Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.19 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ THU THỦY

PHÁP LUẬT VỀ NỘP ĐƠN VÀ THỤ LÝ ĐƠN YÊU CẦU
MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ NỘP ĐƠN,
THỤ LÝ ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN ................................... 5
1.1 Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản .................................. 5
1.1.1. Khái niệm phá sản ........................................................................ 5
1.1.2 Pháp luật phá sản ở Việt Nam....................................................... 12
1.1.3 Thủ tục giải quyết phá sản - thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt ........ 15


1.1.4 Vai trò của Luật Phá sản và sự tiến bộ của Luật phá sản (2004) .. 18
1.2. Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................ 23
1.2.1. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .................................................. 24
1.2.2 Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ......................................... 25
1.2.3. Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ........................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NỘP ĐƠN VÀ THỤ LÝ .. 26
ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN ................................................ 26
2.1. Những quy định pháp luật về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ......... 26
2.1.1. Thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản .................................................................................................. 27
2.1.2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ................ 33
2.1.3. Chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. ........... 41
2.2. Pháp Luật về thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .......................... 44
2.2.1. Thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .............. 44
2.2.2. Phí phá sản và tạm ứng phí phá sản ............................................ 48
2.2.3. Trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ....................................... 51
2.2.4. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ........................................ 52


2.3. Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản và một vài nhận
định ........................................................................................................... 54
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NỘP ĐƠN VÀ THỤ LÝ ... 60
ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN ................................................ 60
3.1. Về tiêu chí doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.......................... 60
3.2. Về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản...................................... 61
3.3. Về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản................................... 64
3.4. Một số kiến nghị thực thi Luật Phá sản. ............................................. 66
3.4.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản ................. 66
3.4.2. Đối với ngành Toà án .................................................................. 67
3.4.3. Đối với cơ quan thi hành án dân sự ............................................. 68

3.4.4. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán ........................................... 68
3.4.5. Giải toả yếu tố tâm lý ................................................................... 69
KẾT LUẬN.................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 71


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện tượng “phá sản” hay “vỡ nợ” đã có từ lâu, nhưng với tư cách là
một hiện tượng phổ biến thì nó mới chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
Do đó, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chế định “vỡ nợ”
hay “phá sản” luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật
về kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với các quyền cơ bản khác của công
dân, quyền tự do kinh doanh được Nhà Nước tôn trọng, đề cao, bảo vệ. Trong
nền kinh tế này, bên cạnh những doanh nghiệp do kinh doanh có hiệu quả nên
đã tồn tại và phát triển thì có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp do
làm ăn kém hiệu quả, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến
hạn nên buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong
điều kiện như vậy, để ổn định xã hội và lợi ích chính trị, Nhà nước phải quan
tâm và tạo điều kiện để những doanh nghiệp thua lỗ, không có khả năng phục
hồi này rút khỏi thương trường một cách hợp pháp và ít gây hậu quả xấu cho
các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung.
Việc tòa án tuyên bố phá sản một chủ thể không còn đủ tư cách kinh
doanh trong thương trường không chỉ có ý nghĩa là bảo vệ quyền lợi của các
chủ nợ và sự an toàn cho bản thân người mắc nợ mà còn góp phần bảo đảm sự
ổn định của xã hội và kích thích đầu tư. Để thực hiện được các mục tiêu này
Nhà nước phải ban hành pháp luật để xử lý các vấn đề liên quan đến doanh

nghiệp mắc nợ, giải quyết một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp
những văn bản pháp luật này tạo thành một lĩnh vực pháp luật gọi là pháp luật
về phá sản mà xương sống của nó là Luật Phá Sản.
Nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường một cách có
trật tự hoặc phục hồi lại doanh nghiệp hoạt động, pháp luật phá sản đã quy
định về vấn đề nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhằm “giải


2

thoát” cho doanh nghiệp khỏi tình trạng bế tắc một cách kịp thời. Với những
lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản – những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm Luận văn thạc sỹ
chuyên nghành luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việt Nam đã có hai luật phá sản là Luật Phá sản doanh nghiệp (1993)
và Luật Phá sản (2004). Hơn 18 năm qua, kể từ ngày ban hành văn bản luật
đầu tiên về phá sản, đã có hàng chục công trình ở các cấp độ khác nhau
nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của Luật Phá sản cũng như phương
hướng hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Trong số các công trình đó, có thể
kể đến như: Pháp luật phá sản của Việt Nam, của PGS.TS Dương Đăng Huệ
(2005); Luật Phá sản Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng
hoàn thiện, Luận án Tiến sỹ của tác giả Trương Hồng Hải (2005); Các giải
pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2009 của Bộ Tư Pháp do PGS.TS Dương Đăng
Huệ làm chủ nhiệm v.v..
Bên cạnh những công trình nghiên cứu ở tầm tiến sỹ và tầm đề tài
nghiên cứu cấp bộ như đã nêu trên, đã có một số luận văn thạc sỹ của các học
viên cao học tại các trung tâm đào tạo luật trên cả nước. Như: Xử lý tài sản
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản (2004),

