Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.91 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH ĐỨC MINH

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ VIỆC
XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Vân Anh

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Vân Anh, giám đốc trung tâm
pháp luật cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Trường Đại học Luật
Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được tỏ lòng tri ân tới các thầy cô giáo trường Đại học Luật
Hà Nội, những người thân trong gia đình, những người bạn đã luôn đã ủng hộ,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn.


1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH ....................................................................................................... 9
1.1.Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh ............................................. 9
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh............................................... 9
1.1.2 Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh .......................... 11
1.1.3 Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh................................. 12
1.2.Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh............... 14
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh ở một số nước trên thế giới .............................................. 14
1.2.1.1. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ: .................... 14
1.2.1.2. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật Bản: ................. 15
1.2.1.3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của CHND Trung hoa: . 17
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh . 18
1.2.3. Vai trò pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ...................... 20
1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh
.............................................................................................................
20
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CÁC HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .............................. 22
2.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Pháp
luật Việt Nam .................................................................................................. 22
2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn ......................................................................... 22
2.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh.............................................................. 24
2.1.3. Ép buộc trong kinh doanh .................................................................. 26
2.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác .............................................................. 27
2.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ...................... 29

2.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh .................................. 31
2.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................ 33
2.1.8. Phân biệt đối xử của hiệp hội ............................................................. 35
2.1.9. Bán hàng đa cấp bất chính.................................................................. 35
2.1.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá .......... 37


2

2.1.11. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ
………………………………………………………………………………..
38
2.2. Nội dung của pháp luật Việt Nam về xử lý đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh: ................................................................................ 40
2.2.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 40
2.2.2. Quy trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy
định của Luật Cạnh tranh 2004: ................................................................... 41
2.2.2.1. Căn cứ điều tra vụ việc cạnh tranh:......................................................... 41
2.2.2.2. Điều tra vụ việc cạnh tranh: .................................................................... 42
2.2.2.3. Hình thức xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............... 42
2.2.2.4. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh chưa
có hiệu lực pháp luật: ........................................................................................... 44
2.3. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam .................................................................................................................. 45
2.3.1. Tổng quan xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................ 45
2.3.1.1. Công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh của Cục
Quản lý cạnh tranh ............................................................................................... 45
2.3.1.2. Công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh của các
cơ quan có thẩm quyền khác: ............................................................................... 47

2.3.2. Đánh giá ............................................................................................. 48
2.3.2.1. Mặt tích cực:............................................................................................ 48
2.3.2.2. Hạn chế trong công tác xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh49
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM XỬ LÝ CÓ HIỆU QUẢ CÁC
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRÊN THỊ
TRƯỜNG VIỆT NAM....................................................................................... 56
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ........................................................................................................ 56
3.1.1. Quy định cụ thể một số vấn đề liên quan đến khái niệm cạnh tranh
không lành mạnh: .......................................................................................... 56
3.1.2. Mở rộng chủ thể áp dụng đối với các quy định về chống cạnh tranh
không lành mạnh: .......................................................................................... 58


3

3.1.3. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền
SHCN chưa bao quát hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể
xảy ra trong thực tế: ...................................................................................... 59
3.2. Hoàn thiện thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh: ....................................................................................................... 60
3.2.1. Về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh ...... 60
3.2.1.1. Về chủ thể: .............................................................................................. 61
3.2.1.2. Về mức bồi thường thiệt hại và xác định bồi thường thiệt hại: .............. 62
3.2.2. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh không lành mạnh: ........................................................... 63
3.2.3. Về chức năng của cơ quan quản lý cạnh tranh: ................................. 63
3.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
cần phải đủ mạnh: ......................................................................................... 64
3.2.5. Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh .......... 66

3.3. Một số giải pháp nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam: .................................................................................. 67
3.3.1. Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong
việc giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh: ....................... 67
3.3.2. Tuyên truyền kiến thức pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng: ........................................ 67
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ........................................................ 72


