Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Pháp luật về nhập khẩu và Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.24 KB, 82 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI NÓI ĐẦU
Sau ngày Đất nước hồn tồn giải phóng, thống nhất hai miền Nam Bắc, thì
trong suốt một thời gian dài chúng ta phải sống trong nền kinh tế bao cấp, kế hoạch
hóa tập trung, hoạt động kinh doanh hoàn toàn là của các cơ quan nhà nước, khơng có
kinh tế tư nhân, và khơng có sự giao lưu với các nước bên ngoài. Đến năm 1986,
nhận thấy những vấn đề bất cập, khơng cịn phù hợp của nền kinh tế bao cấp, Đảng
và Nhà nước đã quyết định “mở cửa nền kinh tế nước ta”, khuyến khích hoạt động
ngoại thương, tăng cường giao lưu với bạn bè thế giới trên mọi lĩnh vực, mà khởi đầu
là giao lưu kinh tế.
Dưới sự tác động của xu thế phát triển nền kinh tế tri thức, Việt nam có cơ hội
và điều kiện đón nhận những thành tựu khoa học của Thế giới vào phát triển kinh tế
Quốc gia. Xuất phát từ điều kiện và trình độ phát triển kinh tế, để có thể tiến tới nền
kinh tế tri thức, Việt nam tiến hành Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Thực
chất, cơng nghiệp hóa nền kinh tế là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, gia tăng sản xuất và thu nhập từ công nghiệp
trong nền kinh tế Quốc dân. Hiện đại hóa là q trình chuyển cơ cấu kinh tế từ kinh
tế vật chất sang kinh tế tri thức, bằng việc đầu tư phát triển các ngành kinh tế tri thức,
các ngành sản xuất công nghệ cao, các ngành dịch vụ. Sự phát triển các ngành này là
cơ sở cho sự phát triển một cách vững chắc nền kinh tế quốc dân.
Sự tác động của xu thế tồn cầu hóa tạo ra nhiều thuận lợi cho Việt Nam thực
hiện chính sách kinh tế mở. Trong quá trình thực hiện, Việt nam đã đưa ra các quan
điểm rất đúng đắn: đa phương hóa các quan hệ kinh tế thương mại (“muốn làm bạn
với tất cả các nước trên Thế giới”), đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam rất phát triển, Việt Nam
đã có quan hệ với hơn 170 nước, tham gia vào các tổ chức Quốc tế Khu vực và Thế
giới, vào các diễn đàn kinh tế Quốc tế. Hoạt động ngoại thương, hợp tác đầu tư nước
ngoài, dịch vụ Quốc tế. Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, Việt Nam có điều kiện

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

lợi dụng những ưu thế bên ngồi (vốn và khoa học cơng nghệ), khai thác tiềm năng
bên trong của nền kinh tế (tài nguyên và lao động), góp phần đẩy nhanh sự nghiệp
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước.
Thực hiện chiến lược, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Chính phủ
đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản
xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ
xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định là có vai trò hết sức quan trọng,
hướng mục tiêu cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp Công nghiệp hóa,
Hiện đại hóa Đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và Thế giới.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến nay, rất nhiều công ty đã được
thành lập để hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đóng góp vào thành tựu chung
của nền kinh tế nước nhà. Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi là một trong số các
doanh nghiệp như thế. Thực tập tại công ty sẽ tạo cơ hội tiếp xúc được với thực tế
của hoạt động xuất nhập khẩu cũng như những thuận lợi và những bất cập do những
quy định của pháp luật tạo ra cho những hoạt động này.
Đứng trước một vấn đề mang tính thời sự như vậy, đề tài “Pháp luật về nhập
khẩu và Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi”, sẽ đề cập
đến những quy định pháp luật chủ yếu áp dụng cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa
vào Việt nam và thực tiễn thi hành tại cơng ty Thắng Lợi. Qua đó, đề tài cũng thu
thập, đưa ra một vài kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật đó.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh



Website: Email : Tel : 0918.775.368

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
CHƯƠNG 1:

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm hoạt động nhập khẩu
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất.
Sản xuất phát triển, các mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất với người sản xuất,
giữa người sản xuất với người tiêu dùng, và giữa những người tiêu dùng với nhau
ngày càng phát triển và diễn ra ngày càng phức tạp. Khi sản xuất xã hội phát triển đến
trình độ nhất định, các mối quan hệ kinh tế phát triển không chỉ trong phạm vi một
Quốc gia mà cịn vươn ra bên ngồi, hình thành các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và
kinh tế Quốc tế.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được hiểu là quan hệ kinh tế của một nước với các
nước khác và với các tổ chức Quốc tế được xem xét từ góc độ nền kinh tế của nước
đó.
Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ kinh tế lẫn nhau của hai hay nhiều nước, là
tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước.
Trong phạm vi kinh tế Thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế ảnh hưởng trở lại đến
sự phát triển lực lượng sản xuất của từng nước và sự phát triển của phân công lao
động Quốc tế. Quan hệ thương mại hàng hóa Quốc tế chính là một hình thức của
quan hệ kinh tế quốc tế.
Theo quy định của Luật Thương mại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2005: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lời khác.

Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt nam năm 2003 thì có quy định chi tiết
hơn, theo đó: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương
mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư
vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dị, khai thác; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng khơng, đường biển, đường sắt,
đường bộ; và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Điều 28 Luật Thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động nhập khẩu:
“Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật”.

1.1.2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một hình thức của hoạt động Thương mại Quốc
tế nên đương nhiên nó mang trong mình những đặc trưng của hoạt động thương mại
Quốc tế rất riêng so với hoạt động mua bán hồng hóa trong nước:
 Về chủ thể của hoạt động thương mại Quốc tế:
Chủ thể của hoạt động thương mại Quốc tế là các thương nhân có trụ sở
thương mại tại các Quốc gia khác nhau. Như vậy, khác với hoạt động thương mại
trong nước chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia thì hoạt động mua bán hàng hóa
Quốc tế là những hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết các
nền kinh tế khác nhau trên thế giới.

 Đối tượng của hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế hẹp hơn rất nhiều so
với hoạt động mua bán hàng hóa trong nước. Có những mặt hàng được phép mua bán
tự do trong nước nhưng tuyệt nhiên không được trở thành đối tượng của hoạt động
ngoại thương có thể do rất nhiều nguyên nhân như vấn đề an ninh quốc gia, bảo hộ
ngành sản xuất trong nước,… Vì thế khi tham gia vào hoạt động thương mại Quốc tế,
các bên phải có sự dự liệu về những thay đổi có thể xảy ra trong việc Nhà nước quy
định những loại hàng hóa được phép xuất nhập khẩu.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

 Luật điều chỉnh: vì xuất nhập khẩu là hoạt động diễn ra giữa các thương
nhân có trụ sở ở các Quốc gia khác nhau, do đó các bên tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu chịu sự điều chỉnh của những hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì lí do này
mà khơng có pháp luật của Quốc gia nào có giá trị bắt buộc đối với các bên, mà việc
xác định luật điều chỉnh hoàn toàn do sự lựa chọn của các bên. Một điều đặc biệt nữa
là nguồn luật để các bên lựa chọn không chỉ là hệ thống pháp luật của mỗi Quốc gia
mà nó cịn bao gồm các Điều ước Quốc tế, có thể là cả các Điều ước song phương và
đa phương, các án lệ và tập quán quốc tế.
 Giá cả và phương thức thanh toán: khác với mua bán hàng hóa trong
nước, giá cả thanh tốn trong mua bán hàng hóa Quốc tế là đồng ngoại tệ của ít nhất
một bên tham gia nên có thêm vấn đề về chuyển đổi ngoại tệ, và việc thanh toán cũng
thực hiện qua biên giới Quốc gia nên thường phải tiến hành thơng qua dịch vụ thanh
tốn của Ngân hàng.
 Thủ tục hải quan: cũng xuất phát từ lí do các bên có trụ sở thương mại ở
các Quốc gia khác nhau nên hàng hóa trong hoạt động thương mại quốc tế phải được

chuyên chở qua biên giới các quốc gia, có thể chỉ là giữa biên giới Quốc gia của các
bên mà cũng có thể là phải qua biên giới của nhiều Quốc gia khác. Vì thế các bên cần
thỏa thuận để phân chia trách nhiệm trong việc thực hiện các thủ tục thông quan và
việc chi trả các khoản lệ phí có liên quan.
 Mối quan hệ mật thiết với một số hoạt động khác: biểu hiện rõ ràng nhất
là hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế không thể tách rời các hoạt động dịch vụ
Quốc tế như chuyên chở, bảo hiểm, vay tín dụng ,… Mỗi hoạt động này lại có chủ
thể, đối tượng, điều kiện,luật áp dụng riêng. Vì thế để đảm bảo thực hiện có hiệu quả
thì cần có sự thống nhất đồng bộ các hoạt động này.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.2. Tính tất yếu và vai trị của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và
nhập khẩu nói riêng đối với nền kinh tế Việt Nam:


Xu thế tồn cầu hóa:

Vài thập niên gần đây, thuật ngữ tồn cầu hóa được nhắc nhiều trên sách báo,
trên các diễn đàn kinh tế Quốc tế và khu vực, và ngay cả trong các cuộc gặp gỡ cấp
cao giữa các ngun thủ Quốc gia.
Xu thế tồn cầu hóa xuất hiện và phát triển như một tất yếu khách quan do sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự đổi mới nhanh chóng về cơng nghệ,
cơng cụ sản xuất và năng suất lao động tăng ngày càng cao hơn. Sự phát triển đó đã
phá vỡ khn khổ chật hẹp của nền sản xuất khép kín trong phạm vi từng vùng, từng

nước, làm cho sản xuất và tiêu dùng của các nước mang tính chất Quốc tế.
Khoa học cơng nghệ phát triển nhanh chóng khơng chỉ tác động mạnh mẽ đến
sản xuất Thế giới mà còn tạo sự chuyển biến sâu sắc và căn bản trong công nghệ,
trong kinh tế, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện nhiều vấn đề có
tính chất tồn cầu như: chiến tranh – hịa bình, phát triển kinh tế, ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chống dịch bệnh… không chỉ giải quyết
trong phạm vi từng Quốc gia, mà phải giải quyết trên phạm vi Thế giới. Thế giới
ngày nay là ngôi nhà chung, đòi hỏi các Quốc gia phải hợp tác với nhau cùng giải
quyết và lợi ích của các Quốc gia gắn liền với nhau.


Lợi thế so sánh:

Cơ sở khách quan của hoạt động xuất nhập khẩu là chun mơn hóa và trao
đổi giữa các quốc gia dựa trên sự khác nhau về các nguồn lực, lợi thế kinh tế nhờ quy
mô, sở thích của người tiêu dùng và một số cơ sở kinh tế khác. Những nguồn lực hay
các yếu tố sản xuất từ nguồn cung có sẵn như tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao
động phổ thông dồi dào (do dân số đông), hay những tiến bộ không đồng đều về khoa
học cơng nghệ có thể tạo nên những lợi thế và làm nảy sinh ra Thương mại Quốc tế
được gọi là những lợi thế so sánh.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với hoạt động lao động sáng
tạo- lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ ngày càng

phát triển và được ứng dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
và trở thành một yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở các Quốc gia
khác nhau, sự phát triển khoa học công nghệ có khác nhau. Một số Quốc gia có nền
khoa học công nghệ phát triển, ứng dụng được những thành tựu khoa học công nghệ
vào đời sống kinh tế xã hội, nền kinh tế phát triển cao. Còn một số Quốc gia lại có
nền khoa học cơng nghệ kém phát triển, có nhiều khó khăn trong việc ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào phát triển kinh tế, nền kinh tế chậm phát triển. Sự khác nhau về
khoa học công nghệ giữa các Quốc gia là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
phát triển và khả năng tích lũy các điều kiện tái sản xuất của các Quốc gia là khác
nhau. Hoạt động Thương mại Quốc tế nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói
riêng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt
Nam, là do sự khác nhau về những điều kiện tái sản xuất: vốn, khoa học công nghệ,
kinh nghiệm quản lí. Do đó địi hỏi các Quốc gia cần có sự trao đổi các yếu tố sản
xuất.


Phân cơng lao động Quốc tế:

Ngày nay, trên Thế giới, tất cả các nước đều lựa chọn mơ hình kinh tế thị
trường. Có nhiều loại mơ hình kinh tế thị trường như: kinh tế thị trường tự do (mơ
hình kinh tế Mỹ), kinh tế thị trường xã hội (mơ hình kinh tế Đức, Thụy Điển), kinh tế
thi trường hỗn hợp, và kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa. Mơ hình kinh tế các nước
lựa chọn có thể khác nhau, song đặc điểm chung nhất của mơ hình kinh tế thị trường
là nền kinh tế phát triển gắn liền với sự phát triển thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước. Để phát triển kinh tế, các nước cần khai thác được nguồn lực cả trong và
ngoài nước, tham gia vào quá trình phân cơng lao động và trao đổi Quốc tế.
Ngày nay, hoạt động sản xuất của một Quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các
nguồn lực trong nước mà còn phụ thuộc vào các nguồn lực ngoài nước. Để phát triển
nền kinh tế Quốc dân, một Quốc gia cần có 4 yếu tố kinh tế cơ bản: điều kiện tự


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

nhiên (tài nguyên), lao động, vốn và khoa học công nghệ. Trên Thế giới, khơng có
Quốc gia nào có đủ lợi thế hồn tồn cả 4 yếu tố kinh tế này. Vì thế, muốn phát triển
kinh tế, các nước cần biết khai thác lợi thế bên ngoài để khắc phục những hạn chế
của nền kinh tế. Điều đó địi hỏi các nước cần thiết tham gia trao đổi Quốc tế.


Sự hình thành các Tổ chức Quốc tế:

Trong vài chục năm trở lại đây, các Tổ chức quốc tế phát triển nhanh về số
lượng và đa dạng về hình thức. Các tổ chức Quốc tế được hình thành trên cấp độ tồn
cầu hay khu vực, hoạt động trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa
xã hội… mà nhiều nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Hoạt động của các tổ chức Quốc tế
nhằm phối hợp các nước giải quyết các vấn đề Quốc tế, làm gia tăng các mối quan hệ
kinh tế Quốc tế. Điển hình như những hoạt động của Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế
ISO với mục đích thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn hóa và các hoạt động có liên quan,
tạo điều kiện cho trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy hợp tác trong các hoạt động
trí tuệ, khoa học và kinh tế.
Sự phát triển liên minh kinh tế các nước như Liên Minh Châu Âu EU, Thị
trường chung Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á AFTA, các
tam giác, tứ giác kinh tế phát triển… Đặc biệt là sự ra đời của Tổ chức Thương mại
Thế giới WTO. Sự hình thành thể chế Thương mại Quốc tế nhiều bên đánh dấu sự
hình thành khn khổ Thương mại quốc tế mới, lấy tự do hóa thương mại Quốc tế
làm trung tâm. Chế độ bảo hộ thương mại nhường chỗ cho chế độ tự do hóa thương

mại và mở cửa nền kinh tế.
Từ tất cả các nguyên nhân trên, có thể khẳng định Xuất nhập khẩu là một vấn
đề trọng yếu của nền kinh tế Quốc dân. Hoạt động xuất nhập khẩu là một bộ phận
quan trọng nhất của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó, xuất nhập khẩu hàng hóa
có vai trò trọng yếu đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tê; thúc đẩy tiến trình cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa Đất nước, thúc đẩy hội nhập
kinh tế Quốc tế của Quốc Gia, thúc đẩy q trình tham gia sâu rộng vào phân cơng
lao động Quốc tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.3. Những quy định của pháp luật về nhập khẩu
1.3.1. Hợp đồng nhập khẩu - hình thức pháp lí của hoạt động nhập khẩu
Ngày nay, hoạt động Thương mại Quốc tế đã trở nên vơ cùng phổ biến và có
ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của hầu hết các Quốc gia trên Thế giới. Thương
mại Quốc tế là “bà đỡ” cho quá trình tồn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế
Quốc tế. Trong hơn một thế kỷ qua, động lực của tồn cầu hóa chính là sự bùng nổ
thương mại hàng hóa và dịch vụ. Trong tương lại, hoạt động mua bán hàng hóa Quốc
tế vẫn sẽ tiếp tục thúc đẩy hội nhập toàn cầu, đăc biệt là ở những nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có
nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận1.
Cơ sở pháp lí của việc mua bán hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng

hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được lý kết
giữa các thương nhân có trụ sở ở các Quốc gia khác nhau. Như vậy, hợp đồng mua
bán hàng hóa Quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hóa, do đó nó mang
đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hóa, có nghĩa rằng nó cũng là sự
thỏa thuận giữa người mua và người bán về việc xác lập quyền và nghĩa vụ của các
bên. Ngồi ra, hợp đồng này cịn có thêm một yếu tố Quốc tế- là yếu tố vượt ra khỏi
phạm vi một Quốc gia nên nó cịn phải thỏa mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi
hỏi. Hoạt động Thương mại Quốc tế có các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu; tạm
nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập; hàng hóa chuyển khẩu. Các hợp đồng thỏa thuận về
các hoạt động này đều được gọi chung là Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Do hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế được điều chỉnh bằng rất nhiều
nguồn luật khác nhau nên hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được ký kết và

1

Điều 2 khoản 8 Luật thương mại 2005

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 10
: Tel : 0918.775.368

thực hiện trên cở sở nhiều nguồn luật khác nhau, mà thông thường người ta quy về
Luật thương mại Quốc tế và pháp luật Quốc gia.
Luật Thương mại Quốc tế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt
động Thương mại Quốc tế- những hoạt động thương mại phát sinh giữa các chủ thể

có Quốc tịch khác nhau ở các Quốc gia khác nhau.
Luật Thương mại Quốc tế được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như:
pháp luật của các Quốc gia, các Điều ước Quốc tế, Tập quán thương mại… Trong đó,
nguồn luật quan trọng trước nhất là pháp luật Quốc gia. Một Điều ước Quốc tế chỉ có
thể được áp dụng thực tiễn tại một Quốc gia khi nó có sự hài hịa, thống nhất với
những quy định pháp luật của nước sở tại. Chính vì vậy mà trong xu thế tồn cầu hóa
hiện nay, các Quốc gia đều đang có xu hướng nội luật hóa các Điều ước Quốc tế, tức
là đưa các quy định đã cam kết trong Điều ước Quốc tế song phương hoặc đa phương
vào các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia để đảm bảo tính khả thi của các cam
kết đó.
Ở Việt nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại Quốc tế nói
chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng đang được hồn thiện theo xu hướng
đó. Cơng ước Quốc tế thơng dụng nhất điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa Quốc
tế là Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Trước đây, khi
Luật Thương mại 1997 của Việt Nam cịn hiệu lực pháp lí thì nhìn chung các quy
định trong Luật này rất xa rời thực tiễn và nói chung là khơng có sự đồng thuận nào
với các Công ước Quốc tế về mua bán hàng hóa nên việc áp dụng khơng đem lại hiệu
quả cho cơng tác quản lí các hoạt động kinh doanh Thương mại cả trong và ngoài
nước. Đến nay, khi Luật Thương mại 2005 ra đời thay thế cho Luật Thương mại
1997 thì tương quan về luật định đã có sự thay đổi rất tích cực. Xét một cách tổng thể
thì các quy định của Luật Thương mại 2005 là tương đối thống nhất với các quy định
của Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 11
: Tel : 0918.775.368


Do vậy, khi xem xét các quy định pháp luật cơ bản nhất đối với hoạt động
mua bán hàng hóa Quốc tế, mà cụ thể ở đây là hoạt động nhập khẩu, người ta có thể
nghiên cứu đồng thời Cơng ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
(sau đây gọi là Công ước Viên 1980) và Luật Thương mại Việt Nam 2005 (sau đây
gọi là Luật Thương mại 2005) để có thể thấy sự phù hợp của hai văn bản này cũng
như để có thể nắm bắt đầy đủ các quy định dành cho thương nhân Việt Nam khi tham
gia ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.

1.3.2. Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu
1.3.2.1 Quy định về chủ thể của hợp đồng nhập khẩu
Công ước Viên 1980 đưa ra quan điểm về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc
tế một cách gián tiếp ngay tại Điều 1 của Công ước này: “Công ước này áp dụng đối
với những Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương
mại tại các Quốc gia khác nhau”. Như vậy, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa
Quốc tế là sự thống nhất về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có
yếu tố nước ngồi mà thơng qua đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ pháp lí giữa các chủ thể đó với nhau.
Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là những thương nhân có
trụ sở tại các Quốc gia khác nhau. Phù hợp với quy định này của công ước Viên,
pháp luật Thương mại Việt Nam cũng đã có sự thay đổi để kịp thời điều chỉnh các
hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. So với Luật Thương mại năm 1997, đối tượng
áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt
động thương mại tại Việt Nam mà cịn cả những thương nhân có hoạt động thương
mại tại nước ngoài mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài,
điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
áp dụng Luật này. Điều này tạo thuận lợi cho các hoạt động ngoại thương và góp
phần bảo vệ quyền lợi của thương nhân Việt Nam.Các quy định cụ thể được nêu
trong Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết
thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế và các hoạt động


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 12
: Tel : 0918.775.368

đại lý mua, bán, gia cơng và q cảnh hàng hóa với nước ngoài (sau đây gọi là Nghị
định 12). Hiện nay, các thương nhân Việt Nam đều có quyền kinh doanh kinh doanh
xuất nhập khẩu những mặt hàng mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào
ngành nghề đăng ký kinh doanh2. Như vậy là Nghị định 12 có quy định nới lỏng hơn
cho các thương nhân so với Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 được sửa đổi
bởi Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001. Theo quy định của các văn bản trước
đây thì thương nhân được phép xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa khơng phụ thuộc
ngành nghề, ngành hàng được ghi trong chứng nhận Đăng ký kinh doanh trừ những
hàng hóa nằm trong danh mục các loại hàng hóa cấm xuất khẩu; và được nhập khẩu
hàng hóa theo ngành nghề, ngành hàng được ghi trong giấy chứng nhận Đăng kýkinh
doanh. Khi Nghị định 12 ra đời thay thế cho hai nghị định trên thì rõ ràng hoạt động
nhập khẩu đã được quy định thơng thống và thuận tiện hơn.
Điều 6 Luật thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, ở Việt Nam, cá nhân muốn là thương
nhân thì phải có đăng ký kinh doanh và phải hoạt động thường xuyên, liên tục. Đây là
một khái niệm hạn chế hơn so với luật Quốc tế, dẫn đến tình trạng có những có đối
tượng có tham gia vào hoạt động Thương mại Quốc tế nhưng pháp luật Việt Nam
khơng điều chỉnh hành vi của họ. Ví dụ: Thương lái tức là những người đi thu gom
hàng hóa đúng ra là thương nhân, nhưng vì cơng việc của họ không quanh năm (mà
chỉ theo mùa vụ) tức là không thường xuyên nên pháp luật Việt Nam không coi họ là

thương nhân và hoạt động của họ không bị điều chỉnh bởi Luật Thương mại, vì thế
mà rất có thể những hành vi sai trái của họ được “lọt lưới” pháp luật.

1.3.2.2. Quy định về hình thức của hợp đồng nhập khẩu
Theo cơng ước Viên 1980 thì hình thức của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc
tế có thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào. Hợp đồng không cần phải được ký kết
hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của

2

Điều 3 khoản 1 Nghị định 12

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 13
: Tel : 0918.775.368

Hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng những lời
khai của nhân chứng3.
Còn theo pháp luật Việt Nam, mua bán hàng hóa Quốc tế phải được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương
đương. (Điều 27 khoản 2 Luật Thương mại 2005)

1.3.2.3 Quy định về nội dung của hợp đồng nhập khẩu
Hợp đồng là văn bản có giá trị pháp lí để đảm bảo quyền và việc thực hiện
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và hoạt động mua
bán hàng hóa Quốc tế nói riêng. Do đó, những quy định về nội dung của bản hợp

đồng là những quy định cơ bản nhất và cũng là quan trọng nhất để các bên có thể
đảm bảo lợi ích của mình khi tham gia hoạt động thương mại Quốc tế. Một hợp đồng
mua bán hàng hóa Quốc tế được ký kết bằng văn bản thường bao gồm các điều khoản
chủ yếu sau:

1.3.2.3.1 Điều khoản tên hàng (Commodity Article)- đối tượng của hợp đồng
Tên hàng là một trong những điều khoản quan trọng, không thể thiếu trong
hợp đồng nhằm xác định đối tượng cụ thể của hợp đồng, giúp các bên phân biêt rõ
với những sản phẩm khác, tránh được những yếu tố có thể dẫn đến tranh chấp sau
này. Trong thực tiễn Thương mại Quốc tế, có nhiều cách diễn đạt tên hàng:
o Tên hàng bao gồm tên thông thường, tên Thương mại, tên khoa học của
hàng hóa. Ví dụ: Cooking Oil Marvela,…
o Tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra hàng hóa đó (xuất xứ
sản phẩm) nếu nơi sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm (ví dụ: rượu vang
Bordeaux, nước mắm Phú Quốc,…); hoặc kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng hóa đó
(ví dụ: cà phê Trung Nguyên, Điện thoại Nokia,…)
o Tên hàng kèm theo quy cách chính của hàng hóa đó (ví dụ: Tivi màn
hình phẳng,…)
o Tên hàng kèm theo nhãn hiệu hàng hóa (Bia Hà Nội, xe máy Future,…)
3

Điều 11 Cơng ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 14
: Tel : 0918.775.368


o Tên hàng kèm theo cơng cụ của hàng hóa (Bột chiên tơm,…)
o Tên hàng kèm theo số hiệu hạng mục của hàng hóa đó trong danh mục
hàng hóa thống nhất, thường áp dụng trong trường hợp hàng hóa là các loại máy móc,
linh kiện, thiết bị kỹ thuật (ví dụ: mơ-tơ điện mục 100, 101)
o Ngoài ra, trong một số trường hợp, có thể kết hợp một vài phương pháp
với nhau để ghi tên hàng hóa theo cách mơ tả tổng hợp.

1.3.2.3.2 Điều khoản về số lượng, khối lượng hàng hóa
 Đơn vị tính số lượng
Trong Thương mại Quốc tế, người ta áp dụng nhiều hệ thống đo lường khác
nhau:
o Đơn vị đo chiều dài: mét, inch, foot, yard, mile;
o Đơn vị đo diện tích: square inch, square foot, square yard, square
mettre
o Đơn vị đo thể tích: Gallon, Bushel, Barrel, lit
o Đơn vị đo khối lượng: Tấn, kg, pound, Grain
o Đơn vị tính số lượng tập hợp: tá, gross (12 tá), hộp, đơi,…
Cần lưu ý rằng, nhiều đơn vị đo lường có cùng tên gọi nhưng ở mỗi nước lại
có nội dung khác nhau. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, các
bên phải có sự thống nhất về đơn vị tính số lượng, khối lượng của từng loại hàng hóa
trong hợp đồng.
 Phương pháp quy định số lượng, khối lượng hàng hóa
Thơng thường có 2 cách quy định:
 Quy định chính xác số lượng hàng hóa trong hợp đồng và 2 bên không được
phép giao nhận theo số lượng khác (ví dụ: 1500 kiện vải, 700 thùng dầu). Phương
pháp này thường dùng trong mua bán hàng hóa tính bằng cái, chiếc thùng,…
 Quy định phỏng chừng về số lượng hàng hóa. Khi thực hiện hợp đồng, các bên
có thể giao nhận với số lượng cao hơn hoặc thấp hơn số lượng quy định trong hợp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 15
: Tel : 0918.775.368

đồng và khoảng chênh lệch đó gọi la dung sai về số lượng (ví dụ: 10000 tấn gạo ±
5%). Phương pháp này thường được dùng trong khi mua bán hàng hóa có khối lượng
lớn. khó có thể cân đong đo đếm một cách chính xác được. Để diễn đạt khoảng dung
sai, người ta thường dùng các từ ngữ sau: khoảng (about), trên dưới (more or less),
xấp xỉ (approximately), từ… đến… (from… to…).
 Phương pháp xác định trọng lượng
Để xác định trọng lượng hàng hóa, người ta thường dùng các phương pháp
sau:
 Trọng lượng cả bì là trọng lượng của hàng hóa cùng với trọng lượng của các
loại bao bì bảo quản hàng hóa.
 Trọng lượng tịnh: là trọng lượng thực tế của bản thân hàng hóa
 Trọng lượng thương mại: là phương pháp áp dụng trong mua bán những mặt
hàng hút ẩm, có độ ẩm khơng ổn định và có giá trị kinh tế tương đối cao.

1.3.2.3.3 Điều khoản phẩm chất
Đây là điều khoản thể hiện chi tiết về chất lượng hàng hóa (tính năng, quy
cách, kích thước, tác dụng, cơng suất, hiệu suất). Việc xác định cụ thể phẩm chất của
hàng hóa rất quan trọng vì nó là cơ sở để xác định giá cả của hàng hóa.
Để xác định phẩm chất, những tiêu chuẩn mà hàng hóa phải đạt được, có một
số phương pháp chủ yếu sau:
o Xác định phẩm chất dựa vào mẫu hàng do người bán đưa ra và người
mua chấp nhận. Trong trường hợp người mua đưa ra mẫu hàng trước thì người bán

phải có mẫu đối chiếu. Trong tập quán thương mại Quốc tế, người ta thường ký hoặc
đóng dấu vào 3 mẫu hàng: một mẫu giao cho người bán lưu, một mẫu giao cho
người mua và một mẫu giao cho người thứ ba được hai bên thỏa thuận chỉ định giữ
hàng mẫu để đối chiếu khi cần thiết.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 16
: Tel : 0918.775.368

o Xác định phẩm chất dựa vào phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn: cần phải tìm
hiểu nội dung của tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó, ghi chính xác số hiệu tiêu chuẩn và
năm ban hành tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó.
o Xác định phẩm chất dựa vào quy cách của hàng hóa là những chi tiết
về chất lượng như cơng suất, kích cỡ, trọng lượng… Phương pháp này thường được
dùng trong việc mua bán các thiết bị, máy móc, cơng cụ vận tải…
o Xác định phẩm chất dựa vào hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng
hóa, quy định tỉ lệ phần trăm của thành phần chất chủ yếu chiếm trong hàng hóa.
Phương pháp này thường được dùng trong mua bán nguyên liệu, lương thực- thực
phẩm.
o Xác định phẩm chất hàng hóa dựa vào nhãn hiệu hàng hóa, ghi rõ năm
sản xuất và sêri sản xuất của loại hàng có nhãn hiệu đó. Phương pháp này thường
được áp dụng đối với những mặt hàng công nghiệp hoặc hàng nông sản chế biến như
đồ hộp, thuốc lá, cà phê, rượu…
o Xác định phẩm chất dựa vào các tài liệu kỹ thuật. Trong việc mua bán
các máy móc, thiết bị, hàng cơng nghiệp, tiêu dùng lâu bền, thì trên hợp đồng mua
bán người ta thường dẫn chiếu đến một số tài liệu như: bản vẽ kỹ thuật, sơ đồ lắp ráp,

bản thuyết minh tính năng tác dụng, bản hướng dẫn sử dụng… Trong những trường
hợp này, người ta cịn ký và đóng dấu vào tài liệu kỹ thuật và quy định rằng tài liệu
đó là một phần không thể tách rời của hợp đồng.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào hiện trạng hàng hóa. Phương
pháp này thường chỉ dùng trong mua bán Quốc tế về hàng nơng sản và khống sản.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào sự mơ tả hàng hóa. Khi mua bán
những loại hàng hóa mà chất lượng của chúng khó tiêu chuẩn hóa trên thị trường
Quốc tế, người ta thường dùng một số chỉ tiêu phỏng chừng FAQ, GMQ…

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 17
: Tel : 0918.775.368

1.3.2.3.4 Điều khoản giá cả
Đây là một trong những điều khoản quan trọng nhất của hợp đồng mua bán
hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Thông thường,
điều khoản này xác định các vấn đề quan trọng: đồng tiền tính giá, mức giá, phương
pháp quy định mức giá, phương pháp xác định mức giá…
Đồng tiền tính giá: Đồng tiền tính giá và thanh tốn trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng.
Giá cả của hàng hóa có thể được xác định ngay trong lúc ký kết hợp đồng,
cũng có thể xác định trong thời hạn hiệu lực hợp đồng hoặc khi thực hiện hợp đồng.
Thông thường, giá cả trong hợp đồng được xác định theo một trong 3 cách sau:
• Định giá trung lập (Neutral pricing) là định giá có căn cứ rõ rang, khơng
nhằm mục đích cơ hội nào. Có 2 căn cứ để xác định giá trung lập:
i. Định giá căn cứ vào sản xuất;

ii. Định giá căn cứ vào thị trường.
• Định giá thâm nhập (Penetration Pricing) là cách định giá cơ học để nhằm
thâm nhập vào thị trường. Giá thâm nhập bao giờ cũng thấp, thậm chí cũng có lúc nó
thấp hơn cả giá thành.
• Định giá hớt váng (Skim Pricing) là xác định giá thời cơ để nhằm tận dụng
cơ hội có lợi cho mặt hàng của mình. Giá hớt váng bao giờ cũng cao hơn giá trung
lập.
Cũng có thể phân biệt các loại giá dựa trên cơ sở các tiêu chí định giá khác
như:
• Giá xác định ngay (hay giá cố định- fixed price) là giá được quy định vào
lúc ký kết hợp đồng và khơng được sửa đổi nếu khơng có sự thỏa thuận khác.
• Giá quy định sau là giá được định trong q trình thực hiện hợp đồng.
• Giá có thể xét lại (rivesable price) là giá quy định trong hợp đồng nhưng có
thể được xem xét lại nếu sau này, vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hóa có

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 18
: Tel : 0918.775.368

sự biến động đến mức đáng kể. Trong hợp đồng vận dụng giá này, các bên phải thỏa
thuận với nhau nguồn tài liệu phán đoán sự biến động giá cả và thỏa thuận quy định
mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường và giá hợp đồng.
• Giá di động hay giá trượt (sliding scale price) là giá được tính tốn dứt khốt
khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban đầu, có tính đến những biến
động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng.


1.3.2.3.5 Điều khoản giao hàng
Nội dung cơ bản của điều khoản này là sự xác định thơi hạn giao hàng, địa
điểm giao hàng và thông báo giao hàng.
 Thời hạn giao hàng (time of shipment)
Là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua.
Thời hạn giao hàng do các bên thỏa thuận và phụ thuộc số lượng hàng hóa theo hợp
đồng. Thơng thường, có 3 cách quy định thời hạn giao hàng:
• Thời hạn giao hàng có định kỳ: có thể là một ngày cụ thể hoặc một khoảng
thời gian xác định nào đó.
• Thời hạn giao hàng không định kỳ: là thời gian quy định chung chung, phổ
biến. Theo cách này, có thể thỏa thuận như sau:
i. Giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên (shipment by first available steamer)
ii. Giao hàng khi nào có khoang tàu (subject to shipping space)
iii. Giao hàng khi nhận được L/C (subject to the opening of L/C)
• Thời hạn giao hàng ngay là việc các bên giao dịch thỏa thuận:
i. Giao nhanh;
ii. Giao ngay lập tức;
iii. Giao càng sớm càng tốt
 Địa điểm giao hàng
Địa điểm giao hàng gắn liền với việc chuyển quyền sở hữu và dich chuyển rủi
ro từ người bán sang người mua.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 19
: Tel : 0918.775.368


 Phương thức giao hàng
Việc xác định phương thức giao hàng chủ yếu là quy định phương thức giao
nhận hàng hóa tại một nơi nào đó là giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao
nhận về số lượng và chất lượng.
Giao nhận sơ bộ là bước đầu xem xét hàng hóa và xác nhận sự phù hợp về số
lượng, chất lượng hàng so với hợp đồng.
Giao nhận cuối cùng là xác nhận việc người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng.
Giao nhận hàng hóa về số lượng là xác định số lượng thực tế hàng hóa được
giao bằng các phương pháp cân, đong, đo, đếm.
Giao nhận hàng hóa về chất lượng là việc kiểm tra hàng hóa về tính năng,
cơng dụng, hiệu suất, kích thước, hình dáng…
Hoạt động giao nhận hàng hóa có thể tiến hành trên tồn bộ hàng hóa hoặc chỉ
tiến hành kiểm tra điển hình.
 Điều kiện giao hàng: thường dựa theo các tập quán Thương mại Quốc tế
Các tập quán thương mại là một nguồn quan trọng hình thành nên pháp luật
thương mại quốc tế. Tập quán thương mại là thói quen trong hoạt động thương mại
được lặp đi lặp lại nhiều lần, và được công nhận bởi đơng đảo các thương nhân. Có 2
hệ thống tập quán thương mại thông dụng trên Thế giới là Incoterms và UCP.
Incoterms được viết tắt từ 3 chữ International Commercial Terms (các điều
kiện thương mại Quốc tế) và mỗi điều kiện của Incoterms được chọn sẽ trở thành
một điều khoản của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế chứ khơng phải là của hợp
đồng chun chở hàng hóa.
Phiên bản Incoterms đầu tiên được xuất bản năm 1937 và đã ngay lập tức
được đông đảo giới thương nhân Quốc tế hưởng ứng. Để đảm bảo các tập quán của
Incoterm không trở nên lạc hậu và để theo kịp sự thay đổi nhanh chóng hàng ngày,
hàng giờ của nền kinh tế Thế giới, các phiên bản Incoterm cũng liên tục được quan

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


Trịnh Tú Anh


Website: Email 20
: Tel : 0918.775.368

tâm sửa đổi, và ngày nay thì cứ 10 năm người ta lại sửa đổi Incoterm một lần. Hai
bản Incoterms được sử dụng nhiều nhất là phiên bản Incoterm 1990 và 2000.
Việc áp dụng tập quá là không bắt buộc, mà do các bên tự thỏa thuận. Do vậy
mà phiên bản mới ra đời khơng làm vơ hiệu các phiên bản trước đó. Các bên hồn
tồn có thể thỏa thuận chọn bất cứ một phiên bản nào dù là mới hay cũ.
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng
tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện
giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng.
Theo điều kiện FOB, người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi
hàng qua lan can tàu mà người mua chỉ định ở cản bốc hàng quy định vào ngày hoặc
thời hạn các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Kể từ thời điểm này, người mua chịu
mọi chi phí và rủi ro về mất mát và hư hỏng hàng hóa. Theo điều kiện này, người bán
phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu và chịu mọi chi phí liên quan đến thủ tục đó.
Nghĩa vụ của người bán giao hàng lên tàu do người mua chỉ định trong thời gian quy
định chính là bản chất cảu điều kiện FOB. Nhưng nếu người mua không thông báo
cho người bán về tên con tàu, về địa điểm bốc hàng và thời gian u cầu giao hàng
thì có thể dẫn đến việc rủi ro chuyển từ người bán sang người mua trước khi hàng
hóa được bốc lên tàu. Người ta gọi đây là trường hợp rủi ro chuyển sớm. Do vậy, nếu
người mua không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho người bán về những chi tiết cần
thiết cho việc giao hàng thi rủi ro về những mất mát và hư hỏng hàng hóa sẽ được
chuyển từ người bán sang người mua kể từ ngày quy định hoặc ngày cuối cùng của
thời hạn quy định cho việc giao hàng với điều kiện là hàng hóa sẽ được cá biệt hóa
theo hợp đồng.
CIF là điều kiện bn bán Quốc tế rất phổ biến theo đó giá hàng hóa bao gồm

giá của bản thân hàng hóa đó cộng với chi phí bảo hiểm và cước vận chuyển hàng
hóa tới cảng đến quy định. Do vậy, nghĩa vụ của người bán là phải thuê tàu để chở
hàng đến cảng đích quy định, cung cấp hàng theo hợp đồng và bốc hàng lên tàu tại
cảng bốc quy định trong thời hạn quy định, mua bảo hiểm cho hàng hóa với mức bảo

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 21
: Tel : 0918.775.368

hiểm tối thiểu và bằng đồng tiền dùng để thanh toán trong hợp đồng, cung cấp cho
người mua một vận đơn đã bốc hàng hồn hảo, lưu thơng được, và một đơn bảo hiểm
lưu thơng được, chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa cho đến khi hàng đã qua hẳn
lan can tàu ở cảng bốc hàng. Người mua phải trả tiền hàng và nhận các chứng từ phù
hợp với hợp đồng, và chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua
hẳn lan can tàu \ tại cảng bốc hàng.
Cả hai điều kiện này đều chỉ được áp dụng khi hàng hóa được vận chuyển
bằng đường biển và đường thủy nội địa. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người
mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ
mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện
giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua
khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận
chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với
hàng hóa có thể xảy ra trong q trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất
khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu.
Đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và
quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngồi. Với các quyền đó, đối tác nước ngồi tùy ý

th tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các cơng ty của nước
mình. Các cơng ty bảo hiểm nước ngồi vì thế có điều kiện phát triển hơn.

1.3.2.3.6 Điều khoản về thanh toán:
Các cách thức quy định thời hạn thanh toán thường được áp dụng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế:
 Trả tiền trước khi giao hàng: thỏa thuận người mua trả một khoản tiền theo tỷ
lệ giá trị lô hàng để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 22
: Tel : 0918.775.368

 Thanh toán ngay: thường được áp dụng sau khi giao hàng xong và thực hiện
trong một thời gian nhất định do các bên thỏa thuận.
 Phương thức thanh toán: bao gồm thanh toán bằng tiền mặt, séc, điện chuyển
tiền, hối phiếu, thư tín dụng, bao thanh tốn.
Cụ thể, Các phương thức thanh tốn thơng dụng bao gồm:
- Tiền mặt: bao gồm các loại
+ Tiền mặt trả trước- CIA (cash in advance)
+ Tiền mặt trả trước lúc giao hàng- CBD (cash before delivery)
+ Tiền mặt trả khi giao hàng- COD (cash on delivery)
+ Tiền mặt trả khi trao chứng từ- CAD (cash against document)
- Séc
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình ra để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả

theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền
mặt hoặc bằng chuyển khoản.
Điều cơ bản trong việc lập séc là người phát hành séc phải có tiền trên tài
khoản mở tại ngân hàng, số tiền trên tờ séc không được vượt quá số dư trên tài khoản
ở ngân hàng. Séc có thể được phát hành để trả tiền cho một cơ quan, tổ chức, một
hoặc nhiều cá nhân, hoặc có thể là séc do một ngân hàng phát hành để trả tiền cho
một ngân hàng khác.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc
thanh tốn nếu thời hạn có hiệu lực của nó chưa hết. Thời hạn có hiệu lực của séc
được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó phụ thuộc vào khơng gian lưu hành séc và phụ
thuộc vào luật pháp các nước.
- Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền
Đây là phương thức thanh tốn đơn giản nhất. Theo đó, người mua (nhà nhập
khẩu) thông qua ngân hàng gửi tiền trả người bán (nhà xuất khẩu). Phương tiện thanh

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 23
: Tel : 0918.775.368

toán theo phương thức chuyển tiền gồm điện chuyển tiền và thư chuyển tiền. Trả tiền
bằng điện hay bằng thư đều phải thông qua ngân hàng làm trung gian. Do đó, người
chuyển tiền phải trả thủ tục phí cho ngân hàng.
- Phương thức thanh toán bằng ghi sổ: được thực hiện bằng cách người nhập
khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ về tiền
mua hàng hóa hay các khoản chi phí khác liên quan đến việc mua hàng. Người nhập
khẩu định kỳ (hàng tháng, hàng quý hoặc nửa năm 1 lần) thanh toán khoản nợ hình

thành trên tài khoản của người xuất khẩu.
Phương pháp này thực chất là một hình thức tín dụng thương nghiệp, ít được
áp dụng trong thanh tốn Quốc tế bởi nó khơng có sự bảo đảm đầy đủ cho người xuất
khẩu cho người xuẩt khẩu có thể kịp thời thu được tiền hàng.
- Hối phiếu:
Hối phiếu là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một
người khác, yêu cầu người này, khi nhin thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất
định hoặc có thể xác định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định cho một
người nào đó theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc cho người cầm
phiếu.
Trước đây, người ta phân biệt hối phiếu và kỳ phiếu: Hối phiếu là giấy đòi nợ,
còn kỳ phiếu là giấy cam kết trả nợ.
Hiện nay, hối phiếu được chia thành 2 loại: hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận
nợ (tương đương với kỳ phiếu trước đây), được quy định chi tiết trong Luật các công
cụ chuyển nhượng, số 49/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
- Tín dụng thư chứng từ:
Phương thức thanh tốn bằng tín dụng thư chứng từ (L/C) chỉ được áp dụng
khi trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế giữa người bán và người mua có điều

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


Website: Email 24
: Tel : 0918.775.368

khoản thỏa thuận thanh toán bằng L/C, tức là hai bên thỏa thuận có ngân hàng bảo
đảm thanh tốn.

Theo đó, người mua phải chọn một ngân hàng để mở thư tín dụng, và hợp
đồng này chỉ bắt đầu có hiệu lực khi người mua mở được thư tín dụng. Việc người
mua có mở được thư tín dụng hay khơng là phụ thuộc vào độ tín nhiệm của ngân
hàng đối với người mua.
Trong một số trường hợp, người bán không tin tưởng vào ngân hàng mà người
mua mở thư tín dụng, nên người bán có quyền ra điều kiện ngân hàng của người mua
phải được bảo lãnh bởi một ngân hàng khác do người bán chọn, tức là khi mở thư tín
dụng, ngân hàng của người mua phải thông báo cho ngân hàng của người bán và
được ngân hàng này chấp nhận. Hoặc sau khi mở L/C, ngân hàng của người mua phải
thông báo cho người bán và được người bán chấp nhận.
Nếu người bán thấy thư tín dụng chưa đầy đủ nội dung theo Hợp đồng thì
phải lập tức yêu cầu bên mua bổ sung, trước khi bắt đầu thực hiện hợp đồng. Khi
người bán chấp nhận thư tín dụng thì mới bắt đầu thực hiện hợp đồng.
Khi người bán đã chuyển hàng cho người mua, có thể là gửi trực tiếp cho
người mua hoặc gửi đến một địa điểm theo thỏa thuận, thì người bán phải gửi hồ sơ
gồm các chứng từ giao hàng và hối phiếu qua ngân hàng để ngân hàng chuyển cho
người mua để người mua chấp nhận thanh tốn và thanh tốn. Khi đó, nếu đủ chứng
từ, người mua sẽ chuyển tiền vào ngân hàng để thanh toán cho người bán.
Ngân hàng chỉ được phép thanh toán khi người bán gửi hồ sơ gồm đủ các
chứng từ đã ghi trong thư tín dụng. Theo UCP500, các chi nhánh của cùng một Ngân
hàng mẹ đặt tại các nước khác nhau thì coi là các ngân hàng khác biệt nhau, chịu
trách nhiệm độc lập.
Như vậy, thư tín dụng là một lời cam kết của ngân hàng trên cơ sở một hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, nhưng khi đã được mở thì nó độc lập với hợp đồng,
và có thể coi là một hợp đồng thứ phát.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh



Website: Email 25
: Tel : 0918.775.368

- Bao thanh toán: là phương thức thanh toán mà ngân hàng sẽ giúp cho nhà xuất
khẩu được thanh toán khoản tiền của mình.
Nếu người bán muốn thực hiện phương thức này, người bán phải ký với ngân
hàng “Hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu”. Sau đó, người bán và ngân hàng đồng
thời phải thông báo cho người mua biết về việc người bán đã chuyển cho ngân hàng
quyền đòi nợ và phải được người mua chấp nhận.
Khi được chấp nhận thì nhà xuất khẩu mới chuyển hàng đi và chuyển hồ sơ
chứng từ cho ngân hàng. Khi đó, nếu hồ sơ đầy đủ, ngâng hang sẽ thanh toán cho
người bán theo một tỷ lệ nhất định trong phạm vi bảo đảm an tồn cho ngân hàng.
Đến khi người mua thanh tốn đầy đủ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ thanh tốn nốt
cho người bán, trừ đi khoản phí cho ngân hàng mà người bán phải chịu.
Như vậy, bao thanh toán và thư tín dụng có điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ:
theo phương thức thư tín dụng thì người mua là người trả phí ngân hàng, cịn theo
phương thức bao thanh tốn thì người bán phải trả phí.

1.3.2.3.7Điều khoản về thỏa thuận áp dụng luật điều chỉnh
Điều khoản này rất quan trọng đối với cả hai bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng, và vai trị của nó đặc biệt được thể hiện trong trường hợp giữa các bên phát
sinh tranh chấp do vi phạm hợp đồng. Các bên tự nguyện thỏa thuận chọn một trong
các nguồn của Pháp luật Thương mại Quốc tế để điều chỉnh hợp đồng một cách thuận
tiện nhất cho các bên, và thường phải là những quy định mà cả hai bên đều nắm rõ.
Trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng thì việc lựa chọn sẽ thuộc về
cơ quan Giải quyết tranh chấp mà các bên đã lựa chọn dựa theo nguyên tắc “áp dụng
luật có liên quan gần nhất”, nghĩa là luật của nơi xảy ra vi phạm, phát hiện ra vi
phạm, hoặc nơi thực hiện chủ yếu hợp đồng. Ví dụ: một cơng ty hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam ký hợp đồng mua hàng của một đối tác Trung Quốc, theo hợp

đồng hang được chuyển sang Singapore theo một thời hạn cụ thể. Sau khi hàng được
giao, bên Việt Nam phải chuyển vào tài khoản của bên bán tại Trung Quốc một
khoản tiền là 1triệu $, nhưng Ngân hàng của Việt Nam lại quy định mức phí chuyển

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Trịnh Tú Anh


×