân loại, cho thuê tài
chính là một loại hình rất được ưa chuộng trên thế giới, không những vì nó đáp ứng
được yêu cầu sinh hoạt tiêu dùng và sản xuất cho nền kinh tế mà còn bởi tính an toàn
và hiệu quả của nó.
Theo các tài liệu cũ, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy phiến đất có khắc chữ ở
thành phố cổ của người Summerian (gần vịnh Ba Tư) ghi nhận giao dịch cho thuê tài
sản đầu tiên được thực hiện vào năm 2010 trước Công nguyên [56, tr260]. Các thầy tu
là người giữ vai trò cho thuê và người thuê là nông dân tự do. Tài sản thời kỳ đó khá đa
đạng bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa… Nền văn minh cổ
đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã đã chứng kiến nhiều giao dịch cho thuê bất động sản và tài
sản cá nhân. Trong các giao dịch này, bên cho thuê sẽ chuyển giao quyền sử dụng tài
sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định và bên thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê.
Các giao dịch cho thuê tài sản này, ở thời cổ đại, thuộc hình thức cho thuê truyền
thống. Trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, không có sự thay đổi lớn nào
về tính chất giao dịch bởi tín dụng thuê mua hay còn gọi là cho thuê tài chính.
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nghiệp vụ về tín dụng thuê mua đã có những
bước tiến khá quan trọng, tăng cả về số lượng và chủng loại thiết bị, máy móc cho
thuê, khi đó, hoạt động có dáng dấp cho thuê tài chính bắt đầu xuất hiện. Đến đầu
những năm 50 của thế kỷ XX, hoạt động tín dụng thuê mua đã có bước tiến nhảy vọt,
được đánh dấu bằng sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các công ty cho thuê tài chính

độc lập ở Mỹ (1952), chủ yếu để tài trợ vốn cho ngành vận tải xe ngựa và đường sắt
[56, tr261]. Ở thời kỳ này, nghiệp vụ cho thuê tài chính được tiến hành trên cơ sở kết


7

hợp giữa nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ cho thuê. Chỉ trong thời gian ngắn, đầu thập
niên 60, hoạt động cho thuê tài chính đã phát triển rộng đến Châu Âu và Nhật Bản.
Chính sự phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản và Châu Âu sau chiến tranh thế giới lần
thứ II, đặc biệt là ở các nước Tây Âu đã cho thấy những tác động tích cực, có hiệu quả
của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế.
Đến thập niên 70, cho thuê tài chính đã lan rộng ở nhiều nước trên thế giới, đặc
biệt là khu vực Châu Á. Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về hoạt động cho thuê
tài chính như Hàn Quốc, Philippin. Đến những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, hoạt động
này đã chuyển sang một giai đoạn mới – giai đoạn quốc tế hóa hoạt động cho thuê tài
chính. Ở các nước phát triển, trong nhiều thập kỷ, dịch vụ cung cấp bởi các công ty cho
thuê tài chính: cho thuê ô tô, dụng cụ làm vườn, thiết bị gia dụng rất đắt khách. Ở Mỹ,
giữa thập kỷ 90, non nửa số lượng xe mới được tiêu thụ bằng con đường cho thuê tài
chính. Nhu cầu lớn về dịch vụ cho thuê tài chính trong giai đoạn này đã kéo theo sự gia
tăng số lượng của công ty cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính, đồng thời buộc các
công ty này phải mở rộng phạm vi tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi không chỉ từ ngân
hàng mà còn từ công chúng bằng cách phát hành giấy nhận nợ và tín phiếu. Điều đó
được lý giải bởi chính sự tiện lợi, hiệu quả của hình thức này.
Theo điều tra về hoạt động cho thuê tài chính của Công ty tài chính quốc tế IFC
đối với 25 nước đang phát triển và 12 nước phát triển thì chỉ có 19 nước có các định
nghĩa cụ thể trong Luật về cho thuê tài chính và các lĩnh vực liên quan. Trong số 19
nước có định nghĩa thì có 9 nước đưa các định nghĩa này vào trong “Luật cho thuê tài
chính” và 10 nước còn lại đưa định nghĩa này vào trong các Luật thuế hay các hướng
dẫn do nhiều cơ quan của Chính phủ ban hành. Trong 9 nước có “Luật cho thuê tài
chính” thì chỉ có 1 nước là nước phát triển (Pháp); 8 nước kia là các nước đang phát

triển và việc xây dựng các luật này chủ yếu là để thúc đẩy ngành dịch vụ này phát triển
một cách có trật tự theo ý muốn của từng Chính phủ của mỗi nước. Có thể khái quát
một số quan điểm của các tổ chức nước ngoài về cho thuê tài chính như sau:
- Theo quan điểm của Societe Generale Bank: Cho thuê tài chính là một thỏa
thuận trong đó bên cho thuê chuyển cho bên đi thuê quyền sử dụng một loại tài sản


