Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại tại cộng hoà dân chủ nhân dân lào thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.25 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------    ------------

DAPHET LOUANGSOMPHOU

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO – THỰC
TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. PHẠM THỊ GIANG THU
HÀ NỘI - 2012


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHDCND



: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CTD

: Cấp tín dụng

NHTM

: Ngân hàng thương mại

TCTD

: Tổ chức tín dụng

XHCN

: Xã hội Chủ nghĩa

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI NƢỚC
CHDCND LÀO ....................................................................................................... 5
1.1. Khái quát về NHTM và hoạt động CTD của NHTM theo pháp luật hiện
hành của nước CHDCND Lào ................................................................................. 5
1.2. Cơ sở của việc xây dựng, ban hành và hoàn thiện pháp luật về hoạt động
CTD của NHTM tại nước CHDCND Lào ...........................................................12
1.3. Sơ lược về sự phát triển của pháp luật về hoạt động CTD của NHTM tại
nước CHDCND Lào................................................................................................14
1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động CTD của
NHTM tại nước CHDCND Lào ...........................................................................17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI NƯỚC CHDCND LÀO.................... 20
2.1. Thực trạng pháp luật về nội dung các hoạt động CTD của NHTM.................20
2.1.1. Pháp luật về hoạt động cho vay........................................................ 20
2.1.2. Pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng...................................... 31
2.1.3. Pháp luật về hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy
tờ có giá..................................................................................................... 42
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về giới hạn an toàn trong hoạt động CTD
của NHTM ................................................................................................................50
2.3. Xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động CTD của NHTM.......................54
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI
NƢỚC CHDCND LÀO ....................................................................................... 59
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD của NHTM.................59
3.2. Những đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt
động CTD của NHTM ............................................................................................62
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 71
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU


LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

1

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thời đại hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực đời sống đã bắt đầu, hội
nhập kinh tế quốc tế như là nhiệm bắt buộc đối với mọi quốc gia, dân tộc. Lĩnh
vực ngân hàng là một trong những lĩnh vực phải đi tiên phong trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Lĩnh vực ngân hàng cần luôn luôn là kênh cung ứng
vốn nhanh nhất, hiệu quả nhất, đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của các tổ chức, cá
nhân trong phát triển kinh tế. Thực tiễn tại nhiều quốc gia đang phát triển, phát
triển đã chỉ ra rằng việc cung ứng vốn của các ngân hàng, tổ chức phi ngân hàng
càng hiệu quả thì kinh tế phát triển càng nhanh.
Pháp luật ngân hàng là một ngành luật nằm trong hệ thống pháp luật non
trẻ của nước CHDCND Lào, thời gian qua pháp luật ngân hàng của nước
CHDCND Lào phần nào chưa đáp ứng được những yêu cầu về từ thực tế của
hoạt động ngân hàng. Nằm trong thực trạng chung đó của pháp luật ngân hàng
nước CHDCND Lào là pháp luật về hoạt động CTD của NHTM. Pháp luật về
hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào hiện nay chủ yếu sử dụng
kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động CTD của NHTM tại các nước phát triển và
các nước láng giềng bên cạnh những văn bản pháp lý có giá trị thấp, được ban
hành từ rất lâu và Luật NHTM năm 2006. Chính vì lẽ đó mà hiệu quả hoạt động
CTD của các NHTM không cao, vai trò của pháp luật về hoạt động CTD của

NHTM không rõ nét.
Từ việc tìm hiểu thực trạng các quy định của pháp luật, đánh giá thực
trạng pháp luật và thực trạng thi hành pháp luật, đưa ra những đề xuất pháp lý cơ
bản để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước
CHDCND Lào, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của ngân
hàng thương mại tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào – Thực trạng và hướng
hoàn thiện” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học.

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

2

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới và ở Việt Nam, vấn đề CTD ngân hàng và CTD của NHTM
được coi là vấn đề quan trọng của pháp luật và thực tiễn hoạt động ngân hàng.
Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu pháp luật về hoạt động CTD của NHTM được
nghiên cứu có quy mô rộng lớn, đa dạng về hình thức và sâu sắc về nội dung, từ
nghiên cứu khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, từ
chuyên ngành tài chính – ngân hàng, luật ngân hàng,… Những công trình này,
phần nào đã để lại những giá trị về mặt lý luận và đóng góp cho hoạt động thực
tiễn, góp phần hoàn thiện về hoạt động ngân hàng và nâng cao hiệu quả, cũng
như hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD của ngân hàng.
Ở nước CHDCND Lào vấn đề CTD của NHTM chưa được nghiên cứu

nhiều, các nghiên cứu có được nhưng còn rất hạn chế về quy mô và hời hợt về
nội dung, chưa có một công trình thực sự mang tính chất khoa học pháp lý sâu
sắc về hoạt động CTD của NHTM điển hình như: Đề án của Viện khoa học pháp
lý, Ngân hàng Nhà nước Lào “Thực trạng cấp tín dụng tại các ngân hàng
thương mại” được thực hiện vào năm 2004; TS. Sounthone Xaynhaxing “Cho
vay tại Ngân hàng ngoại thương Lào trong năm 2004” đăng trên Tạp chí Ngân
hàng, Ngân hàng Nhà nước Lào, số 10/2004,… Năm 2006 Luật Ngân hàng
thương mại Lào năm 2006 được ban hành, các việc nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến CTD của NHTM được quan tâm chú ý hơn, đặc biệt là các nghiên cứu
dưới góc độ pháp lý, trong đó các công trình nghiên cứu tại Trường Đại học Luật
Hà Nội có nhiều ý nghĩa như: Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về đảm bảo
an toàn cho hoạt động ngân hàng ở nước CHDCND Lào” Soutthaphonne
Ackkavong năm 2008; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại tại nước CHDCND Lào” Soutchay Sisavad năm
2009…; tuy nhiên, những công trình này có phạm vi nghiên cứu hẹp hoặc chỉ để
cập các hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào dưới góc độ khái
quát. Chính vì vậy, bản thân tác giả nhận thấy việc nghiên cứu pháp luật về hoạt
động CTD của NHTM là hết sức cần thiết, nhất là khi vấn đề này mới được
nghiên cứu ở quy mô nhỏ và chưa sâu sắc về nội dung.
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

3

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
* Về mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về
NHTM, hoạt động CTD, pháp luật về hoạt động CTD của NHTM để từ đó phân
tích các quy định của pháp luật nước CHDCND Lào về hoạt động CTD của
NHTM thông qua đó đưa ra nhận xét, đánh giá pháp luật về hoạt động CTD của
NHTM tại nước CHDCND Lào cũng như đưa ra những đề xuất pháp lý cơ bản
nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD của NHTM tại nước CHDCND
Lào trong thời gian tới.
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các quy
định hiện hành của pháp luật về hoạt động CTD của nước CHDCND Lào và quá
trình thực thi pháp luật về hoạt động CTD của NHTM tại nước CHDCND Lào.
* Về nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về NHTM, CTD của NHTM và
pháp luật về hoạt động CTD của NHTM;
- Thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động CTD của
NHTM tại nước CHDCND Lào;
- Đưa ra đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD
của NHTM tại nước CHDCND Lào.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hoạt động CTD của NHTM là một nội dung có phạm vi rộng, có tính
chất phức tạp. Do đó, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu dưới góp độ bản chất
của pháp luật XHCN về CTD của NHTM và những quy định cụ thể của pháp
luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào. Luận văn tập trung
nghiên cứu các chế định pháp lý là đặc trưng chuyên môn về CTD của NHTM
nói chung và NHTM ở nước CHDCND Lào nói riêng được quy định trong pháp
luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào như: Pháp luật về nội
dung và các hình thức CTD (Pháp luật về cho vay, pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng, pháp luật về chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá), các quy định về
giới hạn an toàn trong hoạt động CTD của NHTM và pháp luật về xử lý vi phạm
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU


LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

4

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

pháp luật trong hoạt động CTD của NHTM. Trong việc phân tích những chế
định này sẽ có sự so sánh với những chế định tương tự của pháp luật về hoạt
động CTD của NHTM ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc cơ bản,
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin và những quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Nhà nước CHDCND Lào.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp lôgic để giải quyết những
nội dung mà đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản của pháp luật về hoạt động CTD của
NHTM tại nước CHDCND Lào;
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động CTD của NHTM tại nước
CHDCND Lào;
Chƣơng 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động CTD của
NHTM tại CHDCND Lào.


ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

5

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI
NƢỚC CHDCND LÀO
1.1. Khái quát về NHTM và hoạt động CTD của NHTM theo pháp
luật hiện hành của nƣớc CHDCND Lào
1.1.1. Khái quát về NHTM theo pháp luật nƣớc CHDCND Lào
Trong hệ thống pháp luật ngân hàng non trẻ của nước CHDCND Lào,
NHTM là một trong những TCTD bên cạnh các các loại hình TCTD khác như,
các ngân hàng hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, Công ty cho thuê tài
chính, các quỹ tín dụng có quy mô vừa và nhỏ,…Trong các loại hình TCTD ở
nước CHDCND Lào thì NHTM là được thành lập tương đối phức tạp nhưng lại
là loại TCTD có số lượng đông đảo và có vai trò quan trọng trong động ngân
hàng nói chung và hoạt động CTD nói riêng [8, tr 12].
Tại Điều 2 Luật số 03/2006/CG về ngân hàng thương mại, ngày
26/12/2006 của Quốc hội nước CHDCND Lào (Sau đây viết tắt là Luật NHTM
năm 2006) định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp được thành

lập theo Luật này, có hoạt động ngân hàng, cụ thể là, nhận tiền gửi, cấp tín
dụng, mua và bán ngoại tệ, cung ứng dịch vụ thanh toán và thực hiện đầu
tư”[10, tr 3].
Như vậy, theo định nghĩa này có thể thấy một số đặc điểm sau đây của
NHTM theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào:
Thứ nhất, đó là một doanh nghiệp đặc thù. Đối với TCTD là NHTM việc
thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản được thực hiện theo các quy định
của Luật NHTM năm 2006. Khi tiến hành các hoạt động này, các chủ thể có
quyền và nghĩa vụ phải tuân theo duy nhất các quy định của Luật NHTM năm
2006 mà không phải tuân theo các quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện hành
của nước CHDCND Lào. Quy định về đặc điểm này của TCTD là NHTM ở nước

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

6

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHDCND Lào đi là điểm tương đồng với các quy định hiện hành của pháp luật về
TCTD của Việt Nam cũng như một số nước khác trên thế giới [33, tr 8].
Thứ hai, NHTM có đối tượng kinh doanh chủ yếu là tiền tệ và đây là hoạt
động mang tính nghề nghiệp của NHTM ở nước CHDCND Lào. Nếu như, các
loại hình doanh nghiệp khác được phép kinh doanh tất cả hàng hóa, dịch vụ
được phép lưu thông trên thị trường chỉ cần chủ thể thành lập loại hình doanh
nghiệp không giới hạn lĩnh vực kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp thì ngành

nghề kinh doanh của loại hình doanh nghiệp đó sẽ rất đa dạng. Trong khi đó, khi
đã thành lập NHTM thì chỉ có một ngành nghề kinh doanh duy nhất đó là các
hoạt động ngân hàng với đối tượng kinh doanh là tiền tệ và dịch vụ liên quan đến
tiền tệ. Hoạt động đó được cụ thể bằng việc các NHTM nhận tiền gửi, sử dụng
tiền gửi để CTD cũng như cung cấp các dịch vụ thanh toán khác. Do đó, lợi
nhuận, rủi ro phát sinh từ các hoạt động này sẽ là cơ sở để NHTM tồn tại, phát
triển và chấm dứt hoạt động [33, tr 9].
Thứ ba, NHTM chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Lào (BOL).
Nếu như, các loại hình doanh nghiệp khác có đối tượng kinh doanh là hàng hóa,
dịch vụ (trừ tiền tệ) sẽ chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại và dịch vụ cũng như các cơ quan liên quan từ trung ương đến địa
phương phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh thì NHTM ở nước CHDCND Lào
chỉ chịu sự quản lý duy nhất của Ngân hàng Nhà Nước Lào từ thành lập, hoạt
động đến sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản. Đây là, đặc điểm để nhận dạng
đâu là NHTM trong các loại hình doanh nghiệp ngoài việc dựa vào tên gọi của
NHTM đó. Quy định này của pháp luật ngân hàng hiện hành ở nước CHDCND
Lào có điểm tương đồng với Việt Nam khi giao trách nhiệm quản lý, điều hành
các NHTM cho duy nhất một cơ quan đó là Ngân hàng Nhà nước Lào [33, tr10].
Thứ tư, việc hình thành, hoạt động và chấm dứt hoạt động của NHTM ở
nước CHDCND Lào có các quy định áp dụng riêng. Tức là, việc thành lập, hoạt
động và chấm dứt hoạt động của NHTM ở nước Lào sẽ áp dụng các quy định

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

7


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

riêng do Nhà nước CHDCND Lào ban hành mà không áp dụng các quy định
khác liên quan đến thành lập, hoạt động, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc thù ở nước
CHDCND Lào nhưng có vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói
chung và hoạt động CTD nói riêng tại nước CHDCND Lào. Các quy định này
của pháp luật nước CHDCND Lào phần nào nói lên vai trò đó trong một nền
kinh tế chậm phát triển đang tiến hành hội nhập và phát triển, khi Quốc hội nước
CHDCND Lào ban hành riêng một luật – Luật NHTM năm 2006, để về hoạt
động của loại hình doanh nghiệp đặc thù này.
1.1.2. Nội dung và các hình thức CTD của NHTM
Tại khoản 1 Điều 3 về Giải thích từ ngữ, Luật NHTM năm 2006 quy
định: “Kinh doanh ngân hàng là hoạt động liên quan đến kinh doanh tiền tệ như
nhận tiền gửi và sử dụng quỹ này để mở rộng tín dụng, mua và bán ngoại tệ, để
cung cấp dịch vụ thanh toán hoặc thực hiện đầu tư”. Đó là những hoạt động
ngân hàng mà các NHTM của Lào được phép thực hiện kể từ khi Luật này có
hiệu lực thi hành [10, tr 3].
Như vậy, cùng với các hoạt động huy động vốn, cung cấp các dịch vụ
thanh toán và đầu tư thì các hoạt động CTD là những hoạt động mang tính nghề
nghiệp của TCTD là NHTM ở nước CHDCND Lào.
Tại khoản 2 Điều 3 về Giải thích từ ngữ của Luật NHTM năm 2006 quy
định: “Cung cấp tín dụng đề cập đến việc cung cấp bất kỳ khoản vay, phát hành
bảo lãnh bất kỳ và cam kết để có được một khoản nợ hoặc quyền thanh toán một
khoản tiền và những hoạt động khác được Ngân hàng của CHDCND Lào chấp
thuận”. Như vậy, hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào cũng tương
đối đầy đủ những nghiệp vụ [10, tr 3].
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức,

cá nhân sử dụng khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

8

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

thanh toán” [10, tr 37]. Tuy nhiên, NHTM ở Việt Nam không thực hiện tất cả
các hoạt động này mà chỉ thực hiện các hoạt động sau: Cho vay; Chiết khấu, tái
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; Bảo lãnh ngân hàng;
Phát hành thẻ tín dụng; Bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc tế đối
với các khách hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; Các hình thức CTD
khác khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận [11, tr 3].
Trong sự so sánh với các quy định hiện hành trên ở Việt Nam, thì pháp
luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào cho phép NHTM
được phép cho thuê tài chính (nhưng được thực hiện rất hạn chế trong thực tiễn),
còn các hoạt động khác như phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán,… lại không
được pháp luật CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào đề cập một cách cụ thể
mà phụ thuộc vào tình hình thực tế tại từng thời điểm Ngân hàng Nhà nước Lào
sẽ chấp thuận cho NHTM thực hiện các nghiệp vụ này.
Sở dĩ, pháp luật CTD của NHTM hiện hành ở nước CHDCND Lào không
đề cập cụ thể các hoạt động này là bởi lẽ trong thực tiễn những hoạt động này
chưa có nhiều vai trò quan trọng và hầu hết các NHTM cũng chưa đủ các điều
kiện để cung cấp các nghiệp vụ đó. Tuy nhiên, cho thuê tài chính là một hình

thức CTD có vai trò quan trọng và dựa trên vai trò của NHTM trong hệ thống
các TCTD nên pháp luật cho phép NHTM thực hiện hoạt động này như là một
nghiệp vụ CTD quan trọng của NHTM.
Các hình thức CTD cụ thể của NHTM ở nước CHDCND Lào theo pháp
luật hiện hành:
- Cho vay: Theo khoản 5 Điều 3 Luật NHTM năm 2006 thì “Cho vay là
hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại cho khách hàng, theo đó ngân
hàng thương mại giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi”. Như vậy, cho vay là một hình thức CTD được pháp luật trao cho
NHTM thực hiện tại nước CHDCND Lào.

