Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số vấn đề về thừa kế theo di chúc và thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại toà án nhân dân tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.63 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƯƠNG THỊ HỢP

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC TẠI TAND
TỈNH CAO BẰNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

Học viên

Lương Thị Hợp




DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

DSST

Dân sự sơ thẩm

DSPT

Dân sự phúc thẩm

GCNQSDĐ


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nxb

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo di chúc

5

1.1. Di chúc và thừa kế theo di chúc


5

1.2. Điều kiện có hiệu lực của di chúc

11

1.3. Quyền của người lập di chúc

22

1.4. Hiệu lực pháp luật của di chúc

28

Chương 2: Một số bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành về 30
thừa kế theo di chúc
2.1. Đối với cấu trúc các quy định của BLDS về thừa kế theo di chúc

30

2.2. Về khái niệm di chúc

30

2.3. Điều 648 về quyền của người lập di chúc

31

2.4. Điều 649 về hình thức của di chúc


33

2.5. Người làm chứng cho việc lập di chúc

34

2.6. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

39

2.7. Về di chúc chung của vợ chồng

40

2.8. Về di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng

41

2.9. Các vấn đề về nội dung của di chúc

44

2.10. Về giải thích nội dung di chúc

45

Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại

48


TAND tỉnh Cao Bằng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
thừa kế theo di chúc
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại TAND tỉnh

48

Cao Bằng
3.2. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong công tác giải quyết tranh

63

chấp về thừa kế theo di chúc trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc

65

KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73

PHỤ LỤC

77



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế theo di chúc là một chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự
(BLDS) Việt Nam. Các tranh chấp trong lĩnh vực này phát sinh đa dạng và ngày
càng gia tăng về số lượng đòi hỏi việc giải quyết tại Tòa án phải kịp thời, đúng pháp
luật mới có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế tại Tòa án nhân dân (TAND)
Tỉnh Cao Bằng cho thấy các vụ án về thừa kế theo di chúc là loại việc phức tạp, yêu
cầu đối với người giải quyết là phải có trình độ chuyên môn sâu, nắm vững các quy
định của pháp luật và áp dụng pháp luật chính xác. Hiện nay, một số quy định của
pháp luật về thừa kế theo di chúc chưa đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống, chưa rõ
ràng, còn gây nhiều tranh cãi cả về lý luận và thực tiễn áp dụng nhưng chưa được
Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC) hướng dẫn cụ thể. Bên cạnh đó, nhận thức
pháp luật của các cấp tòa án còn chưa thống nhất dẫn đến “…rất nhiều bản án giải
quyết tranh chấp thừa kế của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng đương sự vẫn
khiếu kiện kéo dài, gây nên tình trạng thiếu tin tưởng của người dân vào hệ thống
cơ quan thực thi pháp luật” [29, tr9]. Việc giải quyết vụ án thừa kế trong ngành
TAND Tỉnh Cao Bằng thường kéo dài, có nhiều vụ bị sửa, một số vụ án bị hủy để
giải quyết lại nhiều lần gây tâm lý “ngại xét xử” cho thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thông qua hoạt động xét xử, phán quyết của TAND có vai trò, ý nghĩa hết sức
quan trọng “... ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, nghĩa vụ, thậm chí tính mạng của
con người, có ảnh hưởng lớn tới tính công minh của pháp luật, uy tín và nền công lý
của quốc gia đồng thời góp phần giáo dục công dân có ý thức pháp luật, tôn trọng
các quy tắc của cuộc sống xã hội ” [28, tr41] nên Đảng ta đã đề ra cho ngành Tòa
án các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002
“về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” nhằm “xây

dựng cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp


2

phần hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [8].
Với chức năng nhiệm vụ của ngành, để tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội mà trọng tâm là việc đổi mới tổ chức, hoạt động của
TAND theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” với nhiệm vụ:“ Xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan tư pháp, trọng tâm là
xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND… Xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh” [10] thì vấn đề quan trọng hàng
đầu đặt ra cho ngành TAND là phải nâng cao chất lượng xét xử các loại vụ án, trong
đó có tranh chấp dân sự về thừa kế theo di chúc để đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của nhiệm vụ chuyên môn và nhiệm vụ chính trị của ngành, góp phần thiết thực
vào công cuộc xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Trong những năm gần đây, qua tổng kết công tác của ngành TAND cho thấy:
“Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của thẩm phán chưa giảm
mạnh”[53, tr7]; tại TAND tỉnh Cao Bằng thì “Chất lượng xét xử án hình sự, hôn
nhân và gia đình của toàn ngành đạt mục tiêu đề ra nhưng chất lượng xét xử án dân
sự chưa đáp ứng yêu cầu…” [54, tr5]. Thực tiễn đó đòi hỏi cán bộ công chức ngành
TAND phải thường xuyên “nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực rèn luyện bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; không ngừng học tập và nỗ lực phấn
đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ ở mỗi cương vị công tác của mình” [53, tr13], đặc
biệt tại một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn như Cao Bằng [46, tr3] thì việc
nắm vững các quy định của pháp luật để vận dụng đúng trong công tác xét xử là rất
quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, em mạnh dạn chọn đề tài: “Một số vấn đề về

thừa kế theo di chúc và thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc
tại TAND Tỉnh Cao Bằng” cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành luật của
mình với mong muốn nắm vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này để
có được nhận thức sâu hơn về kiến thức, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm nhằm đáp
ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chuyên môn.


3

2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung và
thừa kế theo di chúc nói riêng, trong đó phải kể đến TS Nguyễn Minh Tuấn (2007)
với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong
BLDS”- Trường Đại học Luật Hà Nội; TS Phạm Văn Tuyết (2003), “Thừa kế theo
di chúc theo quy định của BLDS” - Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội; TS Trần Thị Huệ (2007) với “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt
Nam” …và nhiều bài báo khoa học đăng trên tạp chí như “Thừa kế theo di chúc
trong BLDS”của Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2000; “Một
số ý kiến về thừa kế theo di chúc trong BLDS Việt Nam”của Đoàn Đức Lương, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 01/2001; TS Phùng Trung Tập (2005) với “Quy định về
người lập di chúc”, Tạp chí TAND…
Nhìn chung, các công trình trên đây đã đi sâu nghiên cứu các quy định của
pháp luật về thừa kế theo di chúc hoặc đi sâu vào một khía cạnh pháp lý cụ thể của
chế định này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về thừa kế theo di chúc
gắn với thực tiễn xét xử và những nét đặc thù của một tỉnh miền núi như Cao Bằng.
3.Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn không nghiên cứu toàn bộ các quy định của pháp luật về thừa kế
theo di chúc mà chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung về thừa kế theo di chúc
còn có sự bất cập. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp
về thừa kế trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, nơi tác giả đang công tác.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Ngoài ra, các phương pháp khác cũng được sử dụng
như phân tích, tổng hợp, chứng minh…trong quá trình nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra những vướng mắc của pháp
luật về thừa kế theo di chúc và thực tiễn áp dụng pháp luật, trên cơ sở đó đưa ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật. Để đạt được mục đích này, luận văn có những nhiệm vụ
sau:


4

- Phân tích và làm rõ một số quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc
còn nhiều vướng mắc;
- Tìm hiểu thực tiễn vận dụng pháp luật về thừa kế theo di chúc của ngành
TAND tỉnh Cao Bằng trong những năm gần đây;
- Đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di
chúc.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Thừa kế theo di chúc đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, từ thực tiễn công tác xét xử các tranh chấp này, luận văn đưa ra góc nhìn mới
về một số quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc và những vướng mắc
trong công tác xét xử các vụ án về thừa kế theo di chúc tại TAND Tỉnh Cao Bằng
trong những năm gần đây.
Ngoài ra, luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những sai sót trong thực tiễn
giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc trong ngành TAND tỉnh Cao Bằng
và những kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xét xử các tranh chấp
về thừa kế theo di chúc và hoàn thiện các quy định của pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn được cơ cấu thành 03 chương, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và
Danh mục tài liệu tham khảo.


5

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1.1. Di chúc và thừa kế theo di chúc
1.1.1. Di chúc và đặc điểm của di chúc
1.1.1.1. Khái niệm di chúc
Trong lịch sử xã hội loài người, quyền để lại thừa kế theo di chúc là một
trong những quyền dân sự quan trọng của công dân được nhà nước ghi nhận và bảo
hộ với những cách thức khác nhau tùy thuộc vào bản chất của mỗi Nhà nước. Viết
về di chúc, từ thời La mã cổ đại, luật gia Ulpian đã đưa ra khái niệm cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được
thực hiện khi chúng ta chết” [58b].
Từ xưa, di chúc đã là phương tiện quan trọng để chuyển tải ý chí của một
người cho thế hệ sau của họ khi người lập di chúc đã qua đời. Di chúc được biết đến
với nhiều tên gọi khác nhau như chúc thư, chúc ngôn, tờ tương phân, lời dặn dò…
Theo từ điển Tiếng Việt thì:“Chúc thư là văn bản chính thức ghi những ý
muốn của một người, đặc biệt là xử lý những tài sản của mình sau khi chết”
[52,tr182] và “Di chúc được hiểu là lời dặn lại trước khi chết những việc người sau
cần làm và nên làm” [52, tr254]. Theo đó thì ý chí của người lập di chúc được thể
hiện trong đó có thể là sự phân định tài sản cho người được hưởng thừa kế nhưng
cũng có thể chỉ chứa đựng những giá trị tinh thần.
Tuy nhiên khi nghiên cứu về di chúc trong lĩnh vực pháp luật dân sự, có nhà
nghiên cứu cho rằng: “Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người định đoạt tài sản

của mình để cho ai, tặng cho ai sau khi chết. Sự bày tỏ được thể hiện bằng văn bản
được gọi là di chúc viết tay hay còn gọi là chúc thư hoặc bằng miệng thường là lời
trăng trối trước khi chết” [45, tr 223].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì di chúc là:“sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế sau khi chết”


6

Cũng với ý nghĩa như vậy, Điều 646 BLDS 2005 quy định: “Di chúc là sự thể
hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”
Những khái niệm này đã đề cập đến những nội dung quan trọng nhất của một
di chúc đó là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản và
chủ thể được quyền thừa kế tài sản theo di chúc. Tuy nhiên, từ “người khác” không
chỉ được hiểu theo nghĩa thông thường là cá nhân mà tổ chức, cơ quan, Nhà nước
CHXHCN Việt Nam cũng là chủ thể có quyền hưởng di sản theo di chúc.
Như vậy, dù được tiếp cận dưới bất kỳ hình thức nào thì di chúc cũng được
hiểu là sự thể hiện ý chí của cá nhân (người có tài sản) trong việc định đoạt tài sản
này cho những chủ thể khác sau khi cá nhân đó qua đời.
1.1.1.2. Đặc điểm của di chúc
Thứ nhất, chủ thể lập di chúc chỉ là cá nhân
Đối với chủ thể lập di chúc (người có quyền để lại di sản) chỉ có thể là cá
nhân, không thể là cơ quan tổ chức. Là một thực thể xã hội, bằng việc lao động tạo
ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, con người còn trở thành
chủ sở hữu tài sản. Cá nhân có quyền sở hữu tài sản tạo ra nên có quyền định đoạt
tài sản của mình cho người khác và một trong các phương thức thực hiện quyền
định đoạt tài sản của chủ sở hữu là để lại thừa kế theo di chúc.
Khác với cá nhân, đối với pháp nhân, tổ chức thì tài sản có thể được hình
thành từ nhiều nguồn, do nhiều người đóng góp hoặc được nhà nước giao cho. Việc
thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản của cơ quan, tổ chức bị ràng buộc bởi những

quy định chặt chẽ của pháp luật theo chức năng nhiệm vụ của tổ chức đó cho nên
cơ quan, tổ chức hoặc người đại diện của cơ quan, tổ chức đó không có quyền dùng
tài sản của pháp nhân, tổ chức vào việc để lại thừa kế theo ý chí của một hay nhiều
cá nhân mà việc định đoạt tài sản của họ phải tuân theo những quy định của pháp
luật đối với mỗi hình thức sở hữu cụ thể.
Việc định đoạt tài sản theo di chúc bắt nguồn từ mối quan hệ huyết thống,
tình cảm gắn liền với mỗi chủ thể và sự định đoạt tài sản hoàn toàn theo ý chí của
chính họ nên có thể khẳng định rằng quyền lập di chúc chỉ có thể là quyền của cá
nhân. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền để lại thừa kế theo di chúc của cá nhân


7

trên cơ sở ý chí đích thực và tự nguyện của người để lại di sản được thể hiện trong
di chúc hợp lệ.
Thứ hai, di chúc thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể
Tự do của con người luôn là mục đích cao cả của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Tự do ý chí là sự thể hiện của cá nhân về bản thân nhằm khẳng định sức mạnh
của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, là thuộc tính cố hữu của
con người khi thực hiện những nhu cầu vốn có và cần phải có của họ. Qua việc thể
hiện những gì bản thân mong muốn, con người trực tiếp khẳng định giá trị của mình
trong các mối quan hệ xã hội.
Người lập di chúc có ý định để lại tài sản của mình cho cá nhân, tổ chức hay
nhà nước, đó là một nguyện vọng hoàn toàn chính đáng. Di chúc là hình thức tuyên
bố công khai ý chí chủ quan của một chủ thể, kể cả khi hai vợ chồng lập di chúc
chung thì hai cá nhân đó cũng là một phía chủ thể để lại tài sản trong việc thực hiện
quyền định đoạt của chủ sở hữu và không gì có thể thúc ép, bắt buộc chủ thể lập di
chúc có những nội dung trái với ý chí chủ quan của họ. Đây cũng là một trong
những lý do mà một số bản di chúc chỉ được công bố khi người lập ra nó đã qua
đời.

Hơn nữa, dưới góc độ khoa học pháp lý, hành vi lập di chúc được coi là hành
vi pháp lý đơn phương và là giao dịch dân sự, do vậy các quy định của pháp luật về
giao dịch dân sự cũng được áp dụng đối với di chúc. Theo quy định tại Điểm c,
Khoản 1, Điều 122 BLDS 2005 thì:“Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện” nên di chúc phải là sự thể hiện ý chí tự nguyện, đích thực của người để lại
tài sản.
Việc xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể có liên quan trong
di chúc phụ thuộc vào ý chí của chủ thể lập di chúc. Cá nhân thể hiện ý chí tự
nguyện trong việc việc lập di chúc để định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho
ai, cho những gì hoặc cho bao nhiêu đều do người đó tự quyết định. Ý chí đích thực
của chủ thể được hiểu là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của chính
họ mà không thể bị chi phối, tác động bởi bất cứ yếu tố khách quan nào làm ảnh
hưởng đến khả năng nhận thức hoặc làm chủ ý chí của mình. Sự thể hiện ý chí của


8

người lập di chúc không bị pháp luật ngăn cấm, không ai có quyền can thiệp và cản
trở, ý chí của người lập di chúc chỉ bị kiểm soát bởi lý trí của họ.
Do vậy, người lập di chúc phải hoàn toàn làm chủ được lý trí của mình thì
mới đảm bảo tính đích thực và tự nguyện ý chí của họ trong việc lập di chúc, nói
cách khác, đó là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan bên trong của người để
lại di sản với việc bày tỏ ý chí ra bên ngoài bằng nội dung của di chúc.
Những di chúc có nội dung định đoạt tài sản, có hình thức phù hợp quy định
của pháp luật nhưng không thể hiện ý chí đích thực của người để lại di sản là không
thỏa mãn đặc điểm này của di chúc. Trong trường hợp người lập di chúc bị lừa dối,
nhầm lẫn, bị người khác chi phối hoặc lợi dụng tình trạng không nhận thức được
hành vi của chủ thể lập di chúc để họ ký tên, điểm chỉ vào bản di chúc thì sẽ không
được pháp luật thừa nhận.
Thứ ba, di chúc phải có nội dung định đoạt tài sản của người chết cho một

chủ thể khác
Trên thực tế, người lập di chúc thể hiện nhiều nội dung khác nhau trong di
chúc, có thể là việc phân chia tài sản, căn dặn con cháu phải thương yêu đùm bọc
lẫn nhau...Cũng có trường hợp, di chúc của người quá cố thể hiện mong muốn thế
hệ sau phải tiếp tục thực hiện một công việc mà sinh thời họ hằng theo đuổi hay
phải thực hiện một nghĩa vụ nào đó mà không đề cập đến tài sản. Về phương diện
lịch sử, xã hội có những bản di chúc có ý nghĩa vô cùng to lớn, vượt lên trên cả
phạm vi gia đình, dòng họ và trường tồn đối với một quốc gia như di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh:“…tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thiếu niên nhi đồng...”. Đó là một bản di chúc vô
giá về mặt tinh thần, tình cảm của dân tộc ta nhưng không nằm trong phạm vi đối
tượng điều chỉnh của Luật dân sự. Theo pháp luật dân sự thì quyền để lại tài sản cho
người khác thừa kế là một quyền năng quan trọng và di chúc là phương tiện để chủ
sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.
Trong cuộc sống, người lập di chúc thường mong muốn để lại của cải vật
chất mà họ đã chắt chiu tích lũy trong suốt cuộc đời cho những người có quan hệ
tình cảm, thân thích với mình. Người lập di chúc cũng mong muốn để lại tài sản của


9

mình cho thế hệ sau để những người được thừa kế tiếp tục phát triển khối tài sản đó
trong tương lai hoặc thờ cúng tổ tiên, tiếp nối, duy trì truyền thống của gia đình
dòng họ. Đó là những động cơ thúc đẩy ý nguyện của người để lại tài sản được hình
thành và thể hiện trong di chúc. Dưới góc độ là đối tượng điều chỉnh của Luật dân
sự thì di chúc là một văn bản ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối
liên quan với tài sản của người đã chết nên di chúc phải có nội dung định đoạt tài
sản từ người lập di chúc cho một chủ thể khác.
Thứ tư, di chúc chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật sau khi người lập di chúc
chết