8

trong một thời gian thỏa thuận để đổi lấy phí cho thuê. Trong suốt thời hạn hợp đồng,
quyền sở hữu tài sản không chuyển cho bên thuê nhưng bên thuê phải chịu trách nhiệm
giữ gìn tài sản đó [4, tr5].
- Theo quan điểm của Công ty tài chính quốc tế IFC - International Finance
Corporation: Cho thuê tài chính là một hoạt động mà bên cho thuê cho bên đi thuê thuê
một tài sản cụ thể nào đó do bên đi thuê chọn lựa từ một nhà sản xuất hay người bán tài
sản này. Bên đi thuê có toàn quyền giữ và sử dụng đối với tài sản này trong một thời
gian nhất định khi trả tiền thuê tài sản [4, tr5].
- Theo quan điểm của Ủy ban về chuẩn mực kế toán quốc tế IASC International Accounting Standards Committee: Cho thuê tài chính là loại cho thuê có
khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở
hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng cũng có thể được chuyển giao hoặc không
được chuyển giao [4, tr5].
Ở Việt Nam, hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện vào năm 1995, muộn hơn
nhiều so với các nước khác trên thế giới. Khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên
được đề cập tại Điều 1 Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê
tài chính tại Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 64/CP ngày 09/10/1995 của
Chính Phủ): “Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc - thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc - thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với
tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời
hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi

kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê
tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.” Tuy nhiên, trước khi
có sự ra đời của Nghị định 64/CP, tại Quyết định số 149/QĐ-NH5 ngày 27/05/1995 về
việc ban hành Thể lệ tín dụng thuê mua đã ghi nhận khái niệm về tín dụng thuê mua,
theo đó, tín dụng thuê mua được hiểu là: “hoạt động cho thuê máy móc thiết bị và các
động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo
yêu cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt


9

thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn
thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp
tục thuê tài sản thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê
mua”. Xét về bản chất, tín dụng thuê mua chỉ là một cách gọi khác của cho thuê tài
chính, khi trong định nghĩa của cả hai hoạt động này đều có những tiêu chí rất đặc
trưng của hoạt động cho thuê tài chính, ví dụ như: không được quyền hủy ngang hợp
đồng; khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được ưu tiên mua lại tài sản thuê…
Hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Điều 113) và Điều 1 Nghị định
số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính (đã được
sửa đổi, bổ sung tại Điều 1, Khoản 1 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP) định nghĩa về loại
giao dịch này rất chi tiết:
“Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở
hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và
nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.
Một giao dịch cho thuê tài chính phải thỏa mãn một trong những điều kiện sau
đây:

a) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên;
b) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua lại
tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm
mua lại;
c) Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản thuê;
d) Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất
phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”


10

(xem thêm “Phụ lục 01: Tóm tắt những tiêu chuẩn về giao dịch cho thuê tài chính
tại một số quốc gia” để có cái nhìn tổng quan hơn về khái niệm cho thuê tài chính của
Việt Nam và của một số quốc gia trên thế giới)
Có thể nói, đây là một định nghĩa về cho thuê tài chính đầy đủ và chi tiết nhất.
So với các định nghĩa đã đề cập trên đây, định nghĩa này vừa khái quát một cách đầy
đủ nhất về hoạt động cho thuê tài chính, vừa nêu ra được những tiêu chí rõ ràng để
phân biệt hoạt động cho thuê tài chính với các hoạt động khác. Hoạt động cho thuê tài
chính khác với các hoạt động cho thuê tài sản và các hoạt động tín dụng khác bởi các
đặc trưng cơ bản của nó.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
Thứ nhất, cho thuê tài chính mang tính chất của hoạt động cho thuê tài sản
thông thường
Thực chất trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ vốn cho bên
thuê bằng cách bỏ tiền mua tài sản mà bên thuê yêu cầu. Công ty cho thuê tài chính
giành quyền khai thác giá trị sử dụng tài sản đó cho bên thuê nhưng vẫn giữ lại quyền
sở hữu đối với tài sản cho thuê. Ở đây, bên thuê chỉ có quyền khai thác giá trị sử dụng
tài sản chứ không có quyền sở hữu tài sản. Chính sự tách rời giữa quyền sử dụng và

