Lời nói đầu
Mười bốn năm lén lút xả thải trực tiếp xuống dòng sông Thị Vải, hàng
trăm nghìn m
3
chất thải không qua xử lí đã được thải xuống dòng sông, hai năm
liền chối cãi trách nhiệm, dây dưa tiền bồi thường, cuối cùng Vedan cũng đã
phải chấp nhận bồi thường 100% yêu cầu của nhân dân ba tỉnh thành phố Bà rịa-
Vũng Tàu, Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh. Có người đã nói “Cái thiện đã chiến
thắng cái ác”, “Nhân dân đã chiến thắng Vedan”, tiền bồi thường đã được chi,
Vedan đã phải nhượng bộ, thế nhưng, trong “chiến thắng” đó, còn bao nhiêu vấn
đề vẫn còn bỏ ngỏ, bao câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời, bao thiếu sót vẫn đang
chờ đợi phải khắc phục. Dưới góc nhìn của một sinh viên Luật, trong phạm vi
một bài tiểu luận cuối kì, với đề tài “Bình luận các quy định và thực tiễn giải
quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại”, em xin đưa ra một số ý kiến của em
xung quanh vấn đề tranh chấp bồi thường thiệt hại xung quanh vụ Vedan, qua
đó mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn
đề tranh chấp bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường nói riêng cũng như
pháp luật bảo vệ môi trường nói chung.
I. Vấn đề nguyên đơn trong vụ việc Vedan- lỗ hổng pháp lý
hay sự lúng túng của cơ quan chức năng
1. Hơn 8000 đơn kiện- mở 8000 phiên tòa xét xử?
Vụ Vedan cho thấy sự yếu kém của hệ thống pháp lý đang vận hành, nói
riêng về phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân. Dù
vẫn cảm nhận được mối liên hệ nguyên nhân - hệ quả giữa hành vi xả chất thải
chưa xử lý và những thiệt hại vật chất nhưng con đường đi tìm công lý của
những người bị thiệt hại vẫn cứ gập ghềnh, mấp mô bởi những vật cản do chính
cơ chế tạo ra.
1
Chồng đơn kiện Vedan của nhân dân
huyện Tân Thành (BT-VT).
(ảnh vnexpress.net)
Trở lại vụ Vedan, theo thống kê có 9.973
(1)
hộ dân bị ảnh hưởng với những
mức độ khác nhau và đã có hơn 8000 đơn
kiện, mỗi đơn kiện, mỗi người bị thiệt hại
mất một phần tài sản của riêng mình. Trên
nguyên tắc, chính người bị thiệt hại phải đi
kiện, từng người một, để đòi trả lại cho
mình những gì đã mất. Luật hiện hành chỉ
mở ra khả năng đó cho các nạn nhân của
Vedan.
Ngay cả trong trường hợp tất cả nông
dân bị thiệt hại ủy quyền cho hội nông dân
đi kiện thay mình thì cũng không thể có một
vụ kiện chung. Người được ủy quyền không
đại diện cho tập thể người ủy quyền mà chỉ
đại diện cho mỗi người. Tòa án vẫn phải thụ lý chừng đó vụ án chứ không thể
làm khác. Dù, một cách trớ trêu, trong từng vụ chỉ có một người xuất hiện trong
tư cách nguyên đơn và cũng chỉ một người ở bên kia trong tư cách bị đơn.
Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về chủ thể được khởi kiện vì lợi
ích công nhưng lại không hề đề cập đến những trường hợp cụ thể như vụ Vedan.
Cạnh đó, các quy phạm pháp luật về quyền khởi kiện do thiệt hại bởi ô nhiễm
môi trường, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm… cũng rất sơ sài. Trong khi các
vụ việc có tính chất tương đồng nhau, thiệt hại do cùng một chủ thể gây ra hoàn
toàn có thể gộp lại để xem xét nhằm giảm bớt gánh nặng cho hệ thống tòa, giảm
bớt tốn kém cho các bên tham gia tố tụng.
Trong thời gian tới, các dạng tranh chấp kiểu này sẽ không còn là chuyện
cá biệt. Để giải quyết triệt để, các nhà làm luật cần phải có sự sửa đổi, bổ sung
luật. Đó là mở rộng quy định thêm hình thức khởi kiện tập thể trong một số
trường hợp đặc biệt như kiểu Vedan. Chỉ có như vậy thì quyền lợi người dân
mới được đảm bảo, đúng như mục tiêu và bản chất của một hệ thống luật nói
chung mà chúng ta đang hướng tới.
2
(1) Theo số liệu tại />Trong vụ Công ty Vedan xả thải, các bên đang cần có hướng dẫn tạm thời
của TAND Tối cao để đơn giản hóa các thủ tục tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Nhưng do pháp luật tố tụng
dân sự chưa có quy định nên chắc chắn sẽ rất khó khăn để hướng dẫn của TAND
Tối cao vừa đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật, vừa đảm bảo được
quyền lợi của người dân.
Trước yêu cầu cấp thiết hiện nay, trước mắt chúng ta nên đưa ngay cơ chế
khởi kiện tập thể và ghi nhận chủ thể được khởi kiện tập thể vào trong Luật Bảo
vệ người tiêu dùng có thể được Quốc hội thông qua trong thời gian tới đây. Như
vậy, nếu trong thời gian sắp tới có xảy ra các tranh chấp liên quan đến nhà sản
xuất và người tiêu dùng thì cơ quan tố tụng có thể vận dụng luật chuyên ngành
này để xử lý.
Nếu có sự thay đổi cụ thể từ phía cơ quan chức năng trong việc hoàn thiện
các quy phạm pháp luật sẽ tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động tố tụng của tòa
cũng như các bên liên quan. Đối với tòa, khi có cơ chế khởi kiện mới chắc chắn
các tòa sẽ giảm được sự quá tải hiện nay, giảm cho ngân sách một khoản chi phí
khá lớn trong quá trình giải quyết nhiều vụ án tương tự nhau. Việc áp dụng cũng
sẽ phù hợp với Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự về việc nhập nhiều vụ án có tính
chất giống nhau thành một vụ án… Đối với các bên tham gia tố tụng sẽ tránh
được việc tốn kém về thời gian, tiền bạc không đáng có, tâm lý ngán ngại kiện
tụng cũng sẽ được khắc phục phần nào…
Một vấn đề tích cực rất lớn nếu áp dụng cơ chế khởi kiện tập thể là sự đánh
động vào ý thức, trách nhiệm đối với xã hội của những tổ chức, cá nhân có thể
gây thiệt hại cho số đông người dân. Qua cơ chế kiện tập thể, những người bị
thiệt hại sẽ dễ dàng hơn trong việc đòi bồi thường trong khi người gây thiệt hại
sẽ phải gánh chịu những tổn thất rất lớn do hành vi của mình gây ra.
2. Người dân đòi quyền lợi cho chính mình! Ai sẽ đứng ra đòi quyền lợi
cho dòng Thị Vải- Phải chăng Nhà nước đã quên đòi Vedan bồi thường
Theo Điều 74 Hiến pháp (năm 1992), mọi hành vi xâm hại lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được xử lý
3
nghiêm. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường. Cụ thể hơn, Điều 130
Luật Bảo vệ Môi trường (2005), nêu thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
gồm thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường (còn gọi là
thiệt hại đối với môi trường tự nhiên). Chủ thể gắn liền với thiệt hại này là nhà
nước hoặc các cộng đồng dân cư. Một loại thiệt hại khác là về sức khỏe, tính
mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do suy
giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Chủ thể gắn với thiệt hại này là
các tổ chức, cá nhân cụ thể. Trong đó, thiệt hại thứ hai là thiệt hại gián tiếp, phái
sinh từ thiệt hại thứ nhất.
Có khi hai loại thiệt hại này trùng lắp như sự suy giảm nguồn lợi thủy sinh
tại vùng sông cũng đồng thời là sự giảm sút về thu nhập của người dân ở khu
vực đó. Nhưng trong việc Vedan gây ô nhiễm đã xảy ra cùng lúc cả hai loại thiệt
hại. Bởi Điều 131 Luật Bảo vệ Môi trường đã liệt kê: thiệt hại về môi trường
gồm thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích; chi
phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường và chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu
nguồn gây thiệt hại.