Như trên đã đề cập, nội dung của di chúc là sự định đoạt tài sản của người
chết cho những người còn sống. Trong thực tế, sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể
này sang một chủ thể khác diễn ra với nhiều hình thức khác nhau như mua bán, tặng
cho, vay mượn...Trong những trường hợp này, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,
(thông thường là quyền sở hữu tài sản của chủ thể nhận chuyển dịch) phát sinh ngay
khi hợp đồng đươc giao kết hoặc tại thời điểm đăng ký (đối với các hợp đồng có đối
tượng là tài sản mà pháp luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu).
Tuy cũng có mục đích nhằm dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể
khác nhưng việc dịch chuyển tài sản theo ý chí của chủ thể trong di chúc chỉ có hiệu
lực pháp luật khi chủ thể lập di chúc chết. Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của
một cá nhân nên chừng nào người lập di chúc còn sống thì di chúc chưa phải là sự
thể hiện ý chí đích thực cuối cùng của họ; giữa người lập di chúc với di chúc đã lập
và người có quyền hưởng di sản theo di chúc không hề có một sự ràng buộc pháp lý
nào về quyền và nghĩa vụ theo di chúc. Đề cập đến mối quan hệ giữa nội dung di
chúc và quyền của người được hưởng di sản theo di chúc, chúng tôi nhất trí với
quan điểm cho rằng: “Di chúc chỉ ghi nhận cho họ một quyền nào đó trong di sản
của người lập di chúc, tức là một quyền mà sau này, người này sẽ để lại, nếu có để
lại...vì di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ theo ý chí của người
lập ra nó” [13, tr158]. Điều này đồng nghĩa với việc khi người lập di chúc chưa qua
đời thì người có quyền hưởng di sản theo di chúc không có bất kỳ một quyền năng
nào đối với tài sản của người lập di chúc cho dù bản di chúc này đã ghi nhận tài sản


10

đó sẽ được chuyển dịch cho họ. Quyền và nghĩa vụ của người được hưởng di sản
chỉ có thể phát sinh kể từ thời điểm người để lại di sản chết.
Bởi lẽ đó mà Khoản 1, Điều 633 BLDS 2005 quy định: “Thời điểm mở thừa
kế là thời điểm người có tài sản chết” và tại Khoản 1, Điều 667 BLDS cũng quy
định: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”.

Thứ năm, di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ
Do di chúc là sự tuyên bố của một phía chủ thể theo mong muốn của người
lập di chúc nên họ hoàn toàn tự do trong việc bày tỏ ý chí sau cùng của mình. Khác
với sự thể hiện ý chí trong quan hệ tặng cho thông thường, khi tài sản đã được định
đoạt thì quyền sở hữu được chuyển giao và người đã tặng cho không thể sửa đổi,
hủy bỏ hoặc thay thế ý chí tặng cho trước đó; trong quá trình lập di chúc, dù đã có
sự cân nhắc, soạn thảo công phu thì khi còn sống họ vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào theo ý chí của mình theo quy định tại Khoản 1 Điều
662 BLDS 2005, như một tác giả đã viết: “Cho đến khi trút hơi thở cuối cùng,
người có di sản có quyền sửa đổi những dự tính của mình, những quyết định của
mình mà chưa có hiệu lực và chưa được công bố” [13, tr159]. Nếu việc công bố di
chúc không nằm trong trường hợp quy định tại Điều 672 BLDS 2005 mà diễn ra
trong khi người lập di chúc còn sống thì theo chúng tôi, kể cả khi một người đã
công bố nội dung di chúc cho những người khác biết nhưng sau đó họ lại thay đổi
những nội dung đã công bố thì sự thay đổi ý chí đó vẫn được công nhận nếu như
không vi phạm các quy định của pháp luật về việc sửa đổi, bổ sung di chúc. Do vậy
Khoản 5, Điều 667 BLDS 2005 quy định: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc
đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật”.
Tuy nhiên, đối với di chúc chung của vợ chồng là trường hợp ngoại lệ theo
quy định tại Khoản 2, Điều 664 BLDS thì nếu một người đã chết, người vợ hay
chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần di sản của
mình và không có quyền thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã lập.
1.1.2. Thừa kế theo di chúc
Tại Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân”; theo đó, bất cứ ai có tài sản thuộc quyền sở


11

hữu hợp pháp của mình đều có quyền lập di chúc để lại di sản cho người thừa kế. Sự

thể hiện ý chí dịch chuyển di sản của một người đã chết cho người khác phải bằng một
di chúc hợp pháp. Người thừa kế theo di chúc là cá nhân phải còn sống (hoặc đã thành
thai khi người lập di chúc còn sống và sinh ra, còn sống sau khi người lập di chúc chết)
hoặc tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Xã hội càng văn minh, nguồn của
cải vật chất sản xuất ra ngày một nhiều thì ý định làm cho khối tài sản của một gia
đình, dòng họ được kế tục và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác là mong ước
chính đáng và là một thực tế khách quan.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng thừa kế theo di chúc “là việc chuyển
tài sản của người đã chết cho những người thừa kế theo ý chí tự nguyện của người để
lại di sản thể hiện trong di chúc” [30, tr252]. Pháp luật của Nhà nước ta tôn trọng
quyền dân sự của công dân, trong đó có quyền tự định đoạt của người lập di chúc
bằng việc đảm bảo cho di chúc hợp pháp được thực hiện.
Tuy nhiên, “Về mặt pháp lý, thừa kế được xác định là sự dịch chuyển quyền
sở hữu tài sản từ người để lại thừa kế sang người thừa kế nhưng thực chất lại thể
hiện quan hệ giữa những người thừa kế trong việc chiếm hữu, hưởng dụng tài sản
thừa kế và những lợi ích khác phát sinh từ tài sản đó như thế nào” [36, tr57] nên
lợi ích của mỗi cá nhân phải được bảo vệ trên cơ sở lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
xã hội nên sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền thừa kế không phải là tuyệt đối.. Do
vậy mà pháp luật tác động vào quan hệ giữa những người thừa kế bằng các quy định
hạn chế quyền tự định đoạt của người lập di chúc để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho
các thành viên trong gia đình, xóa bỏ những tư tưởng tàn dư của chế độ phong kiến.
Bên cạnh việc tôn trọng quyền định đoạt tài sản của cá nhân, pháp luật cũng có
sự điều chỉnh chặt chẽ để hạn chế tranh chấp xảy ra. Do vậy, việc một người để lại
tài sản cho chủ thể nào và với mục đích gì ngoài ý chí của họ thì còn phải xem xét
trong mối tương quan với lợi ích xã hội, có như vậy mới phát huy được vai trò tích
cực của cá nhân và gia đình trong việc xây dựng một xã hội giàu mạnh, văn minh.
1.2. Điều kiện có hiệu lực của di chúc