quyền sở hữu tài sản trong các giao dịch này cho thấy cho thuê tài chính có một số dấu
hiệu giống với cho thuê tài sản thông thường.
Tuy nhiên, cho thuê tài chính lại khác với cho thuê tài sản thông thường (hoặc
cho thuê vận hành) ở rất nhiều điểm. Trong quan hệ cho thuê tài chính, tổng số tiền bên
thuê đồng ý trả cho bên cho thuê trong suốt thời hạn thuê ít nhất phải bằng hoặc lớn
hơn giá trị của tài sản thuê, tức là tối thiểu phải tương đương với vốn đầu tư vào tài
sản, bên thuê có quyền lựa chọn hoặc có nghĩa vụ mua lại tài sản thuê khi hết hạn hợp
đồng. Trường hợp mua lại tài sản thuê, giá mua thường tương đương hoặc nhỏ hơn giá
trị còn lại của tài sản. Trong quan hệ cho thuê tài sản thông thường, bên thuê không
phải trả tổng số tiền thuê tương đương hoặc vượt quá giá trị của tái sản thuê. Tiền thuê
thường được xác định căn cứ vào nhiều yếu tố như công suất của máy, nhu cầu thị
trường đối với sản phẩm sản xuất ra… Ngoài ra, quyền lựa chọn hoặc nghĩa vụ mua lại


11

tài sản thuê không được đặt ra trong loại giao dịch này (xem thêm “Phụ lục 03: Sơ đồ
phân biệt giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành” và “Phụ lục 04: Bảng
phân biệt giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành”).
Thứ hai, cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng
Cho thuê tài chính là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng và
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong
đó bên cho vay chuyển tiếp tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định
theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên
đi vay khi đến hạn thanh toán.
Trong một giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản thực
cho bên thuê sử dụng. Trong quá trình sử dụng tài sản, bên thuê phải thanh toán tiền
thuê định kỳ cho đến khi hết hạn hợp đồng, khoản tiền thuê này cũng bao gồm hai
phần: phần vốn gốc và lãi. Đặc biệt, đối với các hợp đồng cho thuê tài chính thanh toán
một phần sau khi chấm dứt hợp đồng thuê, tiền lãi được thanh toán đầy đủ trong thời

gian sử dụng vốn, nhưng phần vốn gốc chưa hoàn trả đầy đủ.
Trường hợp này có ba cách giải quyết và được thực hiện trong hợp đồng:
- Bên thuê đồng ý mua tài sản: phần vốn gốc đã được hoàn trả dưới dạng tiền
thanh toán mua tài sản.
- Bên thuê muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng thanh
toán tiền thuê trong thời gian hợp đồng cho thuê được gia hạn.
- Bên thuê không muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc lại được hoàn trả dưới
dạng hiện vật, tức là tài sản thuê mua.
Có thể thấy rằng, trong giao dịch cho thuê tài chính, nguyên tắc hoàn trả của tín
dụng luôn luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản còn lại thường lớn hơn giá trị
tài sản ban đầu. Đây chính là sự trao đổi tài sản không ngang giá – bản chất của một
quan hệ tín dụng. Việc quay trở về điểm xuất phát của tín dụng không phải như lúc đã
nhượng đi mà là một giá trị lớn hơn – đó gọi là tiền lãi mà người đi vay được hưởng
ngoài giá trị ban đầu của tín dụng.


12

Tuy nhiên, khi so sánh giữa hoạt động cho thuê tài chính và cấp tín dụng để mua
tài sản, chúng ta có thấy giữa chúng có những điểm không tương đồng. Điểm khác biệt
cơ bản giữa hai hoạt động này là ở quyền sở hữu tài sản được hình thành từ nguồn vốn
tài trợ. Trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho thuê giữ lại quyền sở hữu tài sản
thuê và thu tiền trích khấu hao tài sản thuê. Khi hết thời hạn hợp đồng, bên thuê có
quyền lựa chọn giữa việc tiếp tục thuê hoặc mua lại tài sản theo giá trị còn lại của tài
sản. Trong hoạt động cấp tín dụng để mua tài sản, bên đi vay không những có quyền sử
dụng mà cả quyền sở hữu tài sản hình thành từ vốn vay và có quyền giữ lại tiền trích
khấu hao tài sản đó; còn bên cho vay có quyền đòi lại cả gốc và lãi vốn cho vay.
Hoạt động cho thuê tài chính còn có những lợi thế nhất định so với hoạt động
cấp tín dụng để mua tài sản. Một là, đối với cho thuê tài chính, tài sản thuê thường
cũng chính là tài sản bảo đảm cho giao dịch cho thuê tài chính; trong khi đối với cấp