Trở lại với vụ việc, Vedan cố tình gây ô nhiễm suốt 14 năm và chỉ dừng lại
(về lý thuyết, còn thực tế có thể khác) sau khi bị phát hiện quả tang.
Sau đó, Vedan đã bị truy thu hơn 127 tỉ đồng phí bảo vệ môi trường. Hiện
người dân ùn ùn nộp đơn kiện Vedan ra tòa, yêu cầu bồi thường. Chính quyền
các địa phương hỗ trợ tích cực người dân đòi lại một phần công bằng.
Tuy nhiên, theo nguyên tắc kẻ gây ô nhiễm phải chi trả (Polluter pays
principle), ngay cả khi Vedan tự nguyện (hoặc bị tòa án tuyên) chấp nhận các
yêu cầu bồi thường của người dân thì vẫn chưa đủ. Vedan phải bồi thường cho
một loại thiệt hại khác, là thiệt hại về môi trường. Nguyên tắc này không xa lạ vì
nó đã được cụ thể hóa trong các quy định đang có hiệu lực của nước ta.
Cả hai loại thiệt hại đã nêu đều có chung thời hiệu khởi kiện là hai năm kể
từ hành vi gây thiệt hại được xác định hợp pháp (theo Bộ Luật Tố tụng Dân sự
2004). Vedan bị lập biên bản vi phạm vào ngày 13-9-2008, nên ngày cuối cùng
mà người dân (chủ thể của thiệt hại thứ hai) và nhà nước (chủ thể của thiệt hại
4
về môi trường) có thể khởi kiện là 12-9-2010. Nhưng hiện nay, chỉ có người dân
khởi kiện, đòi bồi thường cho thiệt hại thứ hai mà thôi.
Trong khi đó, ngày cuối cùng nộp đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại về môi
trường đã cận kề nhưng chưa thấy cơ quan nhà nước có trách nhiệm nào lên
tiếng, tuyên bố đứng nguyên đơn kiện Vedan. Phải chăng, Nhà nước đang
"quên" đòi Vedan bồi thường thiệt hại về môi trường tự nhiên.?
Nhà nước đây là ai?
Tương tự người dân, nhà nước muốn đòi Vedan bồi thường thì phải có đủ
các điều kiện: có thiệt hại xảy ra, có hành vi gây thiệt hại và mối quan hệ giữa
hành vi với thiệt hại. Chúng ta không phải phân vân về căn cứ kiện Vedan nữa,
mà cần xác định cụ thể chủ thể "nhà nước" có quyền kiện Vedan đòi bồi thường
thiệt hại về môi trường là đơn vị nào?
Theo Khoản 2, Điều 56 Bộ Luật Tố tụng Dân sự và Phần I, Mục 2 Nghị
quyết 02 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 12-5-2006, cơ quan, tổ
chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự (tức nguyên đơn), yêu cầu bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích nhà nước phải có chức năng quản lý nhà nước và lợi ích yêu
cầu bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do mình phụ trách.
Về phương diện quản lý nhà nước, các Điều 121, 122 Luật Bảo vệ Môi
trường quy định quyền hạn quản lý nhà nước về môi trường gồm Chính phủ, các
bộ và UBND các cấp chứ không phải là Sở Tài nguyên - Môi trường (là cơ quan
giúp việc). Tại Điều 62 luật này cũng ghi rõ, khi có thiệt hại về môi trường,
UBND tỉnh nơi xảy ra thiệt hại có trách nhiệm phối hợp với cơ quan hữu quan
để điều tra, đánh giá thiệt hại và yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường.
Theo Bộ Luật Dân sự, Tố tụng Dân sự thì ba địa phương là Đồng Nai, Bà Rịa -
Vũng Tàu và TP.HCM đều có quyền kiện, yêu cầu Vedan bồi thường thiệt hại
về môi trường.
Vedan là thủ phạm số 1 gây ô nhiễm sông Thị Vải khiến nhiều chủ tàu từ
chối cập cảng Đồng Nai, khiến doanh thu hoạt động ngành du lịch của Bà Rịa
Vũng Tàu bị suy giảm và nhà nước phải tốn kém chi phí tái tạo môi trường tự
5