Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.51 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN PHÚ VINH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI, 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................................... 1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ
NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TÊ .......... 5
1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế........................................................... 5
1.1.1 Quan điểm của một số nước và các điều ước quốc tế hữu quan về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế ........................................................................................................ 5
1.1.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam ......... 8
1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.................................................... 10


1.2.1 Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................................. 10
1.2.2 Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................................. 10
1.2.3 Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................................. 11
1.2.4 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................................... 12
1.2.5 Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................................ 12
1.3 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ..................................... 12

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM ............................................ 18
2.1 Các quy định về hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............. 18
2.1.1 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............................ 18
2.1.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vô hiệu và hậu quả pháp lý do hợp đồng vô
hiệu .............................................................................................................................. 23
2.2 Quy định pháp luật điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ..... 24
2.2.1. Giao kết hợp đồng trực tiếp ................................................................................... 24
2.2.2. Giao kết hợp đồng gián tiếp ................................................................................... 26
2.3.3. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua thương mại điện tử ..... 31
2.3 Quy định pháp luật điều chỉnh việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 33
2.3.1 Giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa .................................................... 33
2.3.2 Nhận hàng .............................................................................................................. 35
2.3.3 Thanh toán ............................................................................................................. 36
2.3.4 Chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối với hàng hóa từ người bán sang người
mua .............................................................................................................................. 38
2.4 Quy định pháp luật điều chỉnh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ................................................................................................................................ 45
2.4.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế . 45


2.4.2. Các biện pháp chế tài do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............... 51


Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC
TẾ ...................................................................................................................................... 59
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế ......................................................................................................................... 59
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế dựa trên thực trạng pháp luật Việt Nam ..................................................................... 59
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .................................... 60
3.2 Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam vê giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................................................................. 61
3.2.1 Sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể của Luật Thương mại 2005 liên quan đến
trình tự giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............................... 61
3.2.2 Gia nhập công ước Viên 1980 và coi Công ước là nguồn bổ trợ cho pháp luật
trong nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................... 62
3.2.3 Thừa nhận án lệ với tư cách là nguồn luật có giá trị tham khảo trong lĩnh vực
pháp luật về hợp đồng ..................................................................................................... 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 71


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005

:BLDSVN 2005

2.


Luật Thương mại Việt Nam năm 1997

:LTMVN 1997

3.

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005

:LTMVN 2005

6

Thương mại điện tử

:TMĐT

4.

Tổ chức thương mại thế giới

:WTO

5

Tòa án nhân dân tối cao

:TANDTC

7.


Viện thống nhất tư pháp quốc tế

:UNIDROIT


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau
như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư... Trong đó, mua bán hàng hóa có lúc
là hình thức chủ yếu của hoạt động thương mại quốc tế. Hiện nay, mặc dù đã có
thêm nhiều hình thức thương mại mới song mua bán hàng hóa vẫn chiếm vị trí
trung tâm, có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng
như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế trong
những năm gần đây đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới; góp phần tăng tích lũy nội bộ nền kinh tế nhờ sử dụng hiệu quả
lợi thế so sánh trong trao đổi quốc tế; là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng
cao trình độ công nghệ và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nước, tạo việc làm,
tăng thu nhập, cải thiệu đời sống cho người lao động... Theo thống kê, kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt 47,7 tỷ USD và đạt 65 tỷ USD trong năm
2008, tương đương với 73% GDP của cả nước.
Cùng với việc tham gia Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA), sự gia
nhập của Việt Nam vào Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là một bước ngoặt lớn
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra cơ hội lớn cho nước ta trong hoạt
động ngoại thương, đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
Hiện tại, các hoạt động giao dịch, mua bán hàng hóa với những cá nhân, tổ
chức kinh tế của quốc gia khác được các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành tích cực

và thận trọng, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam. Song quá trình ký kết,
thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa doanh nghiệp nước ta với
đối tác nước ngoài vẫn thường xảy ra những vi phạm, tranh chấp gây thiệt hại vật
chất và làm giảm sút uy tín thương mại của các doanh nghiệp trong nước. Một
trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do trong quá trình giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp trong nước chưa áp
dụng cũng như thực hiện những hành vi thương mại phù hợp với pháp luật, tập


2

quán quốc tế, trong khi đó hệ thống pháp luật nói chung và luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế nói riêng của nước ta mặc dù có nhiều tiến bộ song chưa hoàn
thiện. Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập, thiếu tính
đồng bộ, tính nhất quán, nhiều vấn đề đề hoàn toàn chưa được pháp luật đề cập tới,
hoặc để cập sơ sài vì vậy chưa tạo ra được khuôn khổ pháp lý chặt chẽ cho các nhà
kinh doanh trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Thực tế trên đã dẫn đến hậu
quả là việc ký kết và thực hiện hợp đồng này trong thực tiễn còn gặp rất nhiều
vướng mắc, bất cập. Mặt khác sử hiểu biết hạn chế của các chủ thể kinh doanh về
pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng
cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của việc áp dụng pháp
luật đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam” mang tính cấp thiết cả
về lý luận lẫn thực tiễn, không những nhằm nâng cao hiểu biết của các nhà kinh
doanh về pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế mà còn góp
phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế pháp triển mạnh mẽ, mang lại
hiệu quả cao cho nền kinh tế quốc dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Dưới góc độ pháp lý, các nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
tương đối phong phú, đáng chú ý có Đề tài khoa học cấp trường: “Pháp luật về mua
bán hàng hóa quốc tế của Việt nam – Sự phát triển và hoàn thiện trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế” (Trường Đại học Luật Hà Nội – 2002) do Thạc sỹ Nông
Quốc Bình chủ nhiệm đề tài; Luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề pháp lý về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của
học viên Phạm Lê Vân Hà bảo vệ năm 2002 tại Đại học Luật Hà Nội; bài viết “Sự
cần thiết của việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 11/2008.... Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trước đây đều dựa trên mối
tương quan của Luật Thương mai 1997 và pháp luật quốc tế , thêm nữa, chưa có


3

một nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, vì vậy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên
quan đến vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cần
thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành của luật thương mại
trong nước trong mối tương quan với Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế và tập quán thương mại quốc tế liên quan đến quan hệ giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, kết hợp với các phương pháp
phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh, thống kê...
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những khía cạnh pháp lý

của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đánh giá thực trạng các quy định của pháp
luật hiện hành liên quan đến vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng này, đồng thời
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Để đạt đươc mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết được những nhiệm vụ
sau đây:
- Phân tích, làm rõ bản chất, đặc trưng pháp lý và vai trò của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, phân biệt với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước
- Chỉ rõ nguồn luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và sự
cần thiết của việc gia nhập các điều ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
- Phân tích và làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ
giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế


4

6. Kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ để ra, luận văn dự kiến đóng góp những điểm
mới sau:
- Làm rõ được bản chất và đặc điểm pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
- Đánh giá được những ưu và nhược điểm của Luật Thương mại 2005 nói
riêng và pháp luật hiện hành nói chung liên quan đến vấn đề giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Chỉ rõ vai trò của án lệ và sự cần thiết trong việc thừa nhận vai trò giải thích
pháp luật của tòa án và của thẩm phán thông qua án lệ
- Nêu rõ sự cần thiết của việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980 và

UNIDROIT với tư cách là nguồn bổ trợ cho pháp luật trong nước về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn bao gồm:
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế tại Việt Nam
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam
Kết luận


5

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ
NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TÊ
1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1 Quan điểm của một số nước và các điều ước quốc tế hữu quan về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Nhìn chung, pháp luật các nước đều khẳng định hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế mang những đặc trưng của hợp đồng mua bán tài sản. Ở đó, có sự thỏa
thuận giữa bên bán và bên mua, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua
bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản là đối tượng của hợp
đồng cho bên mua, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho bên bán
theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng song vụ, có đền
bù.

Tuy nhiên, khác với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng có yếu tố nước ngoài hay mang tính quốc tế. Yếu
tố nước ngoài có thể được quy định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia
cũng như trong pháp luật quốc tế. Việc xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán
hàng hóa có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với
việc xác định luật điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng.
Pháp luật của Cộng hòa Pháp căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý để
xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo tiêu chuẩn
kinh tế, một hợp đồng mang tính quốc tế là hợp đồng tạo ra sự chuyển dịch qua lại
biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, hay nói cách khác hợp đồng
đó phải thể hiện được lợi ích thương mại quốc tế. Còn theo tiêu chuẩn pháp lý, hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý
của nhiều quốc gia. Các tiêu chuẩn đó bắt nguồn từ sự tồn tại những yếu tố khác
biệt như luật quốc tịch của các bên, nơi cư trú, nơi thực hiện hợp đồng, nguồn gốc
thanh toán…[18]


6

Trong khoa học pháp lý hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa có một cách xác
định thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mà chỉ nêu một số khái niệm hay một số
cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này.
Một trong những cách xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là dựa trên dấu hiệu quốc tịch của thương nhân. Tuy nhiên, trong thực
tế việc xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên cơ sở dấu hiệu quốc
tịch của thương nhân lại gặp hạn chế khi chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là các pháp nhân. Có thể áp dụng chế định quốc tịch cho pháp nhân hay
không? Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới không quy định quốc tịch
của pháp nhân mà chỉ quy định pháp nhân thuộc quốc gia nào hay nói cách khác là

“tính quốc gia” của pháp nhân. Có ba cách xác định “tính quốc gia” của pháp nhân:
Một là, theo nơi đăng ký của pháp nhân (thuyết nơi đăng ký) (Anh, Hoa Kỳ, các
quốc gia thuộc Liên Xô cũ). Hai là, theo địa chỉ thường trú của pháp nhân tức là
nói cơ quan quản lý thực tế của pháp nhân (thuyết địa điểm thường trú của pháp
nhân). Ba là, thuyết giám sát, theo cách này, “tính quốc gia” của pháp nhân được
xác định dựa trên cơ sở vốn của chủ thể thuộc quốc gia nào ảnh hưởng đến việc
giám sát hoạt động của pháp nhân. Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định tính
quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu quốc tịch trên
thực tế là một việc không dễ dàng và trong một số trường hợp sẽ gây khó khăn
trong việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng.
Công ước La Haye 1964 về luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế các động sản hữu hình cũng đưa ra một cách xác định tính quốc tế
của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo đó, một hợp đồng được coi là hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế chỉ khi nó thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất, trụ sở thương
mại chính của các bên ký kết hợp đồng phải nằm trên lãnh thổ của các quốc gia
khác nhau, đây được coi là yếu tố lãnh thổ; Thứ hai, nó phải thỏa mãn một trong ba
yếu tố phụ sau: (i) Hợp đồng liên quan đến vật mà trong thời gian ký kết hợp đồng
vật đó được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này
đến lãnh thổ của quốc gia khác; (ii)Hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào


7

hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; (iii)Việc giao hàng
được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành hành
vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng (Điều 1, Công ước La Haye năm
1964)[4].
Mặc dù được thông qua và đã có hiệu lực, nhưng Công ước La Haye năm
1964 không được áp dụng rộng rãi cũng như không gây ảnh hưởng trong thực tiễn
ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (ngay cả khi Công ước

Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chưa được thông qua) bởi các
tiêu chuẩn chủ quan và khách quan được Công ước sử dụng để xác định tính quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chồng chéo và không có ý nghĩa thực tế.
Ví dụ, người bán có trụ sở thương mại trên lãnh thổ Việt Nam giao hàng cho người
mua có trụ sở thương mại trên lãnh thổ của Thái Lan theo hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, khi hàng hóa đã nằm trên lãnh thổ của Thái Lan, vì một lý do nào đó
người mua từ chối nhận hàng và khi đó người bán buộc phải sang Thái Lan để bán
số hàng này cho người mua khác có trụ sở thương mại cũng nằm trên lãnh thổ Thái
Lan. Như vậy, tất các các hoạt động liên quan đến việc mua bán lần thứ hai đều
diễn ra trên lãnh thổ Thái Lan: Hàng hóa đã nằm tại Thái Lan – không thỏa mãn
điều kiện phụ thứ nhất; các hành vi chào hàng và chấp nhận chào hàng cũng như
việc giao hàng được thực hiện ngay trên lãnh thổ của Thái Lan – không thỏa mãn
điều kiện phụ thứ hai và thứ ba. Do đó, theo quy định của Điều 1 Công ước La
Haye năm 1964 thì hợp đồng này không thể coi là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế và vì vậy không thể áp dụng các quy định của luật thương mại quốc tế mà
cụ thể là không thể áp dụng ngay chính Công ước La Haye năm1964 để điều chỉnh
nó.
Công ước NewYork 1974 về thời hiệu tố tụng trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công
ước Genever 1983 về đại lý trong mua bán quốc tế chỉ sử dụng một tiêu chuẩn duy
nhất là địa điểm trụ sở thương mại của các bên để xác định tính quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Các công ước nói trên quy định rằng, hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở thương


8

mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau nếu như các quốc gia này tham
gia công ước, hay luật của quốc gia tham gia công ước được áp dụng phù hợp với
những quy phạm của luật tư pháp quốc tế [30, tr.10]. Tuy nhiên, việc xác định tính

quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn
khi các bên có nhiều trụ sở thương mại. Để giải quyết vấn đề này, Điều 10 Công
ước Viên 1980 quy định, trong trường hợp nếu một trong các bên hay tất cả các bên
có nhiều hơn một trụ sở thương mại thì cần phải chú ý đến trụ sở nào có mối liên hệ
mật thiết với hợp đồng và với việc thực hiện hợp đồng xuất phát từ những hoàn
cảnh mà các bên đã biết trước và đã có dự liệu trước khi hay trong thời điểm ký kết
hợp đồng, còn nếu các bên không có trụ sở thương mại thì cần xác định địa điểm
thường trú của họ.
Hiện nay, nhiều quốc gia đã tham gia Công ước Viên 1980 về mua bán hàng
hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới
xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu
lãnh thổ của các bên ký kết hợp đồng. Trên thực tế, việc xác định trụ sở thương mại
của thương nhân là một việc đơn giản hơn nhiều so với xác định “tính quốc gia”
(quốc tịch) của họ trong nhiều trường hợp như đã đề cập ở trên.
1.1.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật Việt
Nam
Đối với Việt Nam, khái niệm “hợp đồng mua bán ngoại thương” được ghi
nhận lần đầu trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK về hướng dẫn việc ký kết
hợp đồng mua bán ngoại thương do Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ Công Thương)
ban hành ngày 31/07/1991, theo đó “hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng
mua bán có tính chất quốc tế” với ba tính chất sau: thứ nhất, chủ thể của hợp đồng
là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; thứ hai, hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác; thứ ba, đồng tiền thanh toán
trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng. [32]
Đến thời kỳ ra đời và vận hành Luật Thương mại năm 1997 (LTMVN 1997),
thì lại xuất hiện tên gọi “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”
theo đó “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua


9


bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là
thương nhân nước ngoài” (Điều 80, LTMVN 1997). Như vậy, tiêu chí để xác định
yếu tố nước ngoài cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ là yếu tố quốc tịch
của các bên chủ thể hợp đồng. Có thể thấy, LTMVN 1997 đã thu hẹp nội hàm khái
niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Với cách hiểu này thì một loạt các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế khác sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh LTMVN
1997 như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các thương nhân Việt Nam với
nhau nhưng việc ký kết được tiến hành ở nước ngoài, hợp đồng mua bán hàng hóa
giữa thương nhân nước ngoài với nhau ở Việt Nam... Điều này không chỉ đặt ra
những vấn đề khó phúc đáp về lý luận mà còn cả sự khó khăn đối với việc áp dụng
pháp luật trong thực tiễn.
Hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong Luật
Thương mại năm 2005 (LTMVN 2005) và Nghị định 12/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng
hóa với nước ngoài. Theo đó, “mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các
hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu” (Khoản 1, Điều 27 LTMVN 2005). Như vậy, chiếu theo quy định này thì tiêu
chí để xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ là việc hàng hóa là đối tượng của hợp đồng phải
được giao qua biên giới của Việt Nam hoặc biên giới của một nước (vùng lãnh
thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng (biên giới hải quan).
Với những loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa không có sự dịch
chuyển qua biên giới thì rõ ràng sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của LTMVN
2005 [24]. Tuy nhiên, với tư duy coi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005
(BLDSVN 2005) là “đạo luật mẹ” bao trùm lên cả các lĩnh vực kinh tế - thương
mại, hôn nhân và gia đình, lao động thì đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế mà hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không được chuyển giao qua biên
giới quốc gia thì hoàn toàn có thể áp dụng các quy định của BLDSVN 2005 đối với

hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung để điều chỉnh.


10

Tự những phân tích trên, ta có thể rút ra kết luận hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất, nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương
là sự thỏa thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho bên
mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hóa; Bên mua có nghĩa vụ
nhận hàng và trả tiền hàng.

1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1 Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các chủ thể có hoạt động
kinh doanh quốc tế, có thể là các thể nhân, pháp nhân, trong một số trường hợp
nhất định, Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ này. Tính quốc tế của các chủ
thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế căn cứ vào dấu hiệu quốc tịch, nơi cư
trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại trong từng trường hợp. Việc các bên có quốc
tịch, có nơi cư trú hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau được xét là một
trong những căn cứ xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng. Sự khác quốc tịch,
nơi cư trú hoặc trụ sở của một bên được coi là yếu tố nước ngoài đối với bên kia và
ngược lại. Trong một số trường hợp, một trong các bên hoặc các bên có nhiều quốc
tịch, nhiều nơi cư trú hoặc nhiều nơi đặt trụ sở thương mại, thì trước tiên, căn cứ
vào sự lựa chọn của các bên trước hoặc tại thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu các bên
không chọn thì quốc tịch, nơi cư trú và trụ sở thương mại của các bên được xác
định khi có căn cứ hợp lý cho rằng quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở thương mại mà
phía đối tác đã biết hoặc có thể biết và đồng ý xác lập trước hoặc tại thời điểm ký
kết hợp đồng, hoặc đó là quốc tịch, nơi cư trú và trụ sở thương mại có mối quan hệ
gần gũi nhất với hợp đồng và thực hiện hợp đồng.


1.2.2 Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng có đặc
tính của hàng hóa, là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán với hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm cả hàng


11

hóa hữu hình (nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, máy móc thiết bị….) và hàng hóa
vô hình (dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ…) được phân biệt căn cứ vào dạng thức tồn
tại. Nó có thể là vật, là lao động con người hay là các quyền tài sản mang tính vô
hình. Tuy nhiên quan niệm về hàng hóa trong pháp luật của các quốc gia có phạm
vi rộng hẹp khác nhau.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc
tế (như Hiệp định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung châu Âu,
Công ước Viên 1980....), hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại quốc tế
được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tích cơ bản là: (i) Có thể đưa
vào lưu thông và (ii) Có tính chất thương mại [7]. Công ước Viên năm 1980 chỉ
loại trừ đối với việc mua bán một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy đảm bảo
chừng từ và tiền lưu thông, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường
không, phương tiện vận tải bằng khinh khí cầu, hàng hóa được gia công nhưng
phần lớn nguyên liệu phục vụ cho việc gia công hàng hóa do người mua cung cấp...
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế phải là động sản và phải thỏa mãn các quy định về Quy
chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo pháp luật của nước bên mua và bên
bán. Nhìn chung, phần lớn các loại hàng hóa đều được phép tự do đem ra trao đổi,
mua bán ngoại trừ một số loại hàng hóa nhất định mà thông thường theo cách quy
định trong pháp luật các nước, đó là nhóm hàng bị cấm xuất khẩu, nhập khẩu, các

nhóm hàng bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu (được quản lý theo hạn ngạch (quota),
hoặc phải đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, điều kiện chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm...
1.2.3 Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được quy định rất
khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có hệ thống pháp
luật yêu cầu bắt buộc hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được
lập thành văn bản, nhưng cũng có hệ thống pháp luật không có bất kỳ một yêu cầu
nào về hình thức hợp đồng. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể
được xác lập và chứng minh dưới mọi hình thức, kể cả bằng lời khai của nhân


12

chứng. Bên cạnh đó, một điểm cần lưu ý ngay cả trong khái niệm “văn bản” giữa
các quốc gia cũng có cách quan niệm rộng hẹp khác nhau về những dạng vật chất
chứa đựng thông tin nào được coi là “văn bản”. Vì vậy các bên khi tiến hành giao
kết hợp đồng phải thận trọng trong việc tìm hiểu các quy định của luật có khả năng
được áp dụng cho quan hệ hợp đồng, nhằm cố gắng tránh được tối đa các hậu quả
pháp lý bất lợi và các thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.4 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng (bên mua và bên bán), được hình thành trong
quá trình các bên thương lượng, thỏa thuận và đi đến ký kết hợp đồng. Nội dung
của hợp đồng phải hợp pháp, thể hiện ý chí của các bên. Trong thực tiễn, các bên
thỏa thuận nội dụng hợp đồng càng chi tiết thì càng thuận lợi cho việc thực hiện
hợp đồng. Việc đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng phải tuân thủ các nguyên
tắc cơ bản, các quy định trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế trong
lĩnh vực hợp đồng.
1.2.5 Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Nếu như đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, ngay cả khi các
chủ thể không có thỏa thuận, thì luật áp dụng cho hợp đồng vẫn thường là luật
thương mại nội địa của một quốc gia nhất định.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, việc trụ sở thương mại của các
bên trong hợp đồng nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau cũng có nghĩa là
các bên thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì lý do này mà không có
pháp luật của một quốc gia nào có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các bên trong
hợp đồng, mà luật áp dụng cho hợp đồng là luật nào, luật quốc gia hay luật quốc tế
hoặc luật của bên thứ ba hoàn toàn do sự lựa chọn của các bên.
1.3 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Như đã đề cập ở trên, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được điều chỉnh
không chỉ bằng luật quốc gia mà còn được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác
bao gồm: điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, hợp đồng mẫu và trong nhiều trường
hợp là các án lệ tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên.


13

* Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế được hiểu là văn bản ghi nhận thỏa thuận của các chủ thể
luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào tên gọi của văn
bản cũng như không phụ thuộc vào việc nó được ghi nhận trong một hay nhiều văn
kiện có quan hệ với nhau [3] [15]
Khi nói đến điều ước quốc tế, một trong những vấn đề quan trong là xác định
trong trường hợp nào điều ước quốc tế được áp dụng. Theo nguyên tắc chung, điều
ước quốc tế được áp dụng trong hai trường hợp sau: Thứ nhất, quốc gia của chủ thể
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ký kết hay tham gia điều ước quốc tế
tương ứng. Thứ hai, mặc dù quốc gia của các chủ thể trong hợp đồng không tham
gia ký kết hay phê chuẩn điều ước quốc tế, nhưng các bên thỏa thuận áp dụng điều
ước quốc tế để điều chỉnh quan hệ của các bên theo hợp đồng. Trong trường hợp

này, việc áp dụng Điều ước quốc tế phải tuân thủ các nguyên tắc của việc áp dụng
tập quán thương mại, nghĩa là nếu quy định nào đó của Điều ước trái với luật Việt
nam thì phải áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, điều ước quốc tế
cũng có thể được áp dụng trong trường hợp nếu chỉ có quốc gia của một trong hai
chủ thể tham gia điều ước quốc tế nhưng các chủ thể của hợp đồng thỏa thuận áp
dụng luật của nước là thành viên công ước.
Vai trò của điều ước quốc tế thể hiện ở chỗ, nó là công cụ pháp lý hữu hiệu để
giải quyết xung đột pháp luật và sự có mặt của điều ước quốc tế hạn chế việc áp
dụng các quy phạm của pháp luật nước ngoài.

* Pháp luật quốc gia
Luật quốc gia trong thương mại quốc tế là tổng hợp các quy định điều chỉnh
các hoạt động của các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế. Với tư cách là
nguồn luật của thương mại quốc tế, luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình
thức văn bản hoặc không được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn luật này
được thể hiện dưới hình thức nào hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật
nhất định.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các bên
được điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia trong lĩnh vực dân sự, thương mại. Các quy


14

phạm pháp luật quốc gia trong điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
được chia thành hai nhóm: Một là, các quy phạm bắt buộc, (ví dụ, các quy phạm về
chủ thể ký kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng...). Các
quy phạm loại này có hiệu lực pháp lý trong mọi trường hợp, không phụ thuộc vào
việc luật áp dụng cho hợp đồng là luật quốc gia nào, điều ước quốc tế hay tập quán
thương mại quốc tế. Hai là, các quy phạm nội dung, tức là các quy phạm quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Việc áp dụng các quy phạm này

xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên hoặc từ nguyên tắc xung đột pháp luật,
chẳng hạn nếu các bên không thỏa thuận áp dụng thì luật áp dụng sẽ là luật ở nơi
hợp đồng được thực hiện hay luật có quan hệ mật thiết với hợp đồng.
Quy phạm xung đột trong pháp luật của hầu hết các quốc gia cho phép các bên
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
Tuy nhiên, có phải lúc nào cũng buộc phải áp dụng quy định của pháp luật Việt
Nam để điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế có sự tham gia của thương nhân
Việt Nam? Câu trả lời là: Chỉ áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam trong
trường hợp: Thứ nhất, có sự thỏa thuận của các bên về việc áp dụng pháp luật Việt
Nam để điều chỉnh hợp đồng; thứ hai, nếu không có sự thỏa thuận của các bên thì
xuất phát từ nội dụng của hợp đồng, có thể hiểu là các bên có ý định lựa chọn pháp
luật của Việt Nam.
Như vậy có thể nói rằng, tự do ý chí của các bên của hợp đồng thương mại
quốc tế có ý nghĩa quyết định trong việc lựa chọn pháp luật để điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.

* Tập quán thương mại quốc tế và hợp đồng mẫu
Tập quán thương mại quốc tế được hiểu là thói quen thương mại được hình
thành lâu đời, có nội dung cụ thể, rõ ràng, được áp dụng liên tục và được các chủ
thể trong giao dịch thương mại quốc tế chấp nhận một cách phổ biến.
Theo nguyên tắc, bản thân của tập quán thương mại quốc tế không có hiệu lực
pháp lý như một quy phạm pháp luật, nó chỉ có hiệu lực trong những trường hợp cụ
thể do luật định. Trong thực tiễn, tập quán thương mại quốc tế có hiệu lực pháp lý
trong những trường hợp sau: thứ nhất, tập quán thương mại được các bên thỏa


15

thuận áp dụng ghi trong hợp đồng; thứ hai, tập quán thương mại được các điều ước
quốc tế liên quan quy định áp dụng; thứ ba, tập quán thương mại quốc tế được luật

trong nước quy định áp dụng; thứ tư, cơ quan xét xử cho rằng các bên chủ thể đã
mặc nhiên áp dụng tập quán thương mại quốc tế trong giao dịch thương mại của họ.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, ngoài tập quán thương mại, trong
nhiều trường hợp, hợp đồng mẫu cũng được sử dụng như là nguồn áp dụng của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Mặc dù về bản chất, hợp đồng mẫu hạn chế tự do
của các bên trong việc xác định điều kiện của hợp đồng, nhưng chính sự tự do của
các bên trong việc xác định điều kiện của hợp đồng là cơ sở để xây dựng các hợp
đồng mẫu. Trên phiếu ghi hợp đồng mẫu có văn bản của hợp đồng và có một số
điều khoản đã được điền vào (tên gọi, địa chỉ của các bên, giá, thời hạn giao hàng,
mô tả hàng hóa....) và hợp đồng này có hiệu lực khi các bên ký lên phiếu.
Thông thường, hợp đồng mẫu được soạn thảo bởi những chủ thể có uy tín
trong hoạt động thương mại quốc tế, hay bởi những hiệp hội chuyên nghiệp của các
chủ thể luật thương mại quốc tế (Ủy ban thương mại hay hiệp hội nghề nghiệp)
hoặc bởi những tổ chức quốc tế, ví dụ, những hợp đồng mẫu được London Cor
Trade Association soạn thảo.

* Án lệ
Án lệ được hiểu là trường hợp các quyết định xét xử của tòa án hoặc cơ quan
hành chính được sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra
sau đó. Đặc trưng cơ bản của án lệ là việc tòa án tham gia tích cực vào hoạt động
xây dựng pháp luật. Sở dĩ như vậy là vì bản án của tòa trong trường hợp này có giá
trị như một căn cứ pháp lý – vốn là chỗ dựa để các quan tòa đưa ra các bản án. Nói
cách khác, án lệ là cách thức giải thích và áp dụng pháp luật của tòa án về một,
hoặc một số vấn đề nhất định, lâu dần cách áp dụng này trở thành một tiền lệ, một
chuẩn mực để thẩm phán dựa vào đó mà xử lý các trường hợp tương tự về sau. Như
vậy, án lệ ra đời thường là do pháp luật chưa đủ để điều chính các quan hệ xã hội
hoặc bản thân các quy định của pháp luật còn thiếu sót, hoặc không thể giải thích.
Pháp luật Anh, Mỹ thừa nhận án lệ là một trong những nguồn luật cơ bản điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo đó, tòa án không chỉ can thiệp vào