tín dụng để mua tài sản, người đi vay thường phải có tài sản khác để thế chấp vốn vay.
Hai là, trong cho thuê tài chính, kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê nếu muốn có thể
chuyển giao lại tài sản đã thuê cho bên cho thuê cùng tất cả những rủi ro do sự lỗi thời
(hao mòn vô hình) của tài sản thuê đem lại. Ngược lại, ở các hoạt động cấp tín dụng để
mua máy móc, thiết bị, người đi vay, với tư cách là chủ sở hữu tài sản hình thành từ
vốn vay, phải tự mình gánh chịu tất cả rủi ro do sự mất giá của máy móc, thiết bị đó.
Ba là, trong các giao kết cho thuê tài chính, vấn đề đặt cọc, bảo lãnh thường được đưa
vào điều khoản tùy nghi mà hai bên có thể thỏa thuận. Bên cho thuê có thể yêu cầu một
khoản tiền đặt cọc nhỏ hoặc thậm chí không yêu cầu tiền đặt cọc, nhưng sẽ tài trợ toàn
bộ chi phí để mua được tài sản đó cho khách hàng của mình thuê. Khoản tiền này dự
tính sẽ được bên thuê trả dần trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Bên thuê
thường lựa chọn mua tài sản với giá bằng giá trị còn lại của tài sản khi kết thúc hợp
đồng thuê. Trong khi đó, khi ký kết hợp đồng tín dụng, bên vay thường phải có tài sản
làm đảm bảo nợ hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba (xem thêm “Phụ lục 02: Sơ đồ quy
trình cho thuê tài chính” để hiểu rõ hơn các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài
chính).
Thứ ba, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn


13

Khác với các hình thức cấp tín dụng như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu hoặc bao
thanh toán, cho thuê tài chính luôn là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, tức là
thời hạn thuê phải từ 1 năm trở lên. Đặc điểm này xuất phát từ lý do sau: Trong giao
dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài sản và vì thế họ
phải là người quản lý tài sản cho thuê. Để hợp thức hóa hành vi này, bên cho thuê phải
tiến hành các thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, đăng ký tài sản
giao dịch đảm bảo… điều này sẽ phát sinh nhiều loại chi phí. Nếu tài trợ bằng những
tài sản có giá trị thấp và thời gian ngắn sẽ khó thực hiện được vì chi phí quản lý sẽ rất
cao và bên đi thuê sẽ khó có thể chấp nhận. Ngược lại, nếu tài trợ trung và dài hạn với

những tài sản có giá trị cao, tuổi thọ cao thì tỉ trọng chi phí quản lý tính trên giá trị tài
sản sẽ thấp hơn. Như vậy, tài trợ trung và dài hạn dưới hình thức cho thuê tài chính là
một yêu cầu khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong nền kinh
tế. Với thời gian thuê trung và dài hạn, bên thuê có khả năng trả tiền thuê dễ dàng hơn
so với trường hợp thuê ngắn hạn.
Đặc điểm tín dụng trung và dài hạn này của cho thuê tài chính ảnh hưởng đến
khả năng huy động vốn của công ty cho thuê tài chính. Công ty cho thuê tài chính sẽ
không được sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để mua tài sản cho thuê tài chính.
1.1.2. Các phƣơng thức cho thuê tài chính điển hình
Để thực hiện một giao dịch cho thuê tài chính, người ta có thể sử dụng nhiều
phương thức khác nhau nhằm đảm bảo sự thuận tiện và mang lại những lợi ích tốt nhất
cho cả bên thuê và bên cho thuê. Dưới đây là một số phương thức cho thuê tài chính
điển hình được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước.
1.1.2.1. Bán và cho thuê lại
Người sở hữu tài sản bán tài sản cho một công ty cho thuê tài chính và đồng thời
ký kết một thỏa ước thuê lại tài sản đó trong một thời gian nhất định dưới dạng một
hợp đồng thuê tài chính. Bán và cho thuê lại là một phương thức cho thuê tài chính mà
trong đó bên cho thuê tài sản giao lại tài sản cho người bán (bên đi thuê) sử dụng thông
qua hợp đồng cho thuê tài chính hoàn trả toàn bộ hay hoàn trả từng phần. Bên đi thuê
(người đã bán tài sản của mình rồi thuê lại) nhận được một số tiền cho việc bán tài sản