Nguyễn Kim Chi (2005) - Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật Hà
Nội; Thủ tục giải quyết phá sản theo Luật Phá sản năm 2004, Đồng Thái
Quang (2005) – Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội;
Cũng có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn, được đăng tải trên
các tạp chí chuyên ngành như “Trình tự, thủ tục nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản” của tác giả Vũ Hồng Vân trên Tạp chí Kiểm sát số 19 năm 2005; Cơ
sở khoa học của các quy định về tình trạng phá sản trong Luật phá sản


3

(2004) của tác giả Nguyễn Trọng Điệp trên tạp chí Nhà nước và Pháp Luật số
7 năm 2007…
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề nộp đơn và thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản một cách chuyên sâu mà ở các công trình trên
chủ yếu mang tính lý luận và thực tiễn chung về phá sản và pháp luật về phá
sản ở phông rộng .
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lenin, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khoa học
khác như phân tích, so sánh, tổng hợp…Bên cạnh việc nghiên cứu các quy
định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp, có sự so sánh, đối chiếu và đánh giá
khách quan để hoàn thiện các nội dung trong khuôn khổ đề tài.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau nhằm làm sáng tỏ
cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản theo quy định của Luật phá sản (2004). Qua đó đề xuất kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản.

4.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về nộp đơn
và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về nộp
đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.


4

Thứ ba, phân tích được các ưu điểm cũng như nhược điểm của pháp
luật phá sản hiện hành về vấn đề nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
Thứ tư, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nộp đơn
và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu của
Khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phá sản và nộp đơn, thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ NỘP ĐƠN, THỤ LÝ ĐƠN
YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN

1.1 Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản
1.1.1. Khái niệm phá sản
Ở châu Âu, khi nói đến phá sản doanh nghiệp người ta thường dùng từ
“Bankrupcy” hoặc “Banqueroute”. Hai từ này bắt nguồn từ chữ “Banca
Rotta” của La Mã – có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”. Thuật ngữ phá sản được
hình thành và bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng Latinh – có nghĩa là sự
khánh tận – tức là mất khả năng thanh toán.
Từ thời La Mã cổ đại, các thương gia của một thành phố thường họp
nhau lại gọi là đại hội thương gia và trong quan hệ giao lưu thương mại giữa
các thương gia với nhau, người nào không trả được nợ thường bị bắt làm nô lệ
và mất luôn quyền tham gia đại hội thương gia và đồng thời chiếc ghế ngồi
của người đó cũng bị đem ra khỏi hội trường, nhiều người mắc nợ không trả
được nợ thì bỏ trốn, gây mất ổn định trật tự xã hội.
Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước La Mã phải đứng ra cưỡng chế
tài sản của người mắc nợ để trả cho chủ nợ, song cách này cũng chỉ thích hợp
đối với trường hợp người mắc nợ một người. Trong trường hợp cùng một lúc
người mắc nợ phải trả cho nhiều chủ nợ thì rất dễ xảy ra tranh chấp, nhất là khi
người mắc nợ không còn đủ tài sản để trả nợ, đối với trường hợp này Tòa án
địa phương nơi cư trú của người mắc nợ thường được yêu cầu đứng ra quản lý
số tài sản của người mắc nợ, rồi phân chia tài sản này cho các chủ nợ tùy theo
vốn và lãi của mỗi chủ nợ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chế định này
được hoàn chỉnh và đã được nâng lên thành Luật Phá sản của nhà nước La Mã
cổ đại. Ở thời kỳ này, thuật ngữ phá sản đã được hình thành, bắt nguồn từ chữ
“ruin” trong tiếng Latinh – có nghĩa là mất khả năng thanh toán.


6

Ở Việt Nam, thuật ngữ “phá sản” được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc
do người Pháp mang sang Việt Nam cùng quá trình thực dân hóa. Theo cách

nói thông thường, phá sản là tình trạng của một người vỡ nợ không còn bất cứ
tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn. Theo từ điển tiếng Việt, “phá sản” là
lâm và tình trạng phá sản chẳng còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị
thua lỗ, thất bại; “vỡ nợ” là lâm vào tình trạng bị thua lỗ, thất bại liên tiếp
trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả nợ [17, tr.762].
Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng người mắc nợ lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (thường là Tòa án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn lại
của người mắc nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định. Trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thuật ngữ này dường như không được biết
đến. Pháp luật phá sản và thuật ngữ phá sản chỉ thực sự được sử dụng trở lại
kể từ khi có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
kinh tế thị trường. Theo đó, hiện tượng phá sản dưới tác động của cạnh tranh
đã trở thành hiện tượng bình thường và tất yếu.
Về tên gọi, tên gọi thông dụng và phổ biến nhất của tình trạng “khánh
tận” của doanh nghiệp là tình trạng phá sản, vỡ nợ, hay mất khả năng thanh
toán. Văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ này thông dụng nhất là Luật Phá
sản. Tuy nhiên, ở mỗi nước khác nhau thì có thể có các tên gọi khác nhau: ở
Nam Tư có Luật cưỡng chế hoà giải phá sản (năm 1905); ở Anh có Luật
không có khả năng thanh toán, Luật treo giò giám đốc công ty (năm 1986); ở
Hàn Quốc có Luật cam kết và Luật tổ chức lại công ty…
Phá sản doanh nghiệp là tình trạng một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
dẫn đến việc làm mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị Tòa án ra quyết
định bắt buộc doanh nghiệp thanh lý tài sản để trả nợ cho các chủ nợ. Thuật
ngữ “phá sản” tuy được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày và trong
khoa học pháp lý nhưng cho đến nay vẫn chưa được chính thức giải thích


7


trong các văn bản pháp luật về phá sản nước ta. Thay vào đó là thuật ngữ
“lâm vào tình trạng phá sản” được sử dụng và giải thích.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, do xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau nên có thể có các quan niệm khác nhau về “tình trạng phá sản”.
Có nước, khi xác định tình trạng phá sản, ngoài yếu tố chung, cơ bản, thiết
yếu là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn còn phải có thêm một dấu hiệu
nữa là thời hạn chậm thanh toán. Ví dụ, theo Điều 3 Luật mất khả năng thanh
toán (Phá sản) của CHLB Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị
coi là đã lâm vào tình trạng phá sản nếu sau 3 tháng, kể từ ngày đến hạn phải
trả mà họ không trả được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định thêm về thời
gian chậm thanh toán có ý nghĩa nhất định, nhằm khẳng định thêm tính trầm
trọng của tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ. Ngoài ra, một số
nước còn bổ sung thêm một dấu hiệu nữa vào khái niệm tình trạng phá sản là
con nợ không thể thanh toán được một khoản tiền tối thiểu nào đó. Ví dụ, theo
Luật Phá sản của Singapore năm 1999 thì con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá
sản khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất là 5.000 $ Singapore; theo Luật
Mất khả năng thanh toán (Phá sản) của CHLB Nga năm 2002 thì số tiền đó
đối với pháp nhân là không dưới 100.000 Rúp và đối với cá nhân là không
dưới 10.000 Rúp (Điều 6); ở Mỹ, số tiền này là không dưới 10.000 USD. Mục
đích của việc quy định này là nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự tìm
cách giải quyết êm thấm các vụ tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình
thức khác thay vì đưa nó ra Toà án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm
giúp tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và Nhà nước
Nếu căn cứ vào nội dung của các tiêu chí xác định một doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản, thực tiễn điều chỉnh pháp luật về phá sản của các
nước trên thế giới hiện nay đã và đang tiếp tục sử dụng ba tiêu chí sau đây:
- Tiêu chí “định lượng”: theo tiêu chí này một doanh nghiệp bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản khi không thanh toán được một món nợ đến hạn có



8

giá trị tối thiểu đã được ấn định trong Luật Phá sản. Theo Luật phá sản của
Vương quốc Anh số tiền này là 50 Bảng, ở Singapore là trên 2000 SGD…
Ban đầu tiêu chí “định lượng” được thiết kế nhằm hạn chế bớt những
đối tượng cần phải áp dụng Luật Phá sản. Mặt khác, cách làm này đã cho
phép Tòa án có thể mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đối với bất cứ trường
hợp nào mà không cần phải điều tra về tình hình tài chính của doanh nghiệp
mắc nợ. Trong một thời gian dài, cách làm này đã làm cho nhiều quốc gia
thuộc dòng họ Common Law vốn có hệ thống án lệ rất phát triển nhanh chóng
tiếp thu vì nó rõ ràng, minh bạch và bảm đảm tính tập trung vốn có của Tòa
án khi mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tuy nhiên cũng có thể dễ dàng nhận thấy tiêu chí “định lượng” trong
quá trình thực hiện cũng bộc lộ nhiều hạn chế vốn có của nó: không đảm bảo
tính chính xác trong việc đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp mắc
nợ vì nhiều doanh nghiệp do những nguyên nhân khác nhau có thể mất khả
năng thanh toán nhất thời; doanh nghiệp mắc nợ trước sức ép của thủ tục phá
sản đã buộc phải bán tài sản của mình với mức giá quá thấp hoặc phải đi đến
những thỏa hiệp bất bình đẳng trước sức ép của các chủ nợ…
Ngược lại, doanh nghiệp mắc nợ có thể lâm vào tình trạng tài chính bi
đát và không thể khắc phục được nhưng có thể không bị mở thủ tục yêu cầu
tuyên bố phá sản do mức nợ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ đều dưới
mức định lượng mà Luật phá sản cho phép. Kết quả là, khi mở thủ tục yêu cầu
tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp này thì các mục tiêu chủ yếu của Luật
phá sản đã không đạt được.
- Tiêu chí “kế toán”: tiêu chí này được thực hiện thông qua sổ sách kế
toán của doanh nghiệp mắc nợ. Nếu như các số liệu kế toán của doanh nghiệp
cho thấy tổng giá trị tài sản nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản có thì doanh nghiệp
đó là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.