16

quan hệ hợp đồng mà còn có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc “sáng tạo” ra
pháp luật thông qua các quyết định xét xử của mình. Các quy tắc pháp luật đã được
đưa ra trong một phán quyết của của tòa án khi xét xử một vụ việc tương tự đều có
hiệu lực ràng buộc đối với thẩm phán của các tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới (trừ
phán quyết của tòa án cấp sơ thẩm). Phán quyết của tòa án tối cao không chỉ có
hiệu lực rằng buộc với các tòa án sơ cấp, mà với cả tòa án cao cấp có vị trí thứ bậc
thấp hơn tòa án đó, thậm chí đối với cả tòa án cùng cấp với tòa án đó. Tuy nhiên,
thẩm phán có thể không áp dụng quy tắc tiền lệ này trong trường hợp họ cho rằng
các tình tiết của vụ án mình đang xét xử không giống với các tình tiết trong vụ án
đã xét xử trước đó (gọi là phương thức phân biệt). Ngay cả trong trường hợp các
tình tiết được coi là giống nhau, thẩm phán cũng có quyền không chịu sự ràng buộc
của một quy tắc tiền lệ đã được lập ra trong một phán quyết ban hành trước đó, nếu
cho rằng quy tắc đó không phải là một căn cứ có tính chất quyết định, đặc biệt là
trong trường hợp căn cứ đó chỉ có tính chất bổ sung, còn đang được tranh cãi hay
trong trường hợp quy tắc được đưa ra vượt quá khuôn khổ của vụ việc cần xét xử.
Với vai trò của án lệ như vậy, tòa án có vai trò quan trọng trong việc hình thành
nên pháp luật hợp đồng thông qua hoạt động xét xử.
Bên cạnh việc thừa nhận nguyên tắc tiền lệ là nguồn của pháp luật trong lĩnh
vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật các nước theo truyền thống án
lệ còn thừa nhận quy tắc giài thích luật. Theo quy tắc này, tùy theo mức độ không
rõ ràng của văn bản luật, tòa án có quyền giải thích luật theo câu chữ của quy phạm
cần giải thích và ngữ cảnh của quy phạm đó, hoặc giải thích căn cứ vào mục đích
điều chỉnh của quy phạm, hoặc căn cứ vào câu chữ của luật để suy luận (cách giải
thích trung gian) trừ trường hợp sự suy luận như vậy có thể dẫn đến một kết quả bất
hợp lý hoặc không công bằng mà nhà làm luật chắc chắn không muốn khi ban hành
quy phạm đó.
Thông thường, người ta có quan niệm rằng án lệ là một hình thức pháp luật

đặc thù của các nước thuộc hệ thống luật Anh – Mỹ. Tuy nhiên, tại các nước vốn có
truyền thống dân luật như Pháp, Đức, Nhật cũng đã xem các bản án của tòa phúc
thẩm có giá trị như một nguồn luật thông qua việc công bố các bản án của tòa cấp


17

phúc thẩm để làm tài liệu cho thẩm phán các cấp tham chiếu khi xét xử các vụ việc
tương tự.
Trong thương mại quốc tế, đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, từ
lâu án lệ luôn được sử dụng như là một cách thức để tòa án, trọng tài thương mại
dựa vào để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trên cơ sở hợp đồng giữa các bên
chủ thể. Song cũng cần lưu ý rằng mức độ thừa nhận và vận dụng án lệ là không
giống nhau ở các quốc gia và các hệ thống tài phán. Chẳng hạn, trong tài phán quốc
tế về thương mại, WTO không công nhận nguyên tắc án lệ; tuy nhiên trong thực
tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, các ban hội thẩm thường dựa rất nhiều vào việc
tham khảo cách thức giải quyết của các ban hội thẩm trước đó qua những vụ việc
tương tự. Điểm khác là các bản án xét xử này chỉ có giá trị tham khảo chứ không
trở thành các quy định có tính bắt buộc như ở hệ thống các quốc gia theo thông
luật.


18

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1 Các quy định về hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế
2.1.1 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Cũng như đối với hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có
hiệu lực tức là có khả năng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
ký kết khi nó được coi là hợp pháp. Mặc dù trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế các bên có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng, tuy nhiên điều kiện có hiệu lực
của chúng được xác định trên cơ sở quy định của pháp luật quốc gia mà không phụ
thuộc vào luật áp dụng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được coi là có hiệu lực khi tuân thủ các điều kiện sau đây:
2.1.1.1 Điều kiện về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Đối với việc xác định năng lực chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, dù rằng pháp luật các nước quy định khác nhau, nhưng điểm chung nhất đó là
hợp đồng phải được ký và thực hiện bởi người có thẩm quyền và có đầy đủ năng
lực theo pháp luật. Việc chọn hệ thống pháp luật áp dụng nhằm làm rõ năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể hợp đồng thường dựa vào
hệ thuộc luật nhân thân của chủ thể hợp đồng. Trong khi đó, đối với Việt Nam, việc
giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế không được quy định chuyên biệt trong LTMVN 2005, do đó về nguyên tắc
sẽ áp dụng các hệ thuộc như đối với năng lực chủ thể của hợp đồng trong Tư pháp
quốc tế nói chung [9, tr.139]. Điều 762 và 763 BLDSVN 2005 quy định, năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác
định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Đối với pháp nhân, việc
xác định năng lực chủ thể của hợp đồng sẽ tuân theo pháp luật của nước nơi pháp
nhân đó được thành lập (Điều 765 BLDSVN 2005).
Cho dù không đưa ra hệ thuộc luật trực tiếp điều chỉnh năng lực chủ thể trong