14

nhưng đồng thời vẫn không mất quyền sử dụng đối với tài sản đó mặc dù không còn
quyền sở hữu tài sản này. Tài sản dùng để giao dịch trong phương thức cho thuê tài
chính này có thể là thiết bị mới hay thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn còn giá trị sử
dụng hữu ích.
Các giao dịch bán rồi cho thuê lại ngoài mục đích giải quyết nhu cầu lưu động
cho người bán tài sản còn được sử dụng để tài trợ vốn trung, dài hạn đối với những tài

sản trước đó đã được mua bằng nguồn tiền vay hay được dùng để làm giảm chi phí huy
động vốn, do đó hình thức này có mức lãi suất thấp hơn các hình thức sử dụng vốn
khác. Đây là hình thức giao dịch có sức cạnh tranh cao trong ngành kinh doanh bất
động sản (xem thêm “Phụ lục 05: Sơ đồ phương thức bán và cho thuê lại”).
1.1.2.2. Cho thuê tài chính bắc cầu
Cho thuê tài chính hợp tác là phương thức cho thuê tài chính mà trong đó bên
cho thuê đi vay phần lớn (có khi đến 80%) chi phí mua sắm tài sản cho thuê từ một
hoặc nhiều bên cho vay với việc thế chấp tài sản cho thuê để đảm bảo số tiền vay. Tiền
cho thuê nhận được trong từng định kỳ hạn nợ là nguồn tiền dùng để trả nợ cho các tổ
chức tài chính, tín dụng đã cho bên cho thuê tài sản vay vốn. Hình thức này giúp bên
cho thuê mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn tự có của mình (xem
thêm “Phụ lục 06: Sơ đồ phương thức cho thuê tài chính bắc cầu”).
1.1.2.3. Cho thuê tài chính giáp lưng
Cho thuê tài chính giáp lưng là một phương thức cho thuê tài chính mà bên đi
thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà bên đi thuê thứ nhất đã thuê từ
bên cho thuê thông qua sự đồng ý của bên cho thuê bằng văn bản. Hình thức này giúp
bên đi thuê tận dụng được khoản thời gian nhàn rỗi của máy móc, thiết bị trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình để cho thuê lại tài sản nhằm tận dụng tối đa công
suất sử dụng của máy móc, thiết bị để làm giảm chi phí thuê tài sản khi họ thu được
một khoản phí khi cho thuê lại tài sản đang thuê (xem thêm “Phụ lục 07: Sơ đồ
phương thức cho thuê tài chính giáp lưng”).
1.1.2.4. Cho thuê tài chính trả góp


15

Cho thuê tài chính trả góp là một hình thức tài trợ thông qua mua trả góp tài sản
trong một khoảng thời gian ấn định thường là từ 1 đến 5 năm, được áp dụng chủ yếu
cho trường hợp người mua không có tài sản bảo đảm tiền vay nhưng đôi khi áp dụng
đối với cả người mua có tài sản bảo đảm tiền vay. Hợp đồng được thiết lập giữa người

mua với người sở hữu tài sản là nhà sản xuất hay định chế tài chính buộc người mua
phải thanh toán ngay một khoản tiền bằng 25 – 30% giá trị của tài sản. Số tiền còn lại
được thanh toán làm nhiều kỳ vào các thời điểm là các kỳ hạn nợ đã được ấn định
trước. Khi người mua đã trả hết gốc và lãi phải trả cho tài sản mua trả góp thì người
bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người mua.
Mặc dù hình thức này có thuận lợi cho người mua là có ngay tài sản để sử dụng
nhưng họ cũng có bất lợi ở chỗ họ phải trả chi phí cao do không được hưởng phần
chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt. Mặt khác, lãi suất trong cho thuê tài chính
trả góp thường là cao hơn lãi suất vay ngân hàng (xem thêm “Phụ lục 08: Sơ đồ
phương thức cho thuê tài chính trả góp”).
1.1.3. Những lợi ích của hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho các bên tham
gia nói riêng mà còn đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung.
1.1.3.1. Đối với bên cho thuê:
- Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất những
rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản luôn thuộc về bên
cho thuê, do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn của tài sản thuê (chẳng hạn
bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể…), bên cho thuê hoàn toàn có khả
năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức. Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ
được thể hiện bằng hiện vật (tài sản thuê) nên không bị ảnh hưởng của lạm phát. Bên
cho thuê cũng không phải chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản hoặc do tác
động của điều kiện khách quan.
- Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay được sử dụng đúng mục
đích như trong hợp đồng, vì dưới hình thức này, bên cho thuê trực tiếp mua máy móc
thiết bị từ nhà cung cấp (thường là sau khi bên đi thuê đã lựa chọn) và do đó bên đi


