Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Pháp luật về vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.74 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ NGỌC THẮNG

PHÁP LUẬT VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI – 2011


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em chân thành cảm ơn quý thầy cô trường
Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS.
Nguyễn Viết Tý, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn
thành luận văn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những người
thân, bạn bè, đồng nghiệp tại Văn phòng Luật sư Doanh Thương đã ủng hộ,
tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Chân thành cảm ơn !



MỤC LỤC

Chương 1
1.1.

LỜI NÓI ĐẦU

1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

5

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

5

1.1.1. Sự hình thành của đầu tư quốc tế trên thế giới

5

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam qua các giai đoạn

6

LÝ LUẬN VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

8

1.2.1. Khái niệm chung về vốn thành lập doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài

8

1.2.2. Vai trò của vốn góp đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư

14

1.2.

Chương 2
2.1.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

17

THỰC TRẠNG VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

17

2.1.1. Các hình thức đầu tư góp vốn


16

2.1.2. Quy mô vốn góp và tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài

19

2.1.3. Kết quả và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
năm 2010

21

2.2.

CÁC HÌNH THỨC GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

25

2.2.1. Hình thức góp vốn bằng tiền mặt

25

2.2.2. Giá trị quyền sử dụng đất là phần tài sản góp vốn của nhà
đầu tư Việt Nam

29

2.2.3. Dây chuyền công nghệ là phần tài sản góp vốn của nhà
đầu tư nước ngoài


35

2.2.4. Góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp

40

2.3.

THỦ TỤC GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP

2.3.1. Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư

44
44


2.3.2. Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đầu tư

44

2.3.3. Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư

45

Chương 3
3.1.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VỐN THÀNH
LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI


47

NGUYÊN TẮC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

47

3.1.1. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

48

3.1.2. Yếu tố con người trong hoàn thiện và thực thi pháp luật

52

3.2.

CÁC KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

54

3.2.1. Quy định về góp vốn bằng Giá trị quyền sử đụng đất của
nhà đầu tư
54
3.2.2.

Quy định về góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp

55

3.2.3.


Hoàn thiên pháp luật về vốn pháp định

56

KẾT LUẬN

58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

60


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhìn chung, tất cả các nhà đầu tư khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng, mục đích cuối cùng là thu
về lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, sự phát triển không đồng đều về trình độ
lực lượng sản xuất của các quốc gia dẫn đến lợi thế so sánh khác nhau của
các nền kinh tế, cụ thể là: đối với các nước phát triển dư thừa nguồn lực tài
chính và công nghệ muốn tìm kiếm thị trường đầu tư, chuyển giao công
nghệ; đối với các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú và nguồn nhân lực dồi dào thì cần thu hút vốn đầu tư và tiếp
nhận công nghệ của nước ngoài. Từ đó, hình thành nên sự vận động của
các dòng đầu tư quốc tế với nguồn gốc bên trong là sự phát triển của phân
công lao động quốc tế, các nền kinh tế hợp tác với nhau để phát huy thế
mạnh của mình và khai thác thế mạnh của nền kinh tế khác nhằm đạt được

mục đích thu lợi lớn nhất đó.
Ngày nay, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới là một trong những xu
hướng vận động của đời sống kinh tế quốc tế. Với xu thế này, mở cửa và
hội nhập các nền kinh tế quốc gia và khu vực trở thành điều kiện bắt buộc
của sự phát triển, biên giới kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mờ nhạt,
vấn đề đầu tư quốc tế càng phát triển hơn bao giờ hết. Việt Nam với vị thế
của một nền kinh tế đang phát triển, chúng ta cũng không tránh được quy
luật đó. Để đưa đất nước nhanh chóng phát triển, chúng ta không chỉ trông
chờ vào nguồn vốn trong nước mà phải tận dụng nguồn vốn nước ngoài
nhằm nâng cao năng lực đầu tư, tận dụng các điều kiện khách quan, lợi thế
mà thời đại đã tạo ra - đó là con đường ngắn nhất để rút ngắn thời gian tích
lũy vốn ban đầu.