19

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng pháp luật Việt Nam cũng đã có những
quy định trực tiếp về năng lực chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cụ

thể, đối với chủ thể là cá nhân, pháp luật Việt Nam quy định công dân Việt Nam từ
đủ 18 tuổi trở lên được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu không thuộc
các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự
quy định tại Điều 22 và 23 BLDSVN 2005. Đối với chủ thể là pháp nhân, Điều 86
BLDSVN 2005 chỉ rõ “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời
điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân”.
Ngoài yêu cầu về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của chủ thể,
pháp luật về thương mại của Viêt Nam còn quy định chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải là thương nhân, nghĩa là bao gồm các tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh (Điều 6 LTMVN 2005).
Thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (gồm
có: các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh
nghiệp, Luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể được thành lập và đăng ký kinh
doanh theo Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của Chính
phủ về đăng ký kinh doanh) được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc
vào ngành nghề đăng ký kinh doanh, chỉ trừ các hàng hóa thuộc Danh mục cấm
xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm
ngừng nhập khẩu. Chi nhánh của thương nhân cũng được xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa theo ủy quyền của thương nhân [19].
Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty
nước ngoài tại Việt Nam thì khi tiến hành ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế ngoài việc phải thực hiện các quy định tại Nghị định 12/2006/NĐ-CP
còn phải tuân theo các quy định khác của pháp luật có liên quan (ví dụ Luật Đầu tư
Việt Nam năm 2006) và các cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên (ví dụ các Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư giữa
Việt Nam với các nước). Cụ thể là có hai trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Trường hợp thứ nhất, doanh nghiệp có vốn



20

đầu tư nước ngoài được trực tiếp nhập khẩu hoặc uỷ thác nhập khẩu, tạm nhập, tái
xuất, trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu hàng hoá để triển khai hoạt động
đầu tư tại Việt Nam phù hợp với mục tiêu của dự án đầu tư quy định tại Giấy phép
đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp thứ hai, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thực hiện mua bán hàng hóa theo Giấy phép kinh doanh hoạt động
mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa tại Việt Nam
đã được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền.
Đối với thương nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam
thuộc các nước, vùng lãnh thổ là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và
các quốc gia, vùng lãnh thổ có thỏa thuận song phương với Việt Nam về vấn đề
xuất, nhập khẩu hàng hóa, pháp luật Việt Nam cho phép họ được quyền: thực hiện
các quyền xuất khẩu, nhập khẩu khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền xuất
khẩu, quyền nhập khẩu đối với các loại hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu
theo quy định của pháp luật Việt Nam và theo lộ trình cam kết về mở cửa thị
trường của Việt Nam; thực hiện mua hàng hoá để xuất khẩu và bán hàng hoá nhập
khẩu với thương nhân Việt Nam có đăng ký kinh doanh các loại hàng hoá đó theo
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam [23]. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn
cho phép thương nhân nước ngoài được đặt chi nhánh tại Việt Nam, chi nhánh
thương nhân nước ngoài cũng có thể ký kết, thực hiện các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế [22].
2.1.1.2 Điều kiện về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Xét về cách thức giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật các nước trên thế giới, một số điều ước quốc
tế, pháp luật Việt Nam và các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước
ngoài đều không đưa ra một quy định riêng, như vậy hệ thuộc được sử dụng chính
là hệ thuộc được dùng để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng
trong Tư pháp quốc tế nói chung [9, tr. 137].

Đối với các nước Đông Âu, người ta căn cứ vào luật nơi ký kết hoặc luật nơi
thực hiện hợp đồng, trên cơ sở ưu tiên áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng để giải
quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng. Còn với đa số các nước Bắc


21

Âu, Tây Âu và châu Mỹ, khi giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp
đồng thì luật nơi ký kết hợp đồng được ưu tiên áp dụng.
BLDSVN 2005 quy định hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của
nước nơi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết ở nước
ngoài mà vi phạm quy định về hinh thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó
nhưng không trái với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngoài đó vẫn
được công nhận tại Việt Nam.
Công ước Viên 1980 không yêu cầu các bên phải ký, xác nhận bằng văn bản
hoặc phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào về mặt hình thức của hợp đồng mua bán. Các
bên có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng, để chứng minh
về sự tồn tại của hợp đồng. Tuy vậy, Điều 96 của Công ước cũng quy định: “nếu
nước thành viên mà trong pháp luật nước đó đòi hỏi hợp đồng phải được ký kết
hoặc phê chuẩn dưới hình thức văn bản thì điều quy định này của pháp luật nước
thành viên đó phải được tôn trọng”.
Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) của UNIDROIT không
bắt buộc hợp đồng, tuyên bố hay bất kỳ một hành vi nào khác phải được giao kết
hay chứng minh bằng một hình thức đặc biệt. Chúng có thể được chứng minh bằng
bất kỳ cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng. Tuy nhiên, Bộ nguyên tắc này không
hạn chế việc áp dụng những quy phạm bắt buộc, có nguồn gốc quốc gia, quốc tế
phù hợp với các quy phạm có liên quan của Tư pháp quốc tế, tức là nguyên tắc tự
do về hình thức hợp đồng có thể bị hạn chế bởi các quy định riêng của pháp luật
quốc gia hoặc pháp luật quốc tế. Theo đó, nếu trong pháp luật quốc gia, pháp luật

quốc tế có liên quan bắt buộc hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải
lập thành văn bản thì các bên sẽ phải tuân theo quy định này (Điều 14 của PICC).
Pháp luật Việt Nam quy định hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương. Trong đó, hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo,
telex, fax, thông điệp dữ liệu (thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi,
nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của


×