12


Điều kiện có hiệu lực của di chúc là những quy định của pháp luật mà một di
chúc phải đáp ứng để được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Để
được coi là di chúc hợp pháp, di chúc phải thỏa mãn các điều kiện sau:
1.2.1 . Điều kiện về năng lực chủ thể của người lập di chúc
Cá nhân là một trong những chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật dân sự.
Tuy quyền dân sự của mọi cá nhân đều bình đẳng nhưng tùy thuộc vào năng lực chủ
thể của họ mà pháp luật quy định cho họ được tham gia vào những quan hệ pháp
luật dân sự với tính chất mức độ khác nhau. Như chúng tôi đã đề cập trên đây, chủ
thể có quyền lập di chúc chỉ có thể là cá nhân. Vấn đề cốt lõi của di chúc là định
đoạt tài sản của chủ thể cho người khác bằng một di chúc hợp pháp. Sự thể hiện ý
chí của chủ thể trong di chúc không chỉ là phương thức để thực hiện quyền sở hữu
đối với tài sản của người đó mà còn là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể có liên quan.
Quyền lợi của những người được hưởng di sản theo di chúc (và cả người
thừa kế theo pháp luật) phụ thuộc phần lớn vào nội dung và tính hợp pháp của di
chúc cho nên việc định đoạt tài sản theo di chúc có ý nghĩa và sự tác động đến các
quan hệ xã hội ở một phạm vi nhất định, không chỉ trong phạm vi một gia đình. Do
vậy, để trở thành chủ thể lập di chúc, cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu của pháp
luật về độ tuổi, nhận thức và khả năng làm chủ hành vi.
Theo quy định tại Điều 14 BLDS 2005 thì “Năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân là khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” và theo Điều 17
BLDS 2005 thì “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự của cá nhân tạo thành năng lực chủ thể của cá nhân. Với tư
cách là một thực thể xã hội, mỗi cá nhân có mức độ năng lực hành vi và năng lực
pháp luật khác nhau do vậy không phải cá nhân nào cũng có đủ năng lực chủ thể để
trở thành chủ thể lập di chúc.
Vấn đề này đã được quy định khá cụ thể tại các văn bản pháp luật trước khi
BLDS 1995 được ban hành:



13

Tại phần thứ tư Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn về
thừa kế theo di chúc quy định:“Người lập di chúc có đầy đủ năng lực hành vi và tự
nguyện lập di chúc”.
Tiếp đó, tại Điều 12 Pháp lệnh Thừa kế 1990 quy định về năng lực chủ thể
của người lập di chúc như sau: “Di chúc hợp pháp phải do người từ đủ 18 tuổi trở
lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định
của pháp luật, hoặc có thể do người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi tự
nguyện lập trong khi minh mẫn, được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu,
không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật”.
Pháp luật của nhà nước ta hiện nay tiếp tục ghi nhận và bảo hộ quyền lập di
chúc để lại thừa kế tài sản của cá nhân. Trên cơ sở mức độ hoàn chỉnh của năng lực
pháp luật và năng lực hành vi, năng lực chủ thể của người lập di chúc được quy
định tại Điều 647 BLDS 2005 như sau:
- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nếu được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên và có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia toàn bộ các giao dịch dân sự, bao gồm cả
việc lập di chúc. Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không làm chủ
được hành vi của mình là người mất năng lực hành vi dân sự thì không thể lập di
chúc. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được coi là người có năng lực hành
vi dân sự một phần thì khi lập di chúc phải bằng hình thức văn bản và phải được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý cho lập di chúc.
Dưới góc độ điều kiện của một di chúc hợp pháp, Điều 652 BLDS quy định

trạng thái tinh thần của người lập di chúc là phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc. Minh mẫn là “có khả năng nhận thức nhanh, rõ ràng và ít nhầm lẫn” [52,
tr 633] còn sáng suốt là “có khả năng nhận thức rõ ràng và giải quyết vấn đề đúng
đắn” [52, tr 847].


14

Như vậy, BLDS 2005 đã kế thừa và phát huy những điểm hợp lý trong các
quy phạm pháp luật trước đó và quy định về năng lực chủ thể của người lập di chúc
một cách rõ ràng và chặt chẽ hơn, đảm bảo cho di chúc thực sự là một “tác phẩm”
thể hiện cả tư duy và tình cảm của người để lại tài sản.
1.2.2. Điều kiện về sự tự nguyện của người lập di chúc
Pháp luật quy định cho mỗi cá nhân quyền tự do, bình đẳng trong các mối
quan hệ xã hội.“Tự do của một con người, đó là sự tự quyết định của nó. Tự do
được hiểu như là sự tồn tại và bảo đảm một phạm vi riêng tư trong mỗi người làm
chủ lấy bản thân mình, tự do hành động nghĩa là có quyền hay có khả năng thực
hiện một phạm vi nào đó. Tự do ở đây đồng nghĩa với không bị cấm hay được
phép” [27, tr 97].
Theo ý nghĩa triết học thì tự do là tất cả những hành động chủ quan của con
người tuân theo quy luật khách quan nhưng không bị chi phối và áp đặt bởi một lực
lượng bên ngoài nào, theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì mọi giao dịch
dân sự đều phải tuân thủ nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận”.
Tại Điều 17 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định:“Di chúc viết tay không
có chứng thực, xác nhận như quy định tại các điều 14, 15, 16 của Pháp lệnh này chỉ
được coi là di chúc hợp pháp nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập
trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.”
BLDS 2005 quy định về sự tự nguyện của người lập di chúc tại Điều 652,
theo đó thì di chúc chỉ được coi là hợp pháp khi người lập di chúc không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép.

Sự tự nguyện của người lập di chúc phải được pháp luật ghi nhận bởi vì di
chúc bày tỏ sự tự do ý chí của chủ sở hữu trong việc định đoạt tài sản; đó là mong
muốn chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi người đó chết. Do vậy, ý chí
được thể hiện trong di chúc phải chính là mong muốn chủ quan của người lập di
chúc và không bị chi phối, tác động bởi bất kỳ một yếu tố nào khác. Người lập di
chúc phải hoàn toàn làm chủ được hành vi của mình. Sự tự nguyện trong việc lập di
chúc thể hiện ở sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, chỉ khi nguyện vọng,
mong muốn chủ quan (trong suy nghĩ) của người lập di chúc như thế nào và được


15

thể hiện ra bên ngoài bằng nội dung di chúc đúng như thế thì đó mới là ý chí tự
nguyện của người lập di chúc.
Hiện nay vẫn có những quan điểm trái ngược về trường hợp người lập di
chúc có sự nhầm lẫn trong khi lập di chúc, bởi khi có tranh chấp thì người lập di
chúc đã chết nên rất khó có căn cứ xác định người lập di chúc đã nhầm lẫn. Tuy
nhiên, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng những người thừa kế có quyền đưa
ra chứng cứ để chứng minh sự nhầm lẫn của người lập di chúc. Ví dụ: Khi lập di
chúc người lập di chúc đã tính sai giá trị tài sản nên phân định không đúng thực tế;
khi có tranh chấp, những người thừa kế phát hiện và chứng minh được sự nhầm lẫn
đó thì di chúc này cũng bị coi là không có sự tự nguyện của người lập di chúc.
Sự lừa dối trong việc lập di chúc cũng tương tự như sự lừa dối trong giao
dịch dân sự. Đó là trường hợp người để lại di sản bị người khác cố ý tác động để họ
nhận thức sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng, nội dung của giao dịch dân
sự nên đã thể hiện ý chí của mình trong di chúc không đúng với mong muốn của họ.
Sự đe dọa trong xác lập giao dịch dân sự cũng như trong việc lập di chúc là
hành vi của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia phải xác lập giao dịch hoặc
lập di chúc theo ý chí của người đe dọa. Sự đe dọa cưỡng ép có thể là tác động về
mặt vật chất hoặc tinh thần. Để tránh cho bản thân và các thành viên trong gia đình

bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản hoặc uy tín mà
người tham gia giao dịch đã phải hành động trái với ý chí của mình.
Những di chúc có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng ép nói trên hoặc có sự tác động
để người lập di chúc ký tên, điểm chỉ vào bản di chúc trong khi họ không thống
nhất hoặc không được biết về nội dung được thể hiện trong đó hoặc di chúc được
lập trong trạng thái chủ thể không nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình
như say rượu, dùng chất kích thích thì đều bị coi là những di chúc bất hợp pháp.
1.2.3. Điều kiện về mục đích và nội dung của di chúc
Mục đích của di chúc hướng đến việc để lại tài sản thuộc sở hữu của người
lập di chúc cho một chủ thể khác, ý chí đó được thể hiện trong di chúc. Nội dung di
chúc là những mong muốn, nguyện vọng của người lập di chúc được thể hiện trong
đó.


16

Về mặt pháp lý, nội dung di chúc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của những
người được hưởng di sản theo di chúc và có thể kèm theo những điều kiện, nghĩa vụ
mà người lập di chúc giao cho những người đó. Để được pháp luật công nhận và
bảo vệ, di chúc phải có nội dung không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội
(Khoản1 Điều 652 BLDS 2005)
Như chúng ta đã biết, tự do của con người trong xã hội là sự nhận thức được
cái tất yếu, mọi tất yếu đều là khách quan. Tuy nhiên, con người là kẻ sáng tạo ra
lịch sử nhưng đồng thời cũng bị chi phối bởi lịch sử. Điều đó hoàn toàn cần thiết vì
Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ xã hội bằng pháp luật - đó chính là chuẩn
mực của sự tự do, pháp luật là khuôn phép giới hạn những hành động có hại cho
cộng đồng của con người, như Monteskio đã viết:“Tự do có nghĩa là có thể làm tất
cả những gì mà không gây hại cho người khác” [27, tr97].
Pháp luật là công cụ nhằm điều chỉnh hành vi mà các chủ thể buộc phải tuân
theo để đảm bảo sự ổn định của xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc tự do phải

tuân theo một khuôn khổ nhất định, một sự tất yếu phổ biến, một giới hạn nào đó
nên trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội thể hiện qua việc lập di chúc thì lợi
ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác
cũng phải được bảo đảm. Nói cách khác “trong luật dân sự, người ta phải hiểu
quyền tự định đoạt của người để lại thừa kế trong quan hệ thừa kế nói riêng là
quyền tự định đoạt trong khuôn khổ pháp luật” [36, tr57-58.]
Một di chúc hợp pháp còn phải thỏa mãn điều kiện không trái đạo đức xã
hội. Đạo đức xã hội là “Tổng hợp những tiêu chuẩn, nguyên tắc ứng xử cộng đồng,
trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục được hình thành từ lối sống cộng đồng và
được dư luận xã hội công nhận” [17, tr52]. Mặc dù không có tính cưỡng chế thực
hiện như pháp luật của Nhà nước nhưng đạo đức là sự điều chỉnh hành vi của xã hội
đối với cá nhân ở mức độ cao và được con người tự giác thực hiện. Pháp luật và đạo
đức đều có chung một mục đích là điều chỉnh hành vi của con người sao cho phù
hợp với những quy tắc xử sự chung. Di chúc hợp pháp phải có nội dung không trái
với những chuẩn mực đạo đức, những điều cấm của pháp luật và thuần phong mỹ
tục, truyền thống đạo lý của dân tộc.


17

Theo đó, người lập di chúc không được thể hiện ý chí định đoạt một tài sản
cấm lưu thông hay chuyển dịch tài sản của mình cho những cá nhân, tổ chức phản
động chống phá Nhà nước, cho vật nuôi...Nội dung của di chúc cũng không được
đặt ra cho người thừa kế phải thực hiện những điều kiện, những việc làm vi phạm
pháp luật và đạo đức như phải trả thù người có mâu thuẫn với người lập di chúc...
1.2.4. Điều kiện về hình thức của di chúc
Ngoài những quy định về nội dung thì hình thức của di chúc cũng là một
trong những điều kiện để đánh giá tính hợp pháp của di chúc. Do ý nghĩa và tầm
quan trọng của di chúc trong mối quan hệ chuyển dịch tài sản từ người đã chết sang
một chủ thể khác nên pháp luật quy định di chúc phải được thể hiện bằng một hình

thức nhất định.
1.2.4.1. Di chúc văn bản
Hình thức của di chúc đã được biết đến trong cổ luật Việt Nam, Điều 366 Bộ
luật Hồng Đức quy định:”Những người lập chúc thư văn khế mà không nhờ quan
trưởng trong làng viết thay và chứng kiến thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo
việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì
được”.
Hiện nay BLDS cho phép người lập di chúc quyền sử dụng văn bản (hình
thức viết) hoặc bằng lời nói để thể hiện ý nguyện của mình. Tùy từng điều kiện,
hoàn cảnh khách quan diễn ra việc lập di chúc, Điều 650 BLDS 2005 quy định các
hình thức văn bản của di chúc:
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
+ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn
+ Di chúc bằng văn bản có công chứng.
Đối với các di chúc bằng văn bản Điều 653 BLDS quy định phải ghi rõ:
- Ngày tháng năm lập di chúc: đây là cơ sở quan trọng để đánh giá năng lực
chủ thể của người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc về độ tuổi đã đủ hay chưa, có
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và minh mẫn sáng suốt hay không? Trong
trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc khác nhau thì ngày tháng năm lập di


18

chúc là một trong những căn cứ để xác định bản di chúc nào là bản di chúc sau cùng
của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc không ghi rõ ngày, tháng, năm nhưng không có ai tranh
chấp về vấn đề này, nội dung di chúc không trái với những bản di chúc khác (nếu
có) thì theo quan điểm của chúng tôi vẫn có thể coi là di chúc hợp pháp.
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc: là căn cứ để xác định thẩm

quyền giải quyết của tòa án theo lãnh thổ khi có tranh chấp xảy ra.
- Họ, tên của người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ
các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
Do di chúc thể hiện ý chí tự nguyện của người để lại di sản nên có thể người
được hưởng di sản trong di chúc không phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng với người lập di chúc mà là bất kỳ ai, là cơ quan, tổ chức hay nhà
nước. Để tạo thuận lợi cho các chủ thể khi phân chia di sản theo di chúc, hạn chế
các tranh chấp có thể xảy ra, pháp luật yêu cầu người lập di chúc phải ghi rõ họ, tên
của chủ thể được hưởng di sản và được hưởng những gì.
Những người được chỉ định rõ trong di chúc đương nhiên là người có quyền
hưởng di sản theo di chúc, song cũng có trường hợp người lập di chúc không ghi rõ
họ tên người được hưởng di sản nhưng vẫn có căn cứ để khẳng định đó là người
được nhắc đến trong di chúc thì người này cũng được hưởng di sản theo di chúc.
Ví dụ: Bà T cho X đi làm con nuôi từ khi mới sinh ra. Khi về già, bà T lập di
chúc có nội dung: “cho đứa con gái đã phải xa nhà từ nhỏ 1/3 tài sản của tôi” thì
vẫn có căn cứ để xác định nội dung di chúc trên là hợp pháp.
- Di sản để lại và nơi có di sản: Cũng là một trong những yếu tố để đảm bảo
quyền lợi cho người được hưởng di sản trong trường hợp những người này không
biết cụ thể về khối di sản và nơi để lại di sản đó. Việc xác định được địa điểm di sản
đang tồn tại giúp cho các chủ thể thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ của mình và còn
là căn cứ xác định địa điểm mở thừa kế.
Về vấn đề này, Thái Công Khanh (2006) còn cho rằng những di chúc có nội
dung như: “Tôi để lại toàn bộ tài sản cho con tôi là A...” hoặc: “Tôi để lại toàn bộ
nữ trang của tôi cho cháu tôi là X…” trong pháp luật các nước coi là di chúc diễn