9

So với tiêu chí “định lượng”, tiêu chí “kế toán” đã phản ánh chính xác
hơn tình trạng tài chính của doanh nghiệp mắc nợ và do đó nó cho phép thu
hẹp hơn phạm vi những doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản.
Bên cạnh những ưu điêm, tiêu chí “kế toán” cũng bộc lộ một số hạn chế
căn bản như:
+ Tài sản của doanh nghiệp được phản ánh trên sổ sách kế toán và giá
trị thực của nó thường không khớp nhau do sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ dẫn tới việc đánh giá doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản là quá mạo hiểm.
+ Để có thể áp dụng tiêu chí này đòi hỏi hệ thống pháp luật về kế toán,
thống kê phải đồng bộ và hiện đại. Trình độ quản lý về kế toán thống kê ở
trình độ cao và được thực hiện nghiêm túc tử cả hai phía Nhà nước và các
doanh nghiệp. Yêu cầu này không chỉ tỏ ra quá cao đối với các quốc gia đang
phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi mà thậm chí cả đối với
các nước phát triển.
Mặc dù vậy, với những ưu điểm của mình, tiêu chí “kế toán” đã được
tiếp thu một cách nhanh chóng trong Luật phá sản ở các nước thuộc hệ thống
pháp luật châu Âu lục địa, và các quốc gia chịu ảnh hưởng của dòng họ pháp
luật này như: Luật Phá sản của Pháp 1967, Luật Phá sản của Thái Lan trước
năm 1999, Luật Phá sản của CHLB Nga…trong một thời gian dài. Tuy nhiên
trên cơ sở nhận thức sâu sắc những bất cập của tiêu chí “kế toán”, Luật Phá
sản của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển trong những thập
kỷ gần đây đã không còn sử dụng nó để xác định một doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản chẳng hạn như: Luật phá sản liên bang Mỹ 1978, Luật Phá
sản của Vương quốc Tây Ban Nha, Luật Phá sản của Pháp 1985…
- Tiêu chí định tính “mất khả năng thanh toán”: tiêu chí này được sử
dụng đầu tiên trong Luật phá sản liên bang Mỹ 1978 để xác định một doanh



10

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và sau này được nhiều quốc gia trên thế giới
tiếp thu và chuyển hóa vào trong pháp luật phá sản của mình. Khác với hai tiêu
chí trên, tiêu chí này quan tâm trực tiếp đến tính “tức thời của việc trả nợ”, khả
năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp mắc nợ mà không giành nhiều sự
quan tâm của mình đến số lượng tài sản hiện có của doanh nghiệp mắc nợ. Ở
góc độ tài chính – kế toán, tiêu chí này chỉ xem xét chủ yếu dòng tiền (cash
follow) của doanh nghiệp mắc nợ khi đánh giá khả năng thanh toán của họ.
Như vậy, với tiêu chí này, doanh nghiệp bị phá sản không chỉ là những doanh
nghiệp không còn hoặc còn rất ít tài sản mà thậm chí còn rất nhiều tài sản song
vì nhiều nguyên nhân khác nhau không hoặc chưa thể hiện số tài sản đó ngay.
So với hai tiêu chí đã được trình bày ở trên, tiêu chí này đã làm cho mở
rộng khả năng mở thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp đến sớm hơn để
có thể có những giải pháp “phục hồi” hoặc cho phá sản doanh nghiệp đó một
cách kịp thời để bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân doanh nghiệp mắc nợ và các chủ nợ, ngăn chặn hiện tượng phá sản
dây chuyền.
Tiêu chí định tính “mất khả năng thanh toán” được sử dụng cả trong
thủ tục phá sản mang tính chất của Luật công và thủ tục phá sản mang tính
chất của Luật tư.
Theo quy định tại Luật Phá sản doanh nghiệp (1993) thì doanh nghiệp
“lâm vào tình trạng phá sản” là doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hoặc bị
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên để đến lúc
doanh nghiệp “lâm vào tình trạng phá sản” như quy định của Luật phá sản
doanh nghiệp (1993) thì đã không thể cứu vãn được tình hình nữa, doanh
nghiệp khi mở thủ tục phá sản chỉ có thể “chết” mà khó có thể có cơ hội tiếp

tục hoạt động kinh doanh của mình thậm chí không đủ tiền để thanh toán các
chi phí cần thiết cho thủ tục giải quyết phá sản.


11

Với mục đích cứu doanh nghiệp kể cả khi đã mở thủ tục phá sản, trong
khi tình hình doanh nghiệp còn chưa quá “kiệt quệ” thì Luật phá sản (2004)
đã quy định thoáng hơn về tình trạng “lâm vào tình trạng phá sản” của doanh
nghiệp trên cơ sở tôn trọng quyền thỏa thuận so với Luật Phá sản doanh
nghiệp (1993) nhằm kịp thời đưa doanh nghiệp vực dậy hoặc ít nhất là cũng
để doanh nghiệp thoát khỏi thương trường một cách có trật tự. Theo Điều 3
thì “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”, như
vậy tiêu chí này đã được quy định đơn giản hơn trước, dễ thực hiện vì không
căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện
cho việc sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, điều đó có ý nghĩa
quan trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn hơn sẽ có rất ít cơ hội thành
công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay là thủ tục phục hồi.
Theo hướng dẫn tại mục 2 Phần I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP
ngày 28-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật phá sản, thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi
là lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Có các khoản nợ đến hạn: Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ
không có đảm bảo hoặc có đảm bảo một phần (chỉ tính phần không có bảo
đảm); đã rõ ràng; được các bên xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng
minh và không có tranh chấp;
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn, nhưng doanh
nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Chủ nợ yêu cầu phải có căn

cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp,
hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của
doanh nghiệp, hợp tác xã…)


12

Như vậy chủ nợ chỉ cần chứng minh được là mình có khoản nợ đến
hạn, đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả
năng thanh toán, doanh nghiệp đã khất nợ nhiều lần nhưng vẫn không thanh
toán được. Chủ nợ không cần phải chứng minh lý do doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ không thanh toán. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã
phải tự chứng minh có hay không việc lâm vào tình trạng phá sản.
Quy định về lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản (2004) là phù
hợp tuy nhiên lại chưa đầy đủ so với khuyến nghị của UNCITRAL (ủy ban về
luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc). Tại khuyến nghị 15, 16 trong bộ
những khuyến nghị hướng dẫn xây dựng Luật phá sản năm 2005, xét dưới góc
độ kinh tế - pháp lý, quy định về căn cứ mở thủ tục phá sản cần đầy đủ hơn,
lâm vào tình trạng phá sản phải được coi là: (i) Người mắc nợ đang không thể
hoặc sẽ không thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn; hoặc (ii) Các nghĩa
vụ của họ vượt quá giới hạn giá trị toàn bộ tài sản.
Cách quy định như trên sẽ giúp cho người mắc nợ có thể nhanh chóng
và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thủ tục phá sản để giải quyết các khó khăn
tài chính của mình ngay khi chúng bắt đầu xuất hiện, thay vì phải chờ đến khi
tình trạng tài chính đã trở nên trầm trọng. Việt Nam có thể tham khảo khuyến
nghị này để có thể hoàn thiện pháp luật phá sản.
Nguyên nhân dẫn đến phá sản hết sức đa dạng. Đó có thể do sự yếu kém
về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động trên thị trường, là sự vi phạm các chế
độ, thể lệ quản lý. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy ngoài những nguyên nhân
chủ quan nói trên thì mọi sự bất trắc và biến động khách quan trên thị trường

đều có thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.1.2 Pháp luật phá sản ở Việt Nam
Từ sau giải phóng miền Nam cho đến trước Đại hội Đảng lần VI (từ
ngày 15 đến ngày 18/12/1986) chúng ta đi theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Đặc trưng của nền kinh tế này là thừa nhận nguyên tắc Nhà nước


13

lãnh đạo nền kinh tế (Ví dụ, ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 1980 tại Điều 22 và Điều 33); ghi nhận sự thống lĩnh của chế
độ sử hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể (Điều 18, Điều 23, Điều 26 Hiến pháp 1980); phủ nhận quyền tự do
kinh doanh thông qua việc khẳng định sự độc quyền ngoại thương của nhà
nước (Điều 21 Hiến pháp 1980) và cấm đoán các hình thức sản xuất kinh
doanh phi xã hội chủ nghĩa (Điều 24, 25 Hiến pháp 1980). Tóm lại, trong nền
kinh tế này không có sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, không có tự do kinh doanh, tức là không có đầy đủ các tiền đề kinh tế
– pháp lý để tạo ra được sự cạnh tranh thực sự trên thương trường. Trong
hoàn cảnh như vậy, không thể có phá sản và do đó, không thể có pháp luật về
phá sản. Điều này giải thích tại sao, ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây
không hề có Luật Phá sản mà chỉ có các quy định pháp luật về giải thể doanh
nghiệp nhà nước mà thôi [18, tr.830].
Hoàn cảnh nước ta trong 10 năm sau khi giải phóng miền Nam, chúng
ta không có pháp luật phá sản, nền kinh tế nước nhà là nền kinh tế bao cấp,
mệnh lệnh, khép kín… các đơn vị kinh doanh không có động lực để cạnh
tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của Nhà nước. Chính trong
nền kinh tế bao cấp đó, dưới sự bảo hộ của Nhà nước, Pháp luật phá sản chưa
được hướng tới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI kết thúc thành công đánh dấu bước

chuyển mình của nền kinh tế nước nhà, từ nền kinh tế quản lý hành chính
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với những thời cơ, nền kinh tế thị trường đồng thời tạo ra những thách
thức mới, đòi hỏi Nhà nước ta phải nhanh chóng xây dựng và ban hành pháp
luật, hình thành một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh để đáp ứng


14

công cuộc đổi mới, trong đó có khung pháp luật kinh tế nói chung và pháp
luật Phá sản nói riêng.
Sau Đại hội lần thứ VI, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc
mọi thành phần kinh tế được thành lập và được Nhà nước khuyến khích tạo
điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp
luật. Một vấn đề đặt ra trong giai đoạn này là chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường thì cũng có nghĩa là phải chấp nhận các thuộc tính vốn có của nó,
trong đó có phá sản và giải quyết phá sản.
Trước yêu cầu thực tiễn đó pháp luật về phá sản Việt Nam được hình
thành là một xu hướng tất yếu. Luật phá sản doanh nghiệp (1993) ra đời là
văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh toàn diện, đầy đủ các
vấn đề về phá sản.
Tuy nhiên, Luật Phá sản doanh nghiệp (1993) được xây dựng trong
điều kiện nước ta mới chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới, việc phá sản
và giải quyết phá sản hầu như chưa xảy ra, bởi vậy, nhiều quy định của Luật
Phá sản doanh nghiệp (1993) đã bộc lộ những điểm yếu, bất cập, làm cản trở
việc giải quyết phá sản, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn giải quyết phá
sản đặt ra, do đó cần phải được sửa đổi bổ sung.
Sau hơn 9 năm thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp (1993), toàn ngành
Tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó

chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Số liệu này không phải do
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở nước ta ít, các doanh nghiệp hoạt
động đều có lãi mà thực tế số lượng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
lớn gấp nhiều lần con số này nhưng không thể tuyên bố phá sản được đối với
các doanh nghiệp đó vì lý do nhiều vấn đề liên quan đến phá sản chưa được
Luật Phá sản doanh nghiệp (1993) quy định. Nguyên nhân là do Luật Phá sản
doanh nghiệp (1993) được xây dựng từ đầu những năm 90, là những năm đầu
của tiến trình đổi mới, hiểu biết của chúng ta về nên kinh tế thị trường còn ít,


15

điều kiện tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài về phá sản còn bị
hạn chế, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm cho nên chưa lường trước được
nhiều vấn đề cần quy định trong Luật Phá sản.
Luật Phá sản (2004) ra đời kế thừa và phát huy những điểm mạnh đồng
thời bổ sung những khiếm khuyết của Luật Phá sản doanh nghiệp (1993). Với
mục tiêu là:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong
tình trạng kinh doanh khó khăn thua lỗ có cơ hội để rút ra khỏi thương trường
một cách có trật tự;
+ Chuyển quyền kiểm soát tài sản sang các chủ nợ và góp phần tái phân
phối tài sản nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả hơn các tài sản đó, trên cơ sở
kết hợp giữa việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã và thanh toán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp không
có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh;
+ Thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và đóng vai trò là một trong những
công cụ quan trọng để thu hồi nợ.
1.1.3 Thủ tục giải quyết phá sản - thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt

Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ
tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ
phá sản (tố tụng phá sản) được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do
tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản
bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt.
Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể.
Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có thể tham gia vào
rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, và do đó, có thể trở thành chủ thể của


16

nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tố
tụng dân sự và tố tụng kinh tế là ở chỗ, trong tố tụng này, các chủ nợ thực hiện
việc đòi nợ một cách độc lập, riêng lẻ, nói một cách nôm na, nợ của ai thì
người đó kiện ra Toà án mà đòi. Khác với thủ tục đòi nợ thông thường này, thủ
tục phá sản là thủ tục mà ở đó, việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành một
cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ không thể
tự xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ đều phải được tập hợp lại thành
một chủ thể pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện
cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng
thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung
dùng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định đã được Luật Phá
sản quy định trước. Nếu tài sản của con nợ không đủ để thanh toán tất cả các
khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh
nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Thứ hai, thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành trong một
hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ.
Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ thông qua việc khiếu kiện

ra Toà án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp
dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào một tình trạng tài chính bi đát,
dường như không có lối thoát mà người ta thường gọi là tình trạng phá sản.
Nói cách khác, thủ tục phá sản là thủ tục pháp lý không dễ được xảy ra; nó chỉ
xuất hiện như một giải pháp cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ
khi mà các phương thức đòi nợ thông thường khác đã trở nên bất lực.
Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự
chấm dứt hoạt động của một thương nhân.
Trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ
thông thường. Điều đáng lưu ý của các loại tố tụng thông thường này là ở chỗ,


17

sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường.
Trong tố tụng phá sản thì tình hình lại khác. Cái khác biệt của thủ tục này so
với tố tụng dân sự, kinh tế là ở chỗ, thông thường, để giúp các chủ nợ thu hồi
được các món nợ của mình thì Toà án phải ra những quyết định pháp lý đặc
biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý (thực chất là quyết định nhằm
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp) để rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ
tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Nói cách khác, cái đặc thù của thủ tục
phá sản là ở chỗ, kết quả thực hiện nó thường dẫn đến sự chấm dứt hoạt động
của chính bản thân con nợ.
Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần tuý là một thủ tục đòi nợ mà
còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi.
Mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ tục đòi nợ tập thể nhưng
điều đó không có nghĩa là, khi con nợ bị mở thủ tục phá sản thì ngay lập tức,
tài sản của nó sẽ bị dùng để thanh toán cho các chủ nợ. Hiện nay, ngoài mục
tiêu thanh lý, pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới còn đặt thêm một

mục tiêu rất quan trọng nữa cho thủ tục phá sản, đó là việc giúp con nợ phục
hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Việc tuyên bố phá sản một
doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân các chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả
bất lợi cho xã hội nói chung. Vì vậy, việc tạo điều kiện phục hồi cho con nợ là
một xu hướng ngày càng được khẳng định trong pháp luật phá sản hiện đại.
Trong thủ tục phá sản, con nợ được Toà án tạo điều kiện tối đa cho việc
phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ
thoát khoải tình trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ được chủ động
xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông
qua và nếu được thông qua thì về cơ bản, doanh nghiệp con nợ được khôi
phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục sản xuất, kinh doanh một cách bình


18

thường. Theo Luật phá sản của nhiều nước thì Toà án chỉ ra quyết định áp
dụng thủ tục thanh lý đối với những con nợ trong trường hợp đã có căn cứ rõ
ràng chứng minh về việc con nợ đã không thể phục hồi hoặc con nợ đã không
thành công trong việc thực hiện phương án phục hồi.
Thứ năm, thủ tục phá sản - một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
So với tố tụng dân sự và kinh tế thì tố tụng phá sản phức tạp hơn nhiều.
Tính phức tạp của thủ tục này thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Toà
án phải thụ lý và xử lý rất nhiều công việc khác nhau về tính chất chứ không
chỉ đơn thuần chỉ là các công việc có tính chất tài sản như trong tố tụng dân
sự và kinh tế thông thường. Ví dụ, Toà án không chỉ giải quyết các vấn đề về
việc doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán nợ hay không, nợ bao nhiêu,
nợ ai mà còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác như: việc phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, việc thành

lập và điều hành hoạt động của thiết chế quản lý và thanh lý tài sản, việc triệu
tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ … Việc phải xử lý một lúc nhiều công việc
phức tạp như vừa nêu trên đã làm cho tố tụng phá sản hoàn toàn khác với tố
tụng dân sự, kinh tế thông thường không chỉ về quy mô mà còn cả về tính
chất. Điều này lý giải tại sao tố tụng phá sản luôn luôn được điều chỉnh pháp
luật riêng và trở thành một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.
1.1.4 Vai trò của Luật Phá sản và sự tiến bộ của Luật phá sản (2004)
Ở Việt Nam, sự tồn tại tất yếu của hiện tượng phá sản đòi hỏi phải có
sự điều chỉnh của Nhà Nước, do đó, pháp luật phá sản với tư cách là một công
cụ quan trọng để Nhà Nước điều chỉnh vấn đề phá sản đã ra đời. Pháp luật
phá sản có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, vai trò đó thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Pháp luật phá sản bảo vệ một cách có hiệu quả nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ nợ.


19

Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít
doanh nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có
quyền đòi nợ thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có
biện pháp khởi kiện ra Toà án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện
tụng ra Toà dân sự, Toà kinh tế nhiều khi không thể giải quyết được một cách
thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên
cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư cách là các thủ tục đòi nợ thông
thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế đòi nợ đặc biệt nữa để các
chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục phá sản. Tính ưu
việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi nợ được
bảo đảm bằng việc Toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ và
thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Mặc dù

ngày nay, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong
đó có mục tiêu giúp doanh nghiệp mắc nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích
của con nợ) nhưng về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại
tố tụng tư pháp được đặt ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của
các chủ nợ. Từ khi có Luật phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các
món nợ của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ.
Thứ hai, Luật phá sản còn bảo vệ lợi ích của người mắc nợ, tạo cơ hội
để người mắc nợ rút khỏi thương trường có trật tự.
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con
nợ. Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá
sản là một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị
trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả việc tử hình [18, tr.227-228]. Ngày
nay, quan niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của
Nhà nước và pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã
được thiết kế theo hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là
một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị


20

trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ,
không trả được nợ đến hạn đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với bất kỳ nhà
kinh doanh nào. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo
nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với người lao động và
các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình
trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết không
phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó
cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số
các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp

lâm vào tình trạng phá sản lựa chọn, áp dụng.
Pháp luật phá sản Việt Nam cũng đã được xây dựng theo khuynh
hướng này. Cụ thể là, Luật Phá sản doanh nghiệp (1993) và gần đây là Luật
Phá sản (2004) đã không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc
biệt là đã không coi phá sản là một tội phạm như quan niệm của một số nước
trên thế giới. Điều này có thể thấy qua việc pháp luật quy định hàng loạt
những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong quá trình giải quyết phá sản.
Chẳng hạn, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết theo một thủ tục
chung duy nhất do Toà án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc đòi nợ một
cách riêng lẻ. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại
sản xuất, kinh doanh, trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (Điều 15 Luật
Phá sản doanh nghiệp 1993). Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục thanh lý khi
Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hay trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực
hiện không thành công phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh


21

đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài ra, con nợ còn có quyền cử người
đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản và Tổ Thanh toán tài sản (Điều 15, Điều
42 Luật PSDN 1993), quyền được khiếu nại Danh sách chủ nợ, khiếu nại
quyết định tuyên bố phá sản (Điều 40 Luật PSDN 1993)... Khi có quyết định
mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho
các chủ nợ theo thứ tự nhất định; sau khi thanh toán, mọi khoản nợ của doanh
nghiệp, cho dù chưa được thanh toán đầy đủ cũng được coi là đã thanh toán
và các chủ nợ không có quyền đòi nợ nữa, hay nói cách khác, khoản nợ chưa

được thanh toán đó được coi là rủi ro trong kinh doanh của các chủ nợ, trừ
một vài ngoại lệ được quy định trong Luật phá sản của từng nước. Các quy
định có nội dung tương tự cũng đã được Luật Phá sản (2004) ghi nhận đầy đủ
và cụ thể hơn qua việc quy định thủ tục phục hồi bên cạnh thủ tục thanh lý tài
sản của doanh nghiệp.
Thứ ba, Góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao động.
Việc doanh nghiệp phá sản sẽ làm người lao động trong doanh nghiệp
đó mất đi việc làm hay có thể coi người lao động là chủ nợ không có đảm bảo
đối với doanh nghiệp. Để bảo vệ được người lao động trong doanh nghiệp thì
Luật phá sản phải bảo vệ được doanh nghiệp khỏi phá sản, và cơ chế phục hồi
doanh nghiệp được đề ra với mục đích đó. Nhưng mặt khác, khi người lao
động làm việc mà không được trả đủ lương trong một thời gian dài thì Nhà
nước cũng cần phải tạo ra một phương thức nào đó để họ có thể đòi được số
tiền lương mà doanh nghiệp nợ. Để thực hiện được mục tiêu này, pháp luật
phá sản phải quy định cho họ một số quyền như quyền được nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, quyền được tham gia quá trình giải quyết vụ việc phá sản,
quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà
họ được hưởng trước các khoản nợ thông thường của doanh nghiệp ...
Thứ tư, góp phần đảm bảo an toàn, trật tự xã hội và làm lành mạnh hóa
nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.


22

Theo lẽ thường, khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít
tài sản để thanh toán nợ thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con
nợ là điều rất có thể xảy ra. Nếu cứ để các chủ nợ tự do tước đoạt tài sản của
con nợ một cách vô tổ chức, không công bằng thì trật tự, an toàn xã hội sẽ
không được bảo đảm. Vì vậy, Nhà nước nào cũng cần phải có biện pháp để
can thiệp vào việc đòi nợ này nhằm tránh được các hệ quả tiêu cực như vừa

nêu trên. Thủ tục phá sản chính là một công cụ pháp lý có khả năng giúp Nhà
nước đưa ra được nhiều cơ chế để thực hiện được việc thanh toán nợ một cách
công bằng giữa các chủ nợ. Khi mở thủ tục phá sản thì việc giải quyết tài sản
con nợ là một hoạt động có trật tự. Tòa án thay mặt Nhà nước đứng ra giải
quyết một cách công bằng, khách quan mối xung đột về lợi ích giữa con nợ và
chủ nợ nhằm đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Thứ năm, Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế,
thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn.
Phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực. Xét
trên phạm vi toàn cục của nền kinh tế thì việc phá sản và giải quyết phá sản là
có ý nghĩa tích cực. Điều này được thể hiện ở những điểm như sau:
- Phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh, buộc
họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề.
- Pháp luật phá sản là cơ sở pháp lý để xoá bỏ các doanh nghiệp kinh
doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà
đầu tư.
Luật Phá sản (2004) là một bước phát triển mới của pháp luật phá sản
Việt Nam. Nó đã có những điểm tiến bộ so với Luật Phá sản doanh nghiệp
năm (1993) như: đơn giản hoá khái niệm tình trạng phá sản nhằm tạo thuận
lợi cho việc mở thủ tục phá sản; quy định rõ, đầy đủ và hợp lý hơn về các đối
tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu


×