4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh

CHND

Cộng hòa nhân dân

HTX

Hợp tác xã

LCT

Luật cạnh tranh


QLCT

Quản lý cạnh tranh

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

CHLB

Cộng hòa liên bang


5

LỜI MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài:
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã quyết định mở cửa
nền kinh tế, chấp nhận các quy tắc của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc chấp nhận các quy tắc của nền kinh tế thị trường, mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa quan trọng theo đó chúng ta chấp nhận các

nguyên tắc về cạnh tranh như nền tảng của mọi hoạt động kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc cạnh tranh, Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VIII đã chỉ rõ: “ Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình
thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh
vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí
nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”.
Có thể nói, việc ban hành Luật cạnh tranh của nhà nước ta năm 2004 đã
bước đầu tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động cạnh tranh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, vì đây là lĩnh vực mới, lại phức tạp nên việc thực thi còn
gặp nhiều khó khăn. Do vậy, tiếp tục nghiên cứu về các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là vấn đề mang tính thời sự, đặc biệt là vấn đề xử lý các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam. Đứng trước đòi hỏi của lí
luận và thực tiễn nói trên việc nghiên cứu pháp luật về vấn đề chống cạnh
tranh không lành mạnh, đặc biệt các vấn đề liên quan đến xử lý các hành vi
phản cạnh tranh này rất cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài: “Pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài:


6

Về vấn đề: “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh” đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm và có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
này:
- Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam- Luận án tiến sĩ luật học năm 2002/Đặng Vũ Huân.
- Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
hiện nay- Luận văn thạc sỹ luật học năm 2004/Nguyễn Thị Thu Hiền.
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật

Việt Nam- Khóa luận tốt nghiệp năm 2007/Vũ Thị Cẩm Tú.
- Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam- những vấn
đề lý luận và thực tiễn- Khóa luận tốt nghiệp năm 2008/ Lê Thị Ngọc.
- Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam- Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn- Khóa luận tốt nghiệp năm 2009/ Hà Thị Hằng…
Tuy nhiên việc nghiên cứu về thực tiễn xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh rất cần thiết để xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Từ những
kết quả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ chỉ ra những điểm tích cực,
hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu với mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận về
cạnh tranh không lành mạnh, thực trạng pháp luật hiện hành về các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, cũng như thực tiễn xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam. Từ đó nhằm đưa ra giải pháp nhằm xử lý thích
hợp các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tiếp cận nghiên cứu các vấn đề có
tính chất lý luận của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thực tiễn việc
xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam để


7

nhằm chỉ ra những điểm hạn chế trong các quy định của pháp luật. Ngoài ra,
luận văn còn có nhiệm vụ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề
thực thi pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong bối cảnh nền
kinh tế hội nhập của Việt Nam.
4- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu có tính bao trùm luận văn là phương pháp duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê nhằm khái quát hóa, đánh giá và nhận định

về các vấn đề trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; đồng
thời phương pháp so sánh pháp luật cũng được sử dụng để thấy rõ hơn sự
tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật một số nước
về vấn đề này.
5- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng
như thực tiễn xử lý các hành vi này và những quy định tương ứng theo Luật
cạnh tranh 2004. Đó là những quy định về trình tự, thủ tục khiếu nại, khởi
kiện, các biện pháp xử lý, chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh; giải quyết tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh
trên thị trường Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: giới hạn phạm vi nghiên cứu trong mối quan hệ
giữa các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh
tranh với các quy định liên quan tới cạnh tranh trong một số đạo luật kinh tế
chuyên sâu về thương mại, quảng cáo, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng…và
việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
6- Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài:


8

Như đã phân tích, việc nghiên cứu thực tiễn xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là rất cần thiết để xem xét tính phù hợp của các quy
định pháp luật. Mà thực tiễn xã hội luôn thay đổi dẫn tới phát sinh các vấn đề
pháp lý mới đòi hỏi phải có sự điều chỉnh các quy định pháp luật. Trong kết
quả nghiên cứu của luận văn, tác giả đã chỉ ra một số điểm mới sau:
- Vấn đề thực tiễn việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trên thị trường Việt Nam cho tới năm 2011.
- Luận văn đã chỉ ra một số hạn chế của quy định pháp luật trong thực
tiễn việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp để
việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiệu quả hơn.
7- Kết cấu của luận văn:
Ngoài các phần Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm 3 chương như sau:
- Chương 1- Những vấn đề chung về cạnh tranh không lành mạnh và
pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Chương 2- Thực trạng pháp luật về xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam.
- Chương 3- Một số đề xuất nhằm xử lý có hiệu quả các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam.