2

Bởi vậy, dù là đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài thì vốn luôn
luôn là điều kiện tiên quyết ban đầu cho sự ra đời và hoạt động của Doanh
nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn vừa là động lực vừa là mục đích kinh
doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nghiên cứu về vốn là một trong những
vấn đề then chốt đối với quản trị doanh nghiệp và quản lý nền kinh tế của
nhà nước. Chính vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn “Pháp luật về vốn
thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đầu tư nước ngoài không còn là một đề tài mới trên thế giới, và ở
Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, khi nhà nước ta nhìn nhận được
vai trò to lớn của đầu tư nước ngoài và mở cửa thu hút đầu tư thì đầu tư
nước ngoài cũng rất được quan tâm và có rất nhiều nhà khoa học đã nghiên
cứu về nó. Hiện nay, có một số đề tài, công trình nghiên cứu tiêu biểu

nghiên cứu về vấn đề này như: Đỗ Nhất Hoàng (2002), Sự hình thành và
phát triển của Luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Quang
Hưng (2001), Những vấn đề pháp lý cơ bản về cơ chế huy động vốn của
công ty cổ phần, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội; .... Trong các đề tài này vấn đề vốn đầu tư cũng đã được các nhà
nghiên cứu đưa ra xem xét. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi sâu
nghiên cứu về “Vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đần tư nước ngoài tại
Việt Nam” với tư cách là yếu tố đầu tiên, quyết định nhất tới toàn bộ quá
trình đầu tư.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Với tính chất của đề tài Thạc sĩ, tác giả không đi sâu nghiên cứu các
vấn đề về đầu tư nước ngoài như: Hình thức đầu tư, thu hút đầu tư, bảo


3

đảm đầu tư ... cũng không đi sâu nghiên cứu toàn bộ các vấn đề về vốn
như: Quá trình huy động vốn tiềm năng trước thành lập, lưu chuyển vốn và
sử dụng vốn sau thành lập... mà chỉ nghiên cứu về vốn thành lập doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu hạn hẹp, để đạt được các mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác
– Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh tác giả sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các vấn đề
trong điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác giả Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học truyền thống như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
luật học, phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, để đánh giá thực rang

pháp luật cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Với tính tính cấp thiết của đề tài, tác giả đặt ra cho mình mục đích là
nghiên cứu một cách có hệ thống về pháp luật về vốn đầu tư thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đánh giá đúng thực
trạng, dự báo các xu hướng pháp triển qua đó kiến nghị phương hướng, nội
dung hoàn thiện pháp luật về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Để đạt được các mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm
vụ cụ thể: Hệ thống lại các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư
nước ngoài, làm sáng tỏ khái niệm vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, phải chỉ ra được bản chất và các loại vốn đầu tư,
đặc biệt là các loại vốn tham gia nhiều vào quá trình đầu tư nước ngoài
hiện nay tại Việt Nam, xem xét các bất cập trong thực tiễn áp dụng phát
luật, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.


4

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vốn
thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở
đó có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của đề tài:
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về vốn thành
lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Làm sáng tỏ khái niệm vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài;
- Chỉ ra được bản chất và các loại vốn đầu tư, đặc biệt là các loại vốn
tham gia nhiều vào quá trình đầu tư nước ngoài hiện nay tại Việt Nam;
- Chỉ ra các bất cập trong thực tiễn áp dụng phát luật về vốn thành
lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

- Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vốn thành lập doanh
nghiệp có vốn đâud tư nước ngoài.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,Luận văn
được kết cấu bởi ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài
Chương 2: Thực trạng pháp luật về vốn thành lập doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về vốn thành lập doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.


5

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Sự hình thành của đầu tư quốc tế trên thế giới
Lịch sử phát triển của loài người bắt đầu từ việc săn bắt, hái lượm
đến sản xuất để tự phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Khi của cải có
sự dư thừa đã hình thành nên việc trao đổi hàng hóa, đó là tiền đề đầu tiên
của nền thương mại sau này. Trải qua một quá trình nhiều thế kỷ, đồng tiền
ra đời với tư cách là vật ngang giá chung đã góp phần hình thành nên các
con đường thương mại quốc tế giữa các quốc gia.
Ban đầu, các quốc gia chỉ có quan hệ buôn bán, thương mại với
nhau. Về sau, để đạt mục đích tối đa hóa lợi nhuận, các thương nhân đã tận

dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất còn rẻ mạt của các thị
trường tiêu thụ. Thay vì sản xuất tại chính quốc rồi vận chuyển đến quốc
gia thị trường để tiêu thụ, các thương nhân tiến hành sản xuất ở chính tại thị
trường hoặc nơi có yếu tố đầu vào thấp hơn [5. Tr 10]. Đây là điểm đánh
dấu sự ra đời của vốn đầu tư nước ngoài với hình thức đầu tư đơn giản nhất
– Thành lập doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh.
Từ thế kỷ XVI, các nước tư bản phát triển thời kỳ đó như Anh, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ... đã đầu tư vốn vào các nước châu Á,
châu Phi với hình thức đầu tư trực tiếp để mở các đồn điền, khai thác
khoáng sản, cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp ở chính
quốc. Các dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài có tính chất một chiều từ
quốc gia phát triển dư thừa vốn sang các quốc gia kém phát triển [4. Tr 7].


6

Cùng với thời gian, các dòng chảy của vốn trở thành hai chiều như ngày
nay.
Như vậy, có thể thấy sự hình thành và phát triển của vốn đầu tư
thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hình thức đầu tư đơn
giản nhất – Đầu tư trực tiếp nước ngoài) là quá trình tất yếu của lịch sử
phát triển loài người và không dừng lại ở đó nó phát triển không ngừng với
các hình thức đầu tư phong phú như ngày nay.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam qua các giai đoạn.
● Giai đoạn trước năm 1987
Vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu được đưa vào Việt Nam từ những
cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ với các Công
ty khai thác thuộc địa ở các hình thực trá hình theo pháp luật của các nước
chính quốc. Phải đến Sắc luật só 02/63 ngày 14/02/1963 và Sắc luật số

04/72 ngày 12/06/1972 của Ngụy quyền Sài Gòn nước ta mới có Văn bản
pháp luật đầu tiên về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, không có
bất kỳ Công ty nào được thành lập trên cơ sở hai văn bản pháp luật này.
Năm 1975, hai miền đất nước được thống nhất, Việt Nam phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
khối kinh tế tư nhân không được thừa nhận. Vì vậy, mặc dù ngày
19/04/1977, nước ta thông qua nghị định 115/CP ban hành điều lệ đầu tư
nước ngoài. Nhưng do điều kiện lịch sử bị bao vây cấm vận nên tất các các
cánh cửa hợp tác quốc tế đều đóng lại với Việt Nam [5. Tr 25]. Tuy nhiên,
đây là điểm mốc đầu tiên đánh dấu sự ra đời của pháp luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam một cách chính thức, là tiền để để các hệ thống pháp
luật về đầu tư nước ngoài ra đời và phát triển như ngày nay.
● Giai đoạn từ năm 1987 đến nay


7

Cùng với những cải cách quan trọng về mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung của Việt Nam chỉ thực sự
được quan tâm xây dựng trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới
nền kinh tế đất nước với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa được khẳng định tại Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt
Nam cho đến nay. Với quan điểm huy động tối đa các nguồn lự để phát
triển kinh tế. Theo đó, trong lĩnh vực Đầu tư nước ngoài, Năm 1987 Quốc
hội Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và sau đó
được sửa đổi bổ sung nhiều lần. Đến năm 1996, Quốc hội Việt nam đã ban
hành mới Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế Luật Đầu tư nước
ngoài 1987 và cũng được sửa đổi, bổ sung vào năm 2000. Trong khi đó,
vào cùng thời điểm đầu thập niên 90, các hoạt động đầu tư do các nhà đầu
tư trong nước thực hiện lại được điều chỉnh bởi Luật Công ty và Luật

Doanh nghiệp tư nhân (1990), sau đó được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp
(1999). Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam thấy
cần thiết phải ban hành một Bộ luật thống nhất có thể điều chỉnh và chi
phối các hoạt động đầu tư trong nước lẫn nước ngoài tạo ra sự đồng bộ của
hệ thống pháp luật về đầu tư nói riêng và của hệ thống pháp luật điều chỉnh
các hoạt động kinh doanh nói chung. Do vậy, năm 2005 Quốc hội Việt
Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, cùng có hiệu lực từ
01 tháng 7 năm 2006. Các luật này thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam và Luật Doanh nghiệp 1999 [22. Tr 25-38]. Bên cạnh đó, nhằm
tăng cường thể chế và môi trường kinh doanh, Quốc hội Việt Nam đã thông
qua rất nhiều bộ luật quan trọng như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương
mại 2005, Luật Bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp
nhà nước, Luật Chứng khoán v.v… Hệ thống pháp luật kinh doanh ngày
càng hoàn thiện và là cơ sở pháp lý vững chắc để tạo nền tảng cho hoạt
động đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển góp phần cải thiện môi