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

9

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

+ Nội dung của cho vay là thỏa thuận bằng văn bản của NHTM với
khách hàng là tổ chức, cá nhân về việc NHTM sẽ chuyển cho những khách
hàng này vay một khoản tiền theo thời hạn thỏa thuận phù hợp với quy định
pháp luật và kết thúc thời hạn khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả vốn vay và lãi
suất theo thỏa thuận.
+ Về hình thức, cho vay được thực hiện bằng văn bản – hợp đồng tín
dụng được giao kết giữa một bên là khách hàng với một bên là đại diện của

NHTM cụ thể.
- Bảo lãnh ngân hàng: Theo quy định của khoản 7 Điều 3 Luật NHTM
năm 2006 thì: “Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng
thương mại, theo đó, ngân hàng thương mại đưa ra các cam kết với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn
trả cho ngân hàng thương mại số tiền đã được trả thay”.
+ Về nội dung, bảo lãnh ngân hàng mang đặc điểm chung của bảo lãnh
trong dân sự ở nước CHDCND Lào nhưng cũng có những đặc điểm riêng tạo
nên đặc trưng của loại hình bảo lãnh này. Bảo lãnh ngân hàng là một hành vi
thương mại (giao dịch thương mại) đề cao tính lợi nhuận của NHTM [27, tr 13].
+ Về hình thức, bảo lãnh ngân hàng được thực hiện dưới hình thức văn
bản – hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh. Hai hợp đồng này do tồn
tại trong một quan hệ nên chúng có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ nhau và là cơ sở
cho nhau nhưng cũng là hai hợp đồng hoàn toàn độc lập.
- Chiết khấu trái phiếu, thương phiếu và giấy tờ có giá: Theo khoản 6
Điều 3 Luật NHTM năm 2006 thì: “Chiết khấu trái phiếu, thương phiếu và giấy
tờ có giá khác là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, theo đó,
ngân hàng thương mại cam kết mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng”.
+ Nội dung của hình thức CTD này là việc NHTM sẽ mua lại trái phiếu,
thương phiếu và giấy tờ có giá khác khi khách hàng có yêu cầu chiết khấu, tái
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

10


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

chiết khấu các giấy tờ có giá đó với điều kiện các giấy tờ có giá đó là sở hữu hợp
pháp của khách hàng và chưa đến hạn thanh toán.
+ Về hình thức, chiết khấu, tái chiết khấu trái phiếu, thương phiếu và giấy
tờ có giá được thực hiện dưới hình thức văn bản – hợp đồng chiết khấu hoặc hợp
đồng tái chiết khấu trái phiếu, thương phiếu và giấy tờ có giá khác.
Như vậy, pháp luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào
quy định rõ 3 hình thức CTD mà NHTM được phép thực hiện với những quy
định rất cụ thể về nội dung và hình thức của các hình thức CTD đó. Bên cạnh đó,
NHTM cũng được phép CTD thông qua các hình thức khác nhưng do không phổ
biến nên không có nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh. Để được phép thực
hiện các NHTM phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Lào.
1.1.3. Kết cấu pháp luật về hoạt động CTD của NHTM
Các quy định về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào nằm
ở rất nhiều văn bản khác nhau, đó là Luật, Nghị định, thông tư hướng dẫn,… do
nhiều cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành như: Quốc hội nước
CHDCND Lào, Chính phủ nước CHDCND Lào, Ngân hàng Nhà nước Lào, Thủ
tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lào,…
Nhìn chung, kết cấu của pháp luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước
CHDCND Lào bao gồm:
Thứ nhất, các quy định chung về CTD, nội dung và hình thức CTD của
NHTM. Các quy định này nằm ở phần đầu tiên của Luật NHTM năm 2006 và
một số văn bản dưới luật khác.
Thứ hai, các quy định về chủ thể và điều kiện chủ thể tham gia các hoạt
động CTD của NHTM. Các quy định này, hiện nay không chỉ nằm trong Luật
NHTM năm 2006 mà nằm ở Bộ luật dân sự năm 2004 và các văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành các hoạt động CTD cụ thể của NHTM.
Thứ ba, về hợp đồng CTD và thực hiện hợp đồng CTD cụ thể, pháp luật

về hoạt động CTD của NHTM đưa ra những quy định về nội dung và hình thức
của hợp đồng CTD đi kèm với hoạt động CTD cụ thể.
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

11

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

- Về hình thức hầu hết đều thừa nhận hình thức văn bản làm hình thức của
hợp đồng CTD.
- Về nội dung, quy định những quyền và nghĩa vụ cơ bản để định hướng
cho việc quy định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ CTD
thông qua hình thức cụ thể. Các quy định này chủ yếu nằm ở các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật NHTM năm 2006 hoặc văn bản hướng dẫn thi hành các hoạt
động CTD của NHTM.
Thứ tư, các quy định về phương thức, cách thức CTD trong một hoạt động
CTD cụ thể. Hầu hết, các hoạt động CTD cụ thể có từ trên hai phương thức, cách
thức CTD dựa vào các tiêu chí khác nhau mà chủ thể tham gia quan hệ CTD đó
có thể lựa chọn.
Thứ năm, các quy định về hợp đồng CTD vô hiệu và các cách thức xử lý
hợp đồng CTD vô hiệu hay thu hồi và xử lý tài sản, vốn vay là đối tượng của
hợp đồng CTD cụ thể. Các quy định này nằm ở Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, các văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động CTD của NHTM.
Thứ sáu, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động CTD
của NHTM. Đó là các quy định mô tả về hành vi, căn cứ áp dụng, chế tài áp

dụng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Các quy định này nằm trong các văn
bản về xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Bộ
luật hình sự năm 2005 không quy định những vi phạm pháp luật CTD là của
NHTM là tội phạm nên cũng không có chế tài hình phạt.
Như vậy, về mặt hình thức kết cấu pháp luật về hoạt CTD của NHTM ở
nước CHDCND Lào là tương đối đầy đủ về số lượng. Tuy nhiên, trong sự so
sánh với pháp luật Việt Nam thì kết cấu pháp luật về hoạt động CTD của NHTM
ở nước CHDCND Lào còn thiếu về mặt nội dung. Nhận định này sẽ được chứng
minh cụ thể trong Chương 2.

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

12

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

1.2. Cơ sở của việc xây dựng, ban hành và hoàn thiện pháp luật về
hoạt động CTD của NHTM tại nƣớc CHDCND Lào
1.2.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh hoạt động CTD của NHTM
bằng pháp luật
Pháp luật mang bản chất quyền lực nhà nước, có tính chất bắt buộc và ổn
định trong thời gian dài. Nhà nước dùng pháp luật như là một công cụ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm cả những quan hệ xã hội ít biến động và
những quan hệ xã hội luôn biến động, thay đổi không ngừng.
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động CTD của NHTM nói riêng

luôn là kênh chính trong việc cung cấp vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của bất
cứ một quốc gia nào. Khi kinh tế - xã hội có biến động sẽ có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động CTD của
NHTM nói riêng. Chính sự nhận thức về mối quan hệ và vai trò của hoạt động
này đối với nền kinh tế - xã hội mà hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó
có nước CHDCND Lào luôn tìm cách tác động lên lên các hoạt động này bằng
công cụ pháp luật để điều hòa, để định hướng phát triển cho những quan hệ đó.
Ở nước CHDCND Lào, vị trí và vai trò của TCTD là NHTM đã được
khẳng định và để tiếp tục khẳng định vị trí và phát huy vai trò của TCTD là
NHTM, Đảng, Quốc hội và Nhà nước CHDCND Lào đã ban hành Luật NHTM
năm 2006 để bổ sung những quy định mới, điều chỉnh kịp thời trước sự phát
triển của NHTM trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở nước CHDCND Lào.
Hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của NHTM nói riêng và các TCTD
khác có tính rủi ro rất cao, nguy cơ rủi ro trong từng hình thức CTD của NHTM
còn có tính chất mang tính dây chuyền, ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của
nền kinh tế - xã hội, bởi hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD có đối tượng kinh
doanh rất đặc biệt là tiền tệ (tiền tệ có mặt trong tất cả các quan hệ kinh tế - xã
hội) và sự thành bại của hoạt động kinh doanh này có ảnh hưởng rất lớn đến toàn
bộ nền kinh tế - xã hội.

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

13

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


Đó chính là những lý do mà hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động
CTD của NHTM nói riêng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật và sự
tham gia quản lý của Nhà nước để điều hòa và định hướng các quan hệ phát sinh
trong các hoạt động này.
1.2.2. Đòi hỏi của tiến trình hội nhập kinh tế- tài chính quốc tế ở nƣớc
CHDCND Lào
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 11 năm 1986, đã thông qua Báo cáo Chính trị
và nhận định: Sau hơn 10 năm giải phóng, mặc dù trải qua nhiều khó khăn, thử
thách, nhưng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
sự nghiệp đổi mới và đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, tạo điều kiện cho
cách mạng Lào tiến lên giành nhiều thành tựu mới trên các mặt trận chính trị,
kinh tế và xã hội; định ra nhiệm vụ, bước đi trong công cuộc đổi mới toàn diện
của sự nghiệp cách mạng Lào xuất phát từ đặc điểm cụ thể ở Lào và phù hợp với
bối cảnh mới của thế giới [1, tr 13]. Đây chính là cơ sở để cho các lĩnh vực kinh
tế, xã hội của nước CHDCND Lào hội nhập quốc tế, trong đó có các các hoạt
động thuộc lĩnh vực tài chính- ngân hàng.
Năm 1992, Ngân hàng nông nghiệp Lào được thành lập, chính thức mở ra
một thời kỳ mới trong hoạt động ngân hàng ở CHCNDN Lào, thời kỳ của các
NHTM, hoạt động ngân hàng ở CHDCND Lào dần dần thoát khỏi cơ chế quản
lý tập trung, bao cấp và thừa nhận tính thương mại trong hoạt động ngân hàng.
Từ đó cho đến nay, ở nước CHCNDN Lào lần lượt các ngân hàng có hoạt động
mang tính thương mại được thành lập với đủ các hình thức từ NHTM nhà nước;
NHTM cổ phần; NHTM liên doanh; chi nhánh NHTM nước ngoài và các công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, các quỹ tín dụng vừa và nhỏ,…. Hiện tại
ở nước CHCNDN Lào có 26 NHTM bao gồm cả NHTM của nhà nước (04 ngân
hàng), NHTM cổ phần, NHTM liên doanh với nước ngoài, chi nhánh NHTM
nước ngoài (22 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng). Nhu cầu hoàn thiện pháp luật
theo hướng mở cửa để khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trong nước, vốn đầu

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

14

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính- ngân hàng đã tồn tại một cách khách quan
và cần được quán triệt mạnh mẽ trong xây dựng, ban hành và hoàn thiện pháp
luật tài chính - ngân hàng [23, tr 14].
Trước nhu cầu đó, pháp luật không thể trong trạng thái tĩnh mà phải có sự
thay đổi cho phù hợp, thậm chí là thay đổi trước sự phát triển của hoạt động
ngân hàng và hoạt động CTD của NHTM.
1.3. Sơ lƣợc sự phát triển của pháp luật về hoạt động CTD của
NHTM tại nƣớc CHDCND Lào
Ngày 14 tháng 10 năm 1995 Luật ngân hàng nhà nước Lào chính thức có
hiệu lực, đánh dấu bước phát triển mới của hệ thống các quy định pháp luật về
hoạt động ngân hàng, mở ra cơ hội kinh doanh ngân hàng ở một quy mô rộng
lớn hơn. Luật ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh những quan hệ cơ bản nhất
trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, với những nội dung chính:
- Các quy định liên quan đến bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng
được đề cập đến đầu tiên như một đòi hỏi của thực tiễn đề hoạt động ngân hàng
phát triển hài hòa và ổn định;
- Các quy định liên quan đến hoạt động huy động vốn cũng được quy định
rõ ràng. Việc xây dựng các quy định liên quan đến huy động vốn được xây dựng
dựa trên cơ sở học tập, có chọn lọc những tư tưởng, kinh nghiệm pháp luật liên

quan đến hoạt đồng này của một số quốc gia có hệ thống pháp luật ngân hàng
phát triển.
- Bên cạnh đó phải kể đến những quy định điều chỉnh các hoạt động CTD
của NHTM nhà nước. Những quy định pháp luật về hoạt động CTD của NHTM
nhà nước, NHTM ngoài quốc doanh đã có sự phát triển nhất định so với thời kỳ
trước, điều đó được thể hiện:
+ Về số lượng các văn bản: Từ năm 1996 đến năm 2006 đã có 21 văn bản
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh, hướng dẫn thi
hành pháp luật về hoạt động CTD của NHTM Nhà nước. Từ năm 2006 đến năm
2011 tổng cộng 37 văn bản pháp luật được các cơ quan nhà nước ban hành để
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

15

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

điều chỉnh, hướng dẫn thi hành pháp luật về hoạt động CTD của NHTM nhà
nước ở nước CHDCND Lào, phải kể đến một số văn bản có tính chất bước ngoặt
và vai trò quan trọng đối với hoạt động CTD của NHTM nhà nước như: Quyết
định số 128/BOL của Thống đốc Ngân hàng Lào, ngày15/01/1996 về chính sách
tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước và tổ chức tài chính nhà nước;
Nghị định số 135/PM của Thủ tướng Chính phủ, ngày 04/04/2000 về cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Lào và ngân hàng thương mại nhà
nước; Quyết định số 06/BOL của Thống đốc Ngân hàng Lào, ngày 15/11/1996
về quy chế yêu cầu phân loại cho vay của ngân hàng thương mại nhà nước dưới

sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước Lào.
Tuy nhiên, thời kỳ này pháp luật dường như đã kìm hãm sự phát triển của
các NHTM ngoài quốc doanh, trong đó có hoạt động CTD của NHTM ngoài
quốc doanh. Chính những vấn đề này đã đòi hỏi và mở ra sự thay đổi lớn đối với
pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động CTD nói
riêng ở nước CHDCND Lào.
Ngày 26 tháng 12 năm 2006 Quốc hội nước CHDCND Lào đã thông qua
Luật số 03/CG về ngân hàng thương mại với những quy định các vấn đề từ cơ
cấu, tổ chức, thành lập, hoạt động giải thể, đặc biệt là những quy định liên quan
đến hoạt động ngân hàng, trong đó có các quy định về hoạt động CTD của
NHTM. Luật ngân NHTM năm 2006 đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển
của NHTM và hoạt động CTD của NHTM cũng như pháp luật về hoạt động
CTD của NHTM ở nước CHCNDN Lào.
Để cụ thể hóa luật và thuận lợi cho việc thi hành, từ khi Luật NHTM năm
2006 có hiệu lực, Nhà nước, Chính phủ nước CHCNDN Lào, Ngân hàng Nhà
nước Lào đã ban hành một loạt các văn bản dưới luật như: Sắc lệnh, Nghị định,
Quyết định để hướng dẫn thi hành Luật. Trong đó có những văn bản điều chỉnh
các hoạt động CTD của NHTM như:
Quyết định 365/BOL ngày 30/10/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Lào về hợp đồng tín dụng;
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

16

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


Nghị định 128/BOL ngày 19/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước về xử lý
vi phạm trong hoạt động ngân hàng và giải quyết tranh chấp tín dụng;
Nghị định số 121/BOL ngày 22/01/2007 của Ngân hàng Nhà nước Lào
hướng dẫn thi hành một số quy định về bảo lãnh ngân hàng quy định trong Luật
ngân hàng thương thương mại năm 2006;
Nghị Định số 01/BOL ngày 15/03/2007, quy định về chiết khấu, tái chiết
khấu trái phiếu, thương phiếu và giấy tờ có giá;
Quyết định 127/BOL ngày 13 tháng 7 năm 2008 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Lào quyết định tỷ lệ an toàn và các hoạt động đảm bảo an toàn
trong hoạt động của ngân hàng thương mại;
Nghị định số 112/BOL ngày 18/10/2010 về vi phạm pháp luật trong kinh
doanh ngân hàng của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó là các văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến hoạt
động CTD của NHTM: Giữ nguyên hiệu lực của một số văn bản dưới luật được
ban hành trước khi Luật NHTM năm 2006 có hiệu lực; Quyết định số 37/BOL
của Thống đốc Ngân hàng Lào, ngày 19/01/2007 về việc trích lập quỹ dự trữ bắt
buộc; Quyết định số 129/BOL của Thống đốc Ngân hàng Lào, ngày 18/5/2007
về việc sử dụng tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn; Nghị định số
141/PM của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24/9/2009 về tăng vốn điều lệ của ngân
hàng thương mại và vốn đầu tư của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Lào;.v.v…
+ Về chất lượng: Cơ bản, các quy định này đã đáp ứng được nhu cầu điều
chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động ngân hàng, CTD của NHTM ở nước
CHCNDN Lào. Cũng giống như Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới,
pháp luật về hoạt động CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào được điều chỉnh
bằng hầu hết các văn bản dưới luật, luật chỉ mang tính chất quy định chung và
định hướng. Lý giải cho điều này, hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD là hoạt
động đầy biến động nên pháp luật phải liên tục thay đổi cho phù hợp với sự biến
động cũng như sự phát triển [10, tr 2].

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

17

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Việc một loạt các văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng nói chung và
hoạt động CTD của NHTM nói riêng liên tục được ban hành, đã chứng tỏ nhu
cầu về bằng pháp luật đối với hoạt động ngân hàng, CTD của NHTM là cần thiết
ở nước CHCNDN Lào.
1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
CTD của NHTM tại nƣớc CHDCND Lào
Các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động CTD của NHTM nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với không chỉ riêng
sự phát triển của lĩnh vực tài chính - ngân hàng mà còn có vai trò quan trọng đối
với kinh tế - xã hội của một quốc gia. Bởi tài chính là năng lượng, hệ thống ngân
hàng là huyết mạch để đưa tài chính đi nuôi sống và vận hành nền kinh tế quốc
dân. Lý luận này đã được khẳng định ở nước CHDCND Lào một nền đất nước
đang thoát khỏi nền kinh tế chậm phát triển để hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy vậy, nền kinh tế của nước CHDCND Lào vẫn một nền kinh tế được
đánh giá là chậm phát triển trong khu vực và thế giới, nền kinh tế còn mang tính
chất “đóng” thì việc phát triển hệ thống ngân hàng và hoàn thiện pháp luật ngân
hàng có những ý nghĩa rất tích cực.
Từ khi những quy định đầu tiên đặt nền móng về bằng pháp luật đối với
các hoạt động ngân hàng vào những năm đầu đổi mới cho đến nay pháp luật về