16

thuê không có cơ hội sử dụng vốn được tài trợ vào mục đích khác. Qua đó, bên cho

thuê đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ bên đi thuê.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng hoá
việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa phương.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê linh hoạt trong kinh doanh. Trong thời
gian tài trợ, vốn của bên cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho thuê, số tiền này
sẽ được thu hồi dần và cho phép bên cho thuê có thể sử dụng vốn đó để tái đầu tư vào
những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và giữ vững được nhịp độ hoạt
động của mình.
- Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh. Trong
giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là nhà tài trợ, cung cấp
vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất thiết phải chịu trách
nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ.
1.1.3.2. Đối với bên thuê:
- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về
nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất của doanh
nghiệp có thể được đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi
phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp này thường gặp rất nhiều khó khăn về
nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu đi vay theo các hình thức tín dụng thông thường, các
doanh nghiệp này lại thiếu tài sản thế chấp. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh
nghiệp có thể từ tay không mà vẫn mua được máy móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của
sản xuất và sau một số năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định.
- Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các tổ chức tài
chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính. Các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập,
chưa có uy tín với các tổ chức tài chính thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống
rủi ro nên thường bị các tổ chức này từ chối cho vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho
thuê tài chính là bên cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuê và họ có



17

thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê.
Vì vậy, các công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của
khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế.
Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính là các loại máy móc,
thiết bị nên các công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động rộng rãi, có
nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), có đội ngũ cán bộ
hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp cho các doanh nghiệp các
loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho các doanh nghiệp so với trường
hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời, thông qua cho thuê tài chính mà doanh
nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhượng các máy móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều
này phải đi đôi với việc phát triển một thị trường công nghệ cũ và mới thông qua các
trung gian là các công ty cho thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị,
công nghệ nên các công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho
phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trường khác nhau.
- Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn
trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh nghiệp có
thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư
cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt
động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Mặt khác, nếu doanh
nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có nhu cầu về thiết bị và tài sản thì
vẫn có thể thực hiện được thông qua mua tài sản cố định.
- Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư đáp ứng
kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn khác, cho thuê tài
chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều kiện tài trợ cũng đơn giản hơn.
Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản thiết bị, hay đàm phán, thoả
thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công
ty cho thuê tài chính tài trợ nên điều này cho phép bên thuê rút ngắn thời gian tiến hành
đầu tư thiết bị. Mặt khác, nếu tài sản cho thuê là tài sản của công ty cho thuê tài chính

thì các thông số kỹ thuật của thiết bị, các ý kiến tư vấn cho những vấn đề phát sinh


18

trong đầu tư được các công ty này đưa ra phục vụ khách hàng thường rất hữu ích. Hiện
nay, các công ty cho thuê tài chính có xu hướng hoạt động chuyên môn hoá sâu trong
lĩnh vực tài sản cho thuê thường tổ chức cung ứng các loại thiết bị theo phương thức
khép kín (thiết bị gắn liền với phụ tùng, linh kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho
khách hàng). Điều này giúp bên thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh
doanh.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ
phát triển của công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ hiện nay, việc thay
đổi thiết bị, máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới, góp phần sản xuất ra
những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường là một vấn đề sống
còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhưng đây cũng là một khó khăn đối với nhà sản
xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia
đang phát triển hoặc đối với các doanh nghiệp phải tự xuất vốn hay vay vốn để đầu tư.
Cho thuê tài chính có thể góp phần vào việc giải bài toán về vốn và công nghệ này.
- Số tiền thuê mà bên thuê phải trả được tính vào chi phí kinh doanh. Do đó,
chúng làm giảm số thuế mà họ phải trả. Sau khi hợp đồng cho thuê kết thúc, nếu bên
thuê được quyền chọn mua tài sản thì giá mua thường thấp hơn so với giá trị còn lại
của tài sản trong khi nghĩa vụ trả nợ đã hết.
1.1.3.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị)
Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của mình trên
thị trường đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp
thiết bị) có vốn lưu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhưng trên thực tế, không phải tất cả các chủ thể muốn mua thiết bị đều có đủ khả
năng về tài chính hoặc trong trường hợp có doanh nghiệp đủ khả năng về tài chính
nhưng họ không muốn đầu tư số tiền này vào việc mua tài sản cố định mà muốn giữ

làm vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, thông qua
hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê trong hợp đồng này sẽ mua tài sản thuê
để cho thuê và trả toàn bộ số tiền tương ứng với giá trị tài sản.


19

- Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết
bị) sẽ tìm hiểu được nhu cầu thiết yếu của bản thân người sử dụng thiết bị, từ đó có kế
hoạch đầu tư đúng đắn.
- Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) có
thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận được lời khuyên nên áp dụng trình độ
công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị trường và môi trường kinh tế
vĩ mô.
1.1.3.4. Đối với nền kinh tế.
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể có liên
quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Điều này thể
hiện:
- Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền kinh
tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình
thức khác nên có thể khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân và nhất là các tổ chức tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt
động cho thuê tài chính đã huy động được những nguồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ nền
kinh tế, thậm chí thu hút vốn đầu tư từ các lĩnh vực đầu tư khác. Mặt khác, trong điều
kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho quốc gia thu hút
các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại máy móc, tài sản cho thuê
mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài này
không làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia nhận được tài sản cho thuê.
- Cho thuê tài chính thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tài
chính. Ở nhiều quốc gia, sự phát triển của cho thuê tài chính đã dẫn tới việc giảm các

chi phí, đồng thời tăng các nguồn vốn cho hoạt động đầu tư.
- Cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực cho sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều không đáp ứng được một
số điều kiện nhất định khi có ý định vay tín dụng tại ngân hàng. Đồng thời, nó góp
phần thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Thông
qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên


20

tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản
xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả đối với các nước có nền
kinh tế phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp…, cho thuê tài chính vẫn phát huy
tác dụng, cập nhật khoa học công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các quốc gia
chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng
của hoạt dộng cho thuê tài chính còn mạnh mẽ hơn nữa, nhất là trong thời đại ngày
nay, việc đầu tư công nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với các nền
kinh tế chậm phát triển gặp rất nhiều khó khăn. Nếu có chính sách đúng đắn, hoạt động
cho thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng.
Bên cạnh những lợi thế, cho thuê tài chính cũng có những hạn chế nhất định.
Điều này lý giải tại sao hoạt động cho thuê tài chính không thể thay thế hoàn toàn cho
các hoạt động tín dụng khác với tư cách là một kênh cấp vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Những hạn chế đó là:
- Đối với bên thuê: Vào giai đoạn cuối của hợp đồng thuê, mặc dù bên thuê đã
trả gần như đủ số tiền thuê nhưng bên thuê vẫn chưa được sử dụng tài sản vào mục
đích khác. Hơn nữa, bên thuê có thể phải chịu những rằng buộc bởi một số biện pháp
bảo đảm đối với tài sản thuê như: không cho người khác thuê lại khi chưa được sự
đồng ý của bên cho thuê hoặc phải chịu sự kiểm tra bất cứ khi nào theo yêu cầu của
bên cho thuê.
- Đối với bên cho thuê, có thể xảy ra các rủi ro như: rủi ro về tài chính khi bên

thuê không trả tiền thuê đúng hạn hoặc tiền thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc;
hoặc rủi ro liên quan đến tài sản thuê khi tài sản cho thuê thu hồi về không thể cho thuê
tiếp hay không bán được; tài sản do nhà nhà sản xuất giao cho bên cho thuê không
đúng theo hợp đồng, tài sản không được phép kinh doanh; hoặc rủi ro do thay đổi về
luật pháp, do biến động của thị trường bởi khủng hoảng kinh tế [10].
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm pháp luật cho thuê tài chính
Sự ra đời và hoạt động của công ty cho thuê tài chính đã làm phát sinh mối quan
hệ giữa công ty cho thuê tài chính với khách hàng, giữa công ty cho thuê tài chính với


×