9

CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1.

Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh

1.1.1 Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là nền tảng cho sự vận hành của cơ chế thị trường, thúc đẩy
và hợp lí hóa sản xuất, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và là động lực
cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Trên thực tế khái niệm cạnh
tranh đã xuất hiện từ rất lâu, và có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
này, cho đến nay các nhà nghiên cứu cũng chưa thực sự thỏa mãn với những
khái niệm cạnh tranh hiện nay. Bởi lẽ với tư cách là một hiện tượng xã hội phổ
biến và riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện ở mọi lĩnh

vực, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh với mọi chủ thể đang tồn tại trên
thị trường, do vậy có rất nhiều cách nhìn nhận cũng như các tiếp cận khác
nhau đối với khái niệm cạnh tranh. Dưới góc độ Triết học: “Cạnh tranh là sự
biểu hiện mâu thuẫn của những mặt đối lập, nó được xem như là một trong
những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội”[3].
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong từ điển ngôn ngữ tiếng Anh,
competition (cạnh tranh) là một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối
thủ ganh đua để giành phần hơn hay ưu thế tuyệt đối về phía mình [39;tr1].
Nhìn chung, cạnh tranh được coi là hành vi của hai hoặc nhiều chủ thể trong
kinh doanh( trong nền kinh tế thị trường) với mục đích giành cho mình những
ưu thế cao nhất so với những chủ thể khác. Tuy vậy, cạnh tranh chỉ xuất hiện
và tồn tại trong nền kinh tế thị trường nơi có sự tham gia của ít nhất hai hoặc


10

nhiều người cung cấp hoặc có nhu cầu và những người này có ít nhất một số
mục đích đối kháng nhau.
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh đã được đề cập nhiều trong pháp
luật của các nước trên thế giới. Theo khoản 1 điều 10 Bis Công ước Paris năm
1883 về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì: “bất kỳ hành vi cạnh tranh nào
đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong
thương mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”. Tại định nghĩa này
có thể thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh của một hành
vi cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí”, tiêu chí này thể hiện sự
không rõ ràng và ổn định, ở mỗi quốc gia do có những khác biệt phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia đó. Sự không rõ
ràng trong việc xác định phạm vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục được
thể hiện trong pháp luật nhiều nước, tại Tây Ban Nha và Thụy Sĩ là “ nguyên
tắc ngay tình”, tại Italia là “ tính chuyên nghiệp đúng đắn, tại Đức, Hy Lạp và

Ba Lan là “ đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong
các văn bản pháp luật, các Tòa án đã xác định từ nguồn án lệ xác định cạnh
tranh lành mạnh là “các nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc
“đạo đức thị trường”.
Ở Việt Nam, khoản 4 Điều 3 của Luật cạnh tranh năm 2004 đã định
nghĩa: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng”. Nhìn
chung, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại
các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích
của các chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung


11

của xã hội[9;tr159]. Tại định nghĩa này có thể thấy tiêu chí đánh giá về tính
chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh chỉ được nêu chung là “ các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”.
1.1.2 Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
a) Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trước hết là một hành vi cạnh
tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục đích lợi
nhuận. Có thể phân tích vấn đề này trên hai khía cạnh:
- Thứ nhất, trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một
doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các
doanh nghiệp khác. Đặc điểm này khiến cho pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh tại một số quốc gia có thể có phạm vi áp dụng rất rộng và điều
chỉnh những hành vi đa dạng.
- Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các
doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, khái niệm

doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân
tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên
nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp luật thương mại là có tư cách thương
nhân trên thị trường. Trên một phạm vi rộng hơn, các quy định về cạnh tranh
không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh
nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do (bác
sỹ, luật sư, kiến trúc sư…).
b) Đặc điểm thứ hai của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tính
chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh,
có thể hiểu là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu
dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi cơ quan


12

xử lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải có những hiểu biết và đánh
giá sâu sắc về thực tiễn thị trường để phán định một hành vi có đi ngược lại
những quy tắc xử sự chung trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay
không.
c) Thứ ba, một hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và
cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các
đối tượng khác. Đặc điểm này mang nhiều ý nghĩa về tố tụng và đặc biệt được
chú ý khi việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh tại nhiều quốc gia được tiến
hành trong khuôn khổ kiện dân sự và gắn liền với yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong nhiều trường hợp, cơ quan xử lý có thể chấp nhận việc “đe doạ gây
thiệt hại”, cũng như các thiệt hại không tính toán được cụ thể về cơ hội kinh
doanh là đủ để coi một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh bị ngăn cấm.
1.1.3 Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được phân thành nhiều
loại khác nhau phụ thuộc vào tiêu chí cũng như mục đích phân loại. Nhưng

xét một cách khái quát, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cùng có một
bản chất là việc tạo ra những lợi thế không chính đáng trong tương quan cạnh
tranh trên thị trường và có thể chia làm ba nhóm sau:
- Các hành vi mang tính chất lợi dụng: Đây là nhóm hành vi cạnh tranh
không lành mạnh mang tính chất điển hình, được biết đến với nhiều dạng thức
khác nhau như gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, lợi dụng thành
quả đầu tư của người khác, xâm phạm bí mật kinh doanh… Bản chất của hành
vi này là việc chiếm đoạt, sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp khác. Dạng hành vi này được coi là phổ biến, điển hình của cạnh tranh
không lành mạnh.


13

Mặt khác, không phải mọi thành quả đầu tư, lợi thế cạnh tranh đều được
bảo vệ, có những đối tượng có được từ kết quả phát triển kinh tế- xã hội, khoa
học kĩ thuật chung của nghành, khi đó các doanh nghiệp có quyền được tiếp
cận và sử dụng để thúc đẩy hiệu quả kinh doanh. “Việc ngăn chặn và bảo hộ
thái quá có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển chung của
nghành.”[11,tr16].
- Các hành vi mang tính chất công kích: Đây là nhóm hành vi có chung
bản chất là tấn công vào đối thủ cạnh tranh, triệt tiêu hoặc làm suy giảm các
lợi thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh. Các hành vi cụ thể rất đa dạng, phụ
thuộc vào cách thức, mục tiêu công kích, có thể là những thông tin sai trái làm
mất uy tín của đối thủ cạnh tranh hoặc lôi kéo, mua chuộc nhân viên của đối
thủ cạnh tranh. Mặc dù dạng hành vi công kích nói trên cũng tác động thẳng
tới đối thủ cạnh tranh của bên vi phạm, nhưng do tính chất trực diện của hành
vi, các bên liên quan thường có khuynh hướng sử dụng các quy định trực tiếp
về gây thiệt hại về bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự để giải quyết
tranh chấp một cách triệt để, thay vì áp dụng các quy định riêng của pháp luật

về cạnh tranh không lành mạnh.
- Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng: Bản chất của hành vi này là
tạo ra một lợi thế cạnh tranh gian dối để lôi kéo khách hàng (chủ yếu là người
tiêu dùng). Đối tượng chịu tác động trực tiếp của nhóm hành vi này là khách
hàng, còn các doanh nghiệp cạnh tranh chỉ chịu ảnh hưởng gián tiếp từ hành vi
vi phạm thông qua việc mất khách hàng. Trong nhiều trường hợp, việc lôi kéo
khách hàng tham gia giao dịch bằng các biện pháp bất chính vi phạm tới
nguyên tắc căn bản của giao dịch dân sự là tự do ý chí nên còn chịu sự điều
chỉnh của cả pháp luật dân sự, thương mại.


14

1.2.

Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh ở một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhất trên thế giới.
Để duy trì được một môi trường cạnh tranh lành mạnh, vai trò của pháp luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh là rất quan trọng. Khác với hệ thống
các quy định về hạn chế cạnh tranh hình thành từ rất lâu (Luật Sherman1890[40;tr2]), các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Hoa Kỳ lại
tương đối phân tán. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ kế thừa cách sử dụng khái
niệm cạnh tranh không lành mạnh để chỉ hành vi mạo nhận, tuy nhiên sau đó
thông qua thực tiễn xét xử đã mở rộng phạm vi xem xét đến nhiều hành vi
khác như quảng cáo gian dối, xâm phạm bí mật kinh doanh, gian lận thương
mại [41;tr25-26].Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận
của Châu Âu trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sử

dụng các quy định chung về bồi thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy
định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và
pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan trọng nhất có thể kể
đến là Luật về Ủy ban Thương mại liên bang (1914) và Luật Nhãn hiệu liên
bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946). Hầu hết các hành vi được xem là
“cạnh tranh không lành mạnh” theo qui định của Luật Cạnh tranh Việt Nam
rơi vào 4 loại hành vi sau của hệ thống pháp luật Mỹ gồm:
- Hành vi cản trở hoạt động kinh doanh thông thường (thuộc sự điều
chỉnh của các Luật của các bang khác nhau).


15

- Hành vi xâm phạm nhãn hiệu hoặc bản quyền (thuộc sự điều chỉnh của
Đạo Luật giảm chất lượng thương hiệu liên bang 1996 (Federal Trademark
Dilution Act) và Đạo Luật Lanham).
- Quảng cáo so sánh gian dối hoặc gây nhầm lẫn (Thuộc sự điều chỉnh
của Đạo Luật Lanham).
- Hành vi quảng cáo hoặc marketing thông thường gian dối hoặc gây
nhầm lẫn gây thiệt hại cho tiêu dùng nói chung.
Ba loại hành vi đầu được giải quyết trong lĩnh vực hoạt động của luật
tư. Riêng loại hành vi thứ tư, tại Mỹ gọi là “hành vi thương mại gian dối hoặc
không lành mạnh” thuộc sự quản lý của Ủy ban Thương mại liên bang
(Federal Trade Commission – FTC) theo Mục 5 của Đạo Luật về Ủy ban
Thương mại liên bang (FTC Act).

Cho đến năm 1994, Đạo Luật về Ủy

ban Thương mại liên bang sửa đổi định nghĩa hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi “gây ra hoặc có thể gây ra những thiệt hại đáng kể mà người

tiêu dùng không thể tránh được một cách hợp lý và thiệt hại gây ra này không
bù lại được những lợi ích tương ứng do hành vi đó tạo ra cho người tiêu dùng
hoặc đối thủ cạnh tranh [31].
1.2.1.2. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật Bản:
Khác với Việt Nam, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật
Bản được quy định rải rác trong nhiều Luật khác nhau như: Luật Cạnh tranh,
Luật cấm cạnh tranh không lành mạnh, Luật về các giao dịch thương mại đặc
biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp.


16

Luật Cạnh tranh Nhật Bản gồm Luật Chống độc quyền (Luật Chống
độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng) và hai luật bổ trợ là Luật
Chống các khoản thu lợi bất chính và các trình bày gây nhầm lẫn và Luật Hợp
đồng phụ).
Luật điều chỉnh hành vi bán hàng đa cấp: Hành vi bán hàng đa cấp bất
chính được quy định chi tiết tại hai bộ luật của Nhật là Luật về các giao dịch
thương mại đặc biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp. Luật Cấm
bán hàng đa cấp dạng hình tháp là luật cấm hoàn toàn các dạng bán hàng đa
cấp nào thực hiện theo phương thức hình tháp. Đây là một hệ thống tập hợp và
phân phối tiền dựa trên sự gia tăng không giới hạn số người tham gia vào
mạng lưới đa cấp, bằng cách người tham gia trước có thể nhận được lợi nhuận
dựa vào tiền tham gia mạng lưới của những người gia nhập sau.
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh: Luật Chống cạnh tranh không
lành mạnh của Nhật ra đời từ năm 1934 gồm 22 điều và một số điều khoản bổ
sung qua các lần sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được đề cập trong Đạo luật này gồm
15 hành vi, được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 2 với nội dung:
- Điểm (1) (2) qui định về các hành vi sử dụng chỉ dẫn giống hoặc tương tự

với chỉ dẫn đã nổi tiếng của hàng hóa của một doanh nghiệp khác.
- (3) Hành vi làm nhái mẫu mã hàng hóa của doanh nghiệp khác.
- Các điểm (4),(5),(6),(7),(8),(9) qui định về các hành vi liên quan đến việc
tiếp cận và sử dụng bí mật kinh doanh một cách không chính đáng .


17

- Điểm (10), (11): các hành vi tiếp cận, phát tán, cung cấp các thiết bị có chức
năng duy nhất là kích hoạt các hình ảnh, âm thanh, các chương trình, đoạn
phim… đã bị cấm .
- (12) Hành vi tiếp cận, nắm giữ hay sử dụng tên miền giống hay tương tự với
chỉ dẫn hàng hóa hay dịch vụ của người khác.
- (13) Hành vi đưa thông tin sai về hàng hóa hay dịch vụ (thông tin về nơi sản
xuất, chất lượng sản phẩm, nội dung…).
- (14) Hành vi gièm pha nói xấu đối thủ cạnh tranh.
- (15) Hành vi sử dụng thương hiệu giống hoặc tương tự với thương hiệu đã
được bảo hộ mà không có căn cứ pháp lý hợp pháp [32].
1.2.1.3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của CHND
Trung hoa:
Tại Trung Quốc, với tiến trình cải cách kinh tế từng bước, việc xây
dựng pháp luật cạnh tranh cũng trải qua các giai đoạn. Trong khi các nhà lập
pháp tỏ ra lưỡng lự trong việc xây dựng pháp luật về hạn chế cạnh tranh và
chống độc quyền (Luật chống độc quyền của CHND Trung Hoa mới được ban
hành năm 2007) thì Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của nước CHND
Trung Hoa đã được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 9 năm 1993. Khác với
Luật cạnh tranh của Việt Nam, các nhà làm luật Trung Quốc đã ban hành
riêng một đạo luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh với kết cấu
gồm năm chương với 33 điều. Trong chương 2 (từ điều 5 tới điều 15) của Luật
này đã quy định rõ các hoạt động cạnh tranh không bình đẳng để làm căn cứ

xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thực tế. Đáng chú ý


18

trong những hành vi được quy định tại chương này có cả hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền được quy định tại điều 6: “ doanh nghiệp công ích hay những
người sản xuất kinh doanh khác có vị trí độc quyền theo luật không được buộc
người khác mua hàng hóa của doanh nghiệp do họ chỉ định nhằm loại trừ
những người sản xuất kinh doanh khác ra khỏi vòng cạnh tranh lành mạnh”.
Ngoài ra trong luật này cũng có quy định một số hành vi cạnh tranh không
lành mạnh khác so với Luật cạnh tranh Việt Nam như hành vi bán giá thấp
(điều 11), hành vi không bán kém (điều 12), và hành vi thông đồng trong đấu
thầu (điều 15)… Với việc quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thì tại chương 4, các nhà làm luật Trung Quốc đã quy định rõ trách
nhiệm pháp lý đối với người vi phạm các quy định về chống cạnh tranh không
lành mạnh. Theo đó tại điều 20 quy định: “ Khi quyền và lợi ích hợp pháp của
người sản xuất kinh doanh bị xâm hại bởi hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, người sản xuất kinh doanh đó có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân”.
Với việc quy định rõ về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và trách
nhiệm pháp lý của các chủ thể vi phạm đã góp phần làm ổn định và lành mạnh
hơn môi trường kinh doanh của Trung Quốc [22;tr4].
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Trước hết, để hiểu được khái niệm trên chúng ta phải làm rõ được khái
niệm pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh nếu được hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn
chế cạnh tranh, những quy định điều chỉnh hoạt động Tố tụng cạnh tranh và
tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn
bản pháp luật có liên quan. Theo nghĩa hẹp, “pháp luật cạnh tranh là một đạo
luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh



19

nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh
tranh bình đẳng và công bằng”[12].
Hoa kì được coi là quốc gia khởi sướng Pháp Luật cạnh tranh, đã định
nghĩa: “ Luật cạnh tranh là công cụ tự vệ của các doanh nghiệp tham gia cạnh
tranh trên thị trường, xuất phát từ học thuyết chủ đạo coi cạnh tranh là mục
đích”[15].
Qua đó có thể hiểu pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu
tố của quan hệ thị trường và được điều chỉnh về cơ bản theo nguyên tắc chung
của pháp luật dân sự.
Về cơ bản, pháp luật cạnh tranh không lành mạnh có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Tính tiếp cận từ mặt trái: Trong khi các văn bản pháp luật về kinh tế
khác tập trung quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia
kinh doanh thì pháp luật cạnh tranh chỉ khoanh vùng các hành vi bị ngăn cấm
trong hoạt động cạnh tranh, chứ không hướng dẫn các đối tượng điều chỉnh
cần làm những gì hoặc phải làm những gì để cạnh tranh. Bởi vậy, pháp luật
cạnh tranh thuộc loại pháp luật mang tính “can thiệp” hay “ngăn cản”.
- Tính chất không triệt để trong nội dung điều chỉnh: các quy định của
pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là về cạnh tranh không lành mạnh, không bao
giờ quy định đầy đủ và triệt để toàn bộ các hành vi phản cạnh tranh tồn tại
trong nền kinh tế thị trường. Quy định của Luật thường đặt ra điều khoản mở
cho phép cơ quan công quyền có thể bổ sung các hành vi mới xuất hiện có ảnh
hưởng xấu đến cạnh tranh và xét thấy cần điều chỉnh, ngăn chặn.



20

1.2.3. Vai trò pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Với tư cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trường,
pháp luật cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và loại bỏ hạn chế cạnh tranh. Có thể thấy, pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh- một bộ phận của pháp luật cạnh tranh có
những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh bằng cách quy định các nguyên
tắc trong cạnh tranh, quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các
biện pháp xử lý vi phạm đối với các hành vi này.
Thứ hai, điều tiết quá trình cạnh tranh, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi
hợp pháp của người tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh, nhà
nước và xã hội.
Thứ ba, răn đe và nghiêm cấm mọi hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Tính răn đe thể hiện rất rõ trong việc Luật cạnh tranh 2004 quy định
các hình thức xử lí vi phạm đối với các chủ thể thực hiện những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả hành vi
mà các chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại,
thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mục đích mà pháp luật cạnh tranh
quy định như vậy là để răn đe và nghiêm cấm các chủ thể thực hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Qua đó tạo tâm lí, thái độ tôn trọng pháp luật của
các chủ thể kinh doanh.
1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời nhằm đảm bảo
thương mại được diễn ra một cách công bằng và không bị tác động tiêu cực
bởi những hành vi không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông
thường. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện là do nhu cầu



21

của thị trường, nhất là trong phạm vi Châu Âu- nơi mà thị trường cũng như tự
do thương mại xuất hiện từ rất sớm. Ban đầu khái niệm pháp luật cạnh tranh
được hiểu đồng nghĩa với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo
cách hiểu ngày nay.
Về nguyên tắc, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh điều chỉnh
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị trường( kể cả không phải
doanh nghiệp) nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có
thể vô tình hoặc cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay một bạn
hàng cụ thể. Tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào
nhiều yếu tố của quan hệ thị trường và được điều chỉnh về cơ bản theo nguyên
tắc chung của pháp luật dân sự (luật tư). Điều này đã được chứng minh bởi
thực tế (chẳng hạn ở Pháp, Italia) ngay cả khi không có đạo luật về chống
cạnh tranh không lành mạnh với tính cách là một chế định pháp luật riêng biệt,
pháp luật dân sự vẫn có thể được áp dụng để chống lại các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường.
Dưới cả hai giác độ xử lý trên thì pháp luật chỉ can thiệp khi có sự khiếu kiện
của người có quyền và lợi ích liên quan. Các chế tài phần lớn là buộc phải
đình chỉ hành vi và bồi thường thiệt hại xảy ra.


22

CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CÁC
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM
2.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Pháp

luật Việt Nam
2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Trước hết, chúng ta phải hiểu khái niệm chỉ dẫn thương mại trước khi đi
vào phân tích hành vi này. Theo khoản 2 điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ thì:
“Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin
nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên
thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu
dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá”.
Theo đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn được hiểu là những chỉ dẫn chứa đựng
thông tin gây nhầm lẫn về nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh,
khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lí, kiểu dáng bao bì và các yếu tố khác để
làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích
cạnh tranh.
Tuy nhiên, theo khoản 1 điều 40 Luật cạnh tranh 2004 chỉ quy định: “
Cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên
thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa
lí và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức
của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh”. Về hình
thức biểu hiện, chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông
tin gây nhầm lẫn hoặc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây
nhầm lẫn.


23

Về đối tượng gây nhầm lẫn của hành vi này là khách hàng có trình độ
trung bình trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ đó, còn đối tượng bị gây thiệt hại
trực tiếp là đối thủ cạnh tranh. Mục đích của hành vi là làm sai lệch nhận thức
của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
Một trong những vụ việc điển hình về chỉ dẫn gây nhầm lẫn xảy ra trên

thị trường Việt Nam là vụ việc cạnh tranh không lành mạnh với sản phẩm
mang nhãn hiệu “ POSTINOR” theo đề nghị của chủ nhãn hiệu “
POSTINOR”
Sản phẩm mang nhãn hiệu “POSTINOR” của công ty GEDEON
RICHTER LTD( GR) là một chế phẩm ngừa thai khẩn cấp đang được tiêu thụ
tại Việt Nam ( bán lần đầu tiên tại Việt Nam năm 1992. “ POSTINOR” được
cục quản lý dược cấp giấy phép đăng ký lưu hành số VN-0609-95 lần đầu tiên
vào năm 1995). Bao bì của sản phẩm mang nhãn hiệu “ POSTINOR” bao gồm
chữ POSTINOR, tên loại thuốc bằng chữ hoa, in nghiêng, màu đen, tiếp theo
là số “2” màu vàng với cỡ chữ to hơn. Dưới chữ “ POSTINOR2” là thành
phần chính của thuốc evonorgestrel 0.75mg”. Trên mặt khác của vỏ hộp
thuốc, ở phía góc trái là biểu tượng “Rx” màu đen. Phía bên phải của bao bì
mang nhãn hiệu “ POSTINOR” là hình bông hoa màu hồng nhạt. Phía sau của
vỉ thuốc, chữ “POSTINOR2” được in tại góc phải phía trên, dưới đó là hàng
chữ “ levonorgestrel” và từ viết tắt “RG” được đặt trong vòng tròn.
Công ty dược và Vật tư Y tế Bình Dương ( 6/3 đại lộ Bình Dương, thị xã
Thủ Dầu Một, Bình Dương) sản xuất, buôn bán, lưu thông sản phẩm mang
nhãn hiệu “ POSTINIGHT” bao gồm các yếu tố sau: chữ “ POSTINIGHT”
được in hoa, màu đen và tiếp theo là số “2” màu hồng với cỡ chữ to hơn, biểu
tượng “Rx” và một bông hoa to màu hồng nhạt tại các vị trí tương tự như bao


×