các hoạt động ngân hàng đã trở thành một ngành luật trong hệ thống pháp luật
nước CHDCND Lào và ý nghĩa của pháp luật về các hoạt động ngân hàng đối
với nền kinh tế - xã hội và pháp luật kinh tế nước CHDCND Lào đã được khẳng
định qua những phương diện sau đây:
- Về các hoạt động ngân hàng nói chung và các hoạt động CTD của
NHTM nói riêng bằng pháp luật không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nước CHDCND Lào mà còn là một trong những việc làm có ý
nghĩa đối với an ninh - quốc phòng. Bởi một nền kinh tế chậm phát triển như
nước CHDCND Lào sẽ không thể có nhiều tiềm lực để nền an ninh - quốc
phòng vững mạnh. Những năm qua, thành quả của các lĩnh vực kinh tế, trong đó
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

18

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

lĩnh vực ngân hàng đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự ổn định về an ninh
- quốc phòng của nước CHDCND Lào [30, tr 15].
- Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động CTD của NHTM ở nước
CHDCND Lào nói riêng là một trong những hoạt động có tác động tới mọi mặt
của đời sống xã hội, đến các lĩnh vực khác của nên kinh tế - xã hội và đến đời
sống của từng người dân. Chính vì có phạm vi tác động rộng lớn nên việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động
CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào nói riêng trở nên cần thiết hơn bao giờ
hết. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng và pháp luật về hoạt động

CTD của NHTM ở nước CHDCND Lào sẽ tạo ra cơ sở pháp lý phù hợp để tác
động nhằm tạo ra bước đột phá trong phát triển, phát huy vai trò của các hoạt
động hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của NHTM. Mặt khác, sẽ hạn chế
những tiêu cực, rủi ro từ hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của NHTM mang
lại cho nền kinh tế đang phát triển ở nước CHDCND Lào.
- Công cuộc đổi mới ở nước CHDCND Lào với nhiệm vụ là chuyển từ
nền kinh tế tập trung, tự cung, tự cấp, cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN với việc thừa nhận
nhiều thành phần kinh tế khác nhau và đánh giá cao vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân. Riêng đối với hoạt động ngân hàng cũng có sự thừa nhận nhiều hình
thức các TCTD, trong đó có các NHTM, NHTM nước ngoài, chi nhánh NHTM
nước ngoài, NHTM liên doanh là minh chứng cho sự thay đổi đó. Trong giai
đoạn này pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động CTD của
NHTM nói riêng thực sự là một trong những biện pháp khuyến khích sự phát
triển các loại hình TCTD, trong đó có NHTM, cũng như khuyến khích sự phát
triển của các hình thức CTD của NHTM [30, tr 19].
Thực tế ở nước CHDCND Lào trước thời kỳ đổi mới đã chứng minh, pháp
luật về hoạt động ngân hàng và pháp luật về CTD của NHTM còn có nhiều yếu
kém, thiếu sót và thiếu đồng bộ. Ở giai đoạn này các hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là các hoạt động CTD của NHTM đã gặp phải nhiều khó khăn trong thực hiện
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

19

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


cũng như rủi ro, thiệt hại không đáng có, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế.
Trong đó phổ biến là tình trạng nợ quá hạn tăng cao, khả năng thanh toán ngày
càng thâm hụt, khả năng cung ứng vốn của các NHTM gần như không có, nhưng
“vốn đọng, vốn chết” trong nhân dân lại rất lớn và nhàn rỗi. Sau khi có những thay
đổi về tư duy kinh tế, sự đổi mới trong quản lý dẫn đến sự thay đổi trong pháp luật
về hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của NHTM đã tạo ra bước nhảy vọt về
lượng và chất của hoạt động các hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của
NHTM [30, tr 21].
- Trong những năm gần đây, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra rất
bức thiết đối với kinh tế - xã hội và pháp luật nước CHDCND Lào. Việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về các hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD của
NHTM là một trong những hành động cụ thể để đáp ứng đòi hỏi đó của việc hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, kể từ
khi Luật NHTM năm 2006 có hiệu lực, hoạt động ngân hàng, hoạt động CTD
của NHTM ở nước CHDCND Lào đã có những sự thay đổi, phát triển cả về
lượng và chất với việc tham gia của các tập đoàn tài chính hùng mạnh trên thế
giới vào lĩnh vực ngân hàng của nước CHDCND Lào theo hình thức thành lập
NHTM 100% vốn nước ngoài, NHTM liên doanh hay mở chi nhánh hoạt động.
Chính sự phát triển này đã giải quyết được vấn đề căn bản nhất của công cuộc
đổi mới và hội nhập của nước CHDCND Lào là vốn cho phát triển kinh tế- xã
hội và hội nhập quốc tế [10, tr 12].
Kết luận Chƣơng 1
Trên đây, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ những vấn đề lý luận
chung về NHTM, hoạt động CTD của NHTM và pháp luật về hoạt động CTD
của NHTM. Từ việc phân tích này, tác giả đã cố gắng tìm hiểu những vấn đề
chung nhất của pháp luật về hoạt động CTD của NHTM nói chung và pháp luật
về hoạt động CTD của NHTM tại nước CHDCND Lào nói riêng. Qua đó làm cơ
sở để tìm hiểu, phân tích và đánh giá pháp luật về hoạt động CTD của NHTM tại
nước CHDCND Lào.

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

20

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI NƢỚC CHDCND LÀO
2.1. Thực trạng pháp luật về nội dung các hoạt động CTD của
NHTM
2.1.1. Pháp luật về hoạt động cho vay
2.1.1.1. Chủ thể và điều kiện
* Về chủ thể
Theo các quy định của pháp luật về cho vay được cụ thể hóa trong các văn
bản pháp luật thì chủ thể của hoạt động CTD dưới hình thức cho vay tín dụng là
TCTD, trong đó có các NHTM (chủ thể chiếm ưu thế trong số các TCTD ở nước
CHDCND Lào) và khách hàng là những tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham
gia quan hệ cho vay theo quy định của pháp luật về cho vay của nước CHDCND
Lào. Ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, đó là các trường hợp cho vay có
tài sản bảo lãnh mà tài sản bảo lãnh cho quan hệ cho vay đó thuộc quyền sở hữu
của người thứ ba. Người thứ ba này tham gia quan hệ cho vay với tư cách người
bảo lãnh của người vay đối TCTD là các NHTM. Khi tham gia quan hệ cho vay,
người bảo lãnh sẽ có những quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật hiện

hành của nước CHDCND Lào [6, tr 25].
- Bên cho vay: Đó là các TCTD được thành lập theo quy định của pháp
luật nước CHDCND Lào, trong đó có các NHTM. Theo pháp luật hiện hành của
nước CHDCND Lào, các loại hình NHTM sau đây được cấp phép kinh doanh
hoạt động cho vay: NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, NHTM 100% vốn nước
ngoài, chi nhánh NHTM nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước CHDCND
Lào [6, tr 31].
- Bên vay: Đó là các tổ chức, cá nhân sinh sống, làm việc trên lãnh thổ
nước CHDCND Lào nhưng có sự phân biệt giữa tổ chức, cá nhân mang quốc
tịch, tư cách pháp nhân trong nước với tổ chức, cá nhân mang quốc tịch, tư cách
pháp nhân nước ngoài.
ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

21

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

* Về điều kiện
- Đối với bên cho vay: Với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh một loại
hàng hóa đặc biệt các TCTD mà cụ thể là NHTM ở nước CHDCND Lào phải
đáp ứng rất nhiều điều kiện trong CTD dưới hình thức cho vay. Cụ thể: Có giấy
phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước Lào cung cấp; Có giấy
chứng nhận được phép CTD dưới hình thức cho vay do Ngân hàng Nhà nước
Lào cung cấp; Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền giao kết hợp đồng
tín dụng.

Nhìn chung, đây là những quy định mà TCTD là NHTM phải đáp ứng để
trở thành chủ thể để tham gia quan hệ cho vay. Các quy định về điều kiện đối với
TCTD là NHTM được ghi nhận trong Luật NHTM năm 2006 đã có những thay
đổi tích cực hơn so với trước kia để phù hợp hơn với điều kiện thực tế.
- Đối với bên vay: Phạm vi các điều kiện để tham gia quan hệ cho vay với
NHTM là rộng hơn. Các tổ chức, cá nhân phải đáp ứng những điều kiện cụ thể
sau đây:
+ Điều kiện chung: Bên vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự nước CHDCND Lào;
Mục đích sử dụng vốn vay của bên vay là rõ ràng và hợp pháp. Điều đó có
nghĩa, bên vay không được sử dụng vốn vay để kinh doanh những ngành, nghề
mà pháp luật nước CHDCND Lào cấm hoặc hạn chế; Bên vay phải có khả năng
tài chính để đảm bảo trả nợ theo thời hạn cam kết. Đây vừa là điều kiện đối với
bên vay và là nghĩa vụ đối với bên cho vay, để thực hiện các quy định về đảm
bảo an toàn trong CTD theo quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà bên vay phải đáp ứng các
điều kiện mang tính chất tùy nghi sau đây: Phải có phương án sử dụng vốn có
khả thi và hiệu quả trong thời gian vay; Phải có tài sản cầm cố, thế chấp (tài sản
bảo đảm); Phải có người đứng ra bảo lãnh đối với khoản vay. Người đứng ra bảo

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

22

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


đảm cũng phải đáp ứng các điều kiện về bảo lãnh theo quy định của pháp luật
dân sự nước CHDCND Lào [6, tr 32].
+ Điều kiện riêng:
Đối với bên vay là tổ chức: Bên vay là tổ chức phải đáp ứng các điều kiện
như: Được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào,
có người đại diện hợp pháp để tham gia các giao dịch dân sự, có trụ sở và các
điều kiện khác.
Đối với bên vay là cá nhân: Bên vay là cá nhân phải đáp ứng các điều
kiện như: Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có các giấy tờ tùy thân, không
phải là người mắc bệnh tâm thần và các bệnh khác làm mất khả năng điều khiển
hành vi,…
2.1.1.2. Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng theo Quyết định 365/BOL ngày 30/10/2007 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lào về hợp đồng tín dụng: “Hợp đồng cho vay
là thỏa thuận phù hợp với các quy định của pháp luật giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng được ghi nhận dưới hình thức văn bản. Theo đó, tổ chức tín dụng sẽ
chuyển cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng trong một thời hạn nhất định.
Sau khi hết thời hạn, khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả lại cho tổ chức tín dụng
cả gốc và lãi như đã thỏa thuận”.
* Về hình thức. Pháp luật về hoạt động cho vay của nước CHDCND Lào
ghi nhận văn bản chứa đựng các điều khoản làm căn cứ để thực hiện hoạt động
cho vay của TCTD nói chung và NHTM nói riêng với khách hàng luôn luôn
phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi quan hệ cho
vay cũng như những quan hệ CTD khác có đối tượng là tiền tệ (trực tiếp hay
gián tiếp). Chính vì vậy, hợp đồng tín dụng được xây dựng dưới hình thức văn
bản sẽ chiếm ưu thế trong việc đảm bảo thực hiện và hiệu quả giải quyết khi
tranh chấp phát sinh [6, tr 36].
* Về nội dung. Quan hệ cho vay được thể hiện bằng những thỏa thuận
được ghi nhận trong một văn bản. Chính vì vậy, hợp đồng tín dụng sẽ chứa đựng

ĐAPHET LOUANGSOMPHOU

LỚP: CH18


×