19

đạt rõ ràng và được công nhận. Pháp luật nước ta cũng nên công nhận những di
chúc được diễn đạt ngắn gọn nhưng nội dung rõ ràng, dễ thực hiện vì nó rất thuận

lợi cho người lập di chúc khi họ có tài sản ở nhiều nơi, nhiều nước khác nhau [21,
tr4]. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này, do vậy trường hợp tài sản là
phương tiện giao thông đang hoạt động hoặc đang bị thất lạc mà người lập di chúc
không biết rõ địa điểm hiện có di sản thì di chúc này cũng không vi phạm pháp luật.
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ: đây là
nội dung thể hiện rõ nét quyền của người lập di chúc đối với những người thừa kế.
Theo ý chí của mình, họ có quyền giao cho người thừa kế những nghĩa vụ có thể
được thực hiện một lần hoặc kéo dài không xác định được thời điểm kết thúc.
Người lập di chúc có thể giao cho một, một số hoặc tất cả những người thừa
kế thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ. Ai là người phải thực hiện nghĩa vụ và nghĩa
vụ đó là gì phải được ghi rõ như trả nợ hoặc phải thực hiện một công việc (xây nhà
thờ họ, bốc mộ, nuôi dưỡng một người...). Đối với nghĩa vụ về tài sản thì những
người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mỗi người được
hưởng. Nếu chỉ một số người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà nghĩa vụ đó vượt
quá phần di sản họ được hưởng thì sẽ phải trích thêm từ phần di sản của những
người thừa kế khác để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ.
- Để nội dung di chúc được rõ ràng, dễ hiểu thì người lập di chúc không
được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu...Nhưng nếu di chúc có chữ viết tắt, viết bằng
ký hiệu, bằng tiếng nước ngoài mà những người thừa kế hiểu được và nhất trí công
nhận thì vẫn coi là di chúc hợp pháp.
Đối với di chúc gồm nhiều trang thì người lập di chúc phải đánh số thứ tự và
ký vào từng trang để tránh bị thay thế, giả mạo hoặc thay đổi nội dung di chúc trái
với ý chí của người lập di chúc.
Ngoài ra, đối với mỗi loại di chúc bằng văn bản lại phải đáp ứng được các
yêu cầu khác nhau như sau:
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Nếu người lập di chúc không
thể tự viết được thì có thể nhờ người khác viết và phải có ít nhất hai người làm
chứng; người lập di chúc phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước sự chứng



20

kiến của hai người làm chứng. Những người làm chứng ký vào bản di chúc để xác
nhận chữ ký, điểm chỉ đó là của người lập di chúc.
- Di chúc có công chứng hoặc chứng thực: Theo Điều 2 của Luật Công
chứng thì: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực và tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi chung là hợp đồng, giao dịch)
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Nếu di chúc được lập tại cơ quan công chứng hoặc trụ sở UBND xã, phường,
thị trấn thì người lập di chúc phải tuyên bố nội dung di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBDN xã, phường, thị trấn. Người có
thẩm quyền công chứng, chứng thực phải ghi chép lại nội dung đó, người lập di
chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận di chúc đã được ghi chép
chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Sau đó công chứng viên hoặc người
chứng thực mới ký vào bản di chúc.
Nếu người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc,
không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này
phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của UBND xã, phường, thị trấn. Sau đó công chứng viên hoặc người chứng thực
chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Mục đích của thủ tục công chứng, chứng thực là để các cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra tính xác thực và tính hợp pháp của việc lập di chúc như: tài sản phải
thuộc sở hữu của người lập di chúc, nội dung di chúc có hợp pháp hay không. Nếu
di chúc có điểm gì sai sót, nhầm lẫn thì người lập di chúc sẽ được giải thích, hướng
dẫn để đảm bảo cho di chúc được lập có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Điều 660 BLDS 2005 quy định 6 loại di chúc bằng văn bản trong
những trường hợp đặc biệt có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực.
1.2.4.2. Di chúc miệng
Di chúc miệng là một trong những hình thức di chúc được ghi nhận trong

pháp luật một số nước. Ví dụ: Điều 976 BLDS Nhật Bản quy định về điều kiện, thủ
tục lập di chúc miệng rất chặt chẽ: “Trong trường hợp một người đang đứng trước


21

sự nguy hiểm do bệnh tật hay nguyên nhân khác muốn lập di chúc thì có thể làm
việc đó với ít nhất ba nhân chứng bằng cách đọc bằng miệng nội dung của di chúc
cho một trong số họ. Trong trường hợp này người được đọc cho nghe phải ghi chép
và từng nhân chứng sau khi tin chắc những văn bản được chép đúng phải ký và
đóng dấu vào đó.
Di chúc thực hiện phù hợp với các quy định ở phần trên sẽ không có hiệu lực
chừng nào trong phạm vi 20 ngày kể từ ngày lập di chúc mà không có ai trong số
các nhân chứng hoặc người có liên quan đến yêu cầu Toà hôn nhân gia đình xác
nhận di chúc đó. Tòa Hôn nhân gia đình có thể không xác nhận di chúc đó chừng
nào chưa tin chắc rằng nó phản ánh ý muốn thực sự của người lập di chúc.”
Như vậy, pháp luật Nhật Bản quy định rõ di chúc miệng phải có từ ba người
làm chứng trở lên, người lập di chúc phải đọc bằng miệng nội dung di chúc, sau 20
ngày di chúc phải được Tòa Hôn nhân gia đình xác nhận.
Trong pháp luật dân sự Việt Nam, di chúc miệng là “Di chúc bằng lời nói
(thường gọi là lời trăng trối lúc lâm chung) của người bị cái chết đe dọa do bệnh
tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản”[17, tr49].
Khác với hình thức viết, trong những trường hợp do bệnh tật hay tai nạn, sự cố…
tính mạng bị đe dọa, người lập di chúc có quyền thể hiện ý chí bằng lời nói để lại di
sản của mình cho chủ thể khác sau khi chết và di chúc này có hiệu lực pháp luật
(Điều 651 BLDS 2005). Tuy nhiên, chỉ trong trường hợp đặc biệt, ngoài lời nói ra
không có cách nào khác thể hiện ý chí của mình thì hình thức di chúc miệng mới
được pháp luật công nhận.
Về hạn chế của hình thức di chúc này có tác giả nhận xét: “di chúc miệng là
một loại di chúc mà nó không có cơ sở vững chắc về chứng cứ, khi có tranh chấp

xảy ra thì cơ sở để giải quyết rất khó” [47, tr37]. Chúng tôi không hoàn toàn nhất
trí với quan điểm này vì khoản 5 điều 652 BLDS 2005 quy định: Người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và
ngay sau đó những người này ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ, trong thời
hạn 05 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, di chúc phải
được công chứng hoặc chứng thực (có nghĩa là di chúc phải được thể hiện bằng văn


×