8

trường đầu tư của Việt Nam, biến nước ta thành môi trường đầu tư tiềm
năng đối với các nhà đầu tư quốc tế.
1.2. LÝ LUẬN VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Khái niệm chung về vốn thành lập doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
● Khái niệm về Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Thuật ngữ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được
quy định trong luật đầu tư nước ngoài năm 1996: "Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn

đầu tư nước ngoài” [10. Khoản 6, điều 2]. Trước đó được gọi là xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài: "Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm xí
nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài” [9. Khoản 12, điều
2]. Đến Luật Đầu tư năm 2005, Việt Nam cũng như rất nhiều quốc gia trên
thế giới, không phân biệt vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, Luật Đầu tư 2005 không định nghĩa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Các doanh nghiệp được thành lập và được gọi theo hình thức
tổ chức pháp lý như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh ... Tuy nhiên, Luật Đầu tư năm 2005 có ghi nhận: “Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh
nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua
lại” [8. Khoản 6, điều 3].
Theo đó một cách chung nhất có thể định nghĩa: Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do ít nhất một nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn thành lập, mua cổ phần, sáp nhập
hoặc mua lại doanh nghiệp trong nước theo quy định của pháp luật Việt


9

Nam nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận không phụ thuộc
vào tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài. Theo cách hiểu về Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như vậy, có thể thấy một số đặc điểm của
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Doanh nghiệp thuộc sở hữu toàn bộ hoặc một phần của ít nhất một
nhà đầu tư nước ngoài thông qua một hoặc một số hoạt động đầu tư nước
ngoài như vốn thành lập, mua cổ phần, sáp nhập hoặc mua lại doanh nghiệp
trong nước. Như vậy, trong khái niệm này phải bao hàm đồng thời hai dầu
hiệu đó là có sự tham gia của chủ thể nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức) và

có sự dịch chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua việc tái đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
- Trừ trường hợp nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của Công ty cổ
phần đại chúng theo quy định của pháp luật chứng khoán thì Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập dưới mọi hình thức của doanh
nghiệp như Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh ... và được chia thành: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động theo pháp luật Việt Nam trên cơ
sở giấy phép đầu tư đồng thời là giấy phép đăng ký kinh doanh do cơ quan
quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cấp.
● Khái niệm về vốn
Vốn được xem xét dưới các góc độ khác nhau sẽ có khái niệm khác
nhau. Trong đề tài này tác xem xét vốn dưới các góc độ dưới đây.
- Một cách chung nhất: “Vốn là tổng thể tài sản bỏ ra lúc đầu, thường
thì biểu hiện bằng tiền dùng trong sản xuất – kinh doanh, nói chung trong
hoạt động sinh lời” [27. Tr 1126].
- Dưới góc độ khoa học tài chính, vốn được được xem xét là vốn của
doanh nghiệp dùng để kinh doanh: Vốn của doanh nghiệp “là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động


10

sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời” [16. Tr 7]. Hay nói một cách
khác “Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được ném vào lưu thông nhằm
mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ nhưng suy
cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động,
nhằm hoàn thành công việc sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ nào đó với
mục đích là thu về số tiền lớn hơn số tiền ban đầu” [17. Tr 26,27].
- Dưới góc độ khoa học pháp lý, Sau khi Luật đầu tư năm 2005 ra

đời quy định thống nhất về đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài thì các
vấn đề liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện thống nhất theo Luật
Doanh nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật đầu tư năm cũng định nghĩa về vốn
đầu tư: “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các
hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp” [8.
Khoản 9, điều 3].
Bên cạnh đó, luật Doanh nghiệp năm 2005 tuy không đưa ra định
nghĩ chung về vốn nhưng vẫn đưa ra một số khái niệm có liên quan như:
“Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp
trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty” [11. Khoản
6, điều 4]. Theo đó, tại Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật Doanh
nghiệp năm 2005 có định nghĩa cụ thể về vốn điều lệ đối với từng loại hình
doanh nghiệp như sau:
Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là
tổng giá trị các phần vốn góp do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp
trong một thời hạn cụ thể và đã được ghi vào Điều lệ công ty.
Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổng
giá trị số vốn do chủ sở hữu đã góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn cụ
thể và đã được ghi vào Điều lệ công ty.


11

Vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần
đã phát hành. Số cổ phần đã phát hành là số cổ phần mà các cổ đông đã
thanh toán đủ cho công ty. Tại thời điểm đăng ký kinh doanh thành lập
doanh nghiệp, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá các
cổ phần do các cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký
mua và được ghi trong Điều lệ công ty; số cổ phần này phải được thanh
toán đủ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng

ký doanh nghiệp [12. điều 4].
Như vậy, Vốn điều lệ Có thể được xem xét là giới hạn trách nhiệm
của nhà đầu tư góp vốn đối với các rủi ro của Công ty, mỗi cổ đông, mỗi
thành viên là chủ sở hữu đối với công ty tương ứng với phần vốn góp. Khi
kinh doanh thua lỗ, công ty sẽ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các khoản nợ của công ty – tức là chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
vốn điều lệ mà các cổ đông đóng góp [15. Tr 51]. Thể hiện quy mô tài chính
của doanh nghiệp, mức độ tự chủ tài chính, tạo tiền đề xem xét khả năng
huy động vốn và mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy một số khái niệm liên quan như:
“Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
để thành lập doanh nghiệp”. Vốn điều lệ phải cao hơn hoặc bằng vốn
pháp định là loại vốn ổn định và nếu vốn điều lệ có thay đổi thì phải theo
xu hướng tăng lên, trong mọi trường hợp không được giảm vốn điều lệ
xuống thấp hơn vốn pháp định. Tuy nhiên, luật công ty năm 1990 quy
định vốn pháp định áp dụng với cơ bản mọi ngành nghề kinh doanh và
với các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có mức vốn pháp định khác
nhau (quy định tại Nghị định số: 221-HĐBT và 222-HĐBT, 26/1998/NĐCP ngày. Tham khảo phụ lục I; II), thì cách hiểu về vốn pháp định theo
luật doanh nghiệp năm 2005 khác với trước, vốn pháp định chỉ được áp
dụng đối với doanh nghiệp có kinh doanh một hoặc một số ngành nghề


12

có điều kiện về vốn. Cụ thể ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp
định, mức vốn pháp định cụ thể, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà
nước về vốn pháp định, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn
pháp định, hồ sơ, điều kiện và cách thức xác nhận vốn pháp định áp
dụng theo các quy định của pháp luật chuyên ngành mà không được quy
định chung tại một văn bản về luật doanh nghiệp, đồng thời vốn pháp

định đối với một ngành nghề của các loại hình doanh nghiệp là như
nhau. Điều này, giúp cho môi trường kinh doanh trở nên thông thoáng và
bình đẳng hơn giữa các nhà đầu tư.
Hay khái niệm Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở
thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp
vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo
thành vốn của công ty [11. điều 4].
Từ các khái niệm về vốn, khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, tác giả đưa ra khái niệm về vốn thành lập doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài: Vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là tài sản đại lượng được bằng tiền và/ hoặc tài sản khác phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành, ban đầu có nguồn gốc toàn bộ hoặc một
phần từ nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam nhằm
mục đích kinh doanh sinh lời. Theo đó vốn thành lập doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có một số đặc trưng cơ bản:
- Vốn thành lập doanh nghiệp trước hết phải được xem xét dưới góc
độ tài chính là một loại tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện hành “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [2. điều 163]. Và
được Luật Doanh nghiệp năm 2005 phân loại bao gồm: “Tài sản góp vốn
có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử


13

dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài
sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của
công ty” [11. điều 4]. Trong đó, dấu hiệu đại lượng được bằng tiền là dấu
hiệu đặc biệt quan trọng trong trường hợp các nhà đầu tư góp vốn bằng tài

sản khác không phải là tiền mặt. Tài sản góp vốn phải đại lượng được bằng
tiền để xác định giá trị phần vốn góp cũng như vốn điều lệ của doanh
nghiệp là tổng giá trị tài sản góp vốn của các thành viên hoặc cổ đông công
ty.
- Là vốn đầu tư ban đầu để thành lập doanh nghiệp: Đầy là nguồn
vốn đầu tiên của doanh nghiệp do các nhà đầu tư góp vốn khi thành lập
doanh nghiệp. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt với một số loại vốn
khác của doanh nghiệp hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp như vốn vay (vốn tín dụng), vốn tái đầu tư mở rộng của
doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, hay trong trường hợp các nhà đầu
tư góp thêm để tăng vốn điều lệ của công ty.
Đặc điểm này cũng giúp ta phân biệt khái niệm vốn đầu tư thành lập
doanh nghiệp với vốn điều lệ của Công ty. Trong nhiều trường hợp vốn đầu
tư thành lập doanh nghiệp chính là vốn điều lệ công ty. Tuy nhiên, vốn điều
lệ công ty có thể thay đổi trong quá trình hoạt động của công ty so với vốn
thành lập ban đầu.
- Có nguồn gốc toàn bộ hoặc một phần từ nước ngoài: Đây là đặc
điểm đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và được chia
thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Khi nhà đầu tư thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài thì toàn bộ vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp có nguồn gốc
nước ngoài. Khi nhà đầu tư liên doanh với nhà đầu tư trong nước để thành
lập doanh nghiệp liên doanh thì vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp có
nguồn gốc một phần từ nước nước ngoài.


14

Nguồn gốc nước ngoài còn được hiểu rộng hơn, nó bao gồm cả phần
vốn góp của một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

trong đó tỷ lệ của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% được sử dụng để tái đầu
tư thành lập một doanh nghiệp khác tại Việt Nam [12. Khoản 4, điều 11].
- Mục đích của việc góp vốn là để đầu tư thành lập doanh nghiệp
kinh doanh sinh lời: Đây là đặc điểm giúp chúng ta phân biệt với các các
hình thức đầu tư khác không thành lập doanh nghiệp mới như đầu tư qua
hợp đồng BOT, BTO, BT và việc đầu tư gián tiếp thông qua việc góp vốn,
mua cổ phần hay tái đầu tư vốn vào chính doanh nghiệp của mình để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc điểm này cũng giúp chúng ta
phân biệt vốn trong phạm vi đề tài với các nguồn tài trợ (ODA) hay các
nguồn vốn vay của Chính phủ mà không thành lập doanh nghiệp mới tại
Việt Nam.
1.2.2. Vai trò của vốn góp đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư
● Đối với doanh nghiệp:
Vốn của doanh nghiệp trước hết là do các thành viên hoặc cổ đông
đóng góp và chuyển quyền sở hữu từ tài sản của thành viên thành tài sản
của doanh nghiệp và trở thành tài sản để doanh nghiệp hoạt động. Mọi
khoản thu chi của doanh nghiệp phải được hạch toán trực tiếp trức hết từ
nguồn vốn này. Đây là tiền đề để doanh nghiệp tồn tại và hoạt động. Đồng
thời cũng là cơ sở để doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tài sản với các đối
tác của mình.
Doanh nghiệp có nguồn vốn lớn sẽ là tiềm lực đầu tiên và quan trọng
để tạo được niềm tiên với đối tác, và có được ưu thế cạnh tranh trước các
đối thủ của mình. Nguồn vốn lớn tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp
có được những hợp đồng lớn. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế hiện
nay khủng hoảng và lạm phát tăng cao, các doanh nghiệp có mối quan hệ


15

tài chính phụ thuộc vào nhau rất lớn, một nguồn vốn rộng rãi là cơ sở để

doanh nghiệp có được sự chủ động trong quá trình hoạt động. Đồng thời
doanh nghiệp cũng tạo ra được các điều kiện cần thiết để tiếp tục huy động
thêm các khoản vốn tín dụng trong quá trình hoạt động của mình. Với
nguồn vốn lớn, các tài sản bảo đảm có giá trị cao là điều kiện thuận lợi để
có được các khoản vay, nợ thuận lợi.
● Đối với nhà đầu tư:
Góp vốn thành lập doanh nghiệp là việc nhà đầu tư chuyển quyền sở
hữu tài sản của mình cho doanh nghiệp, trong một số trường hợp việc
chuyển quyền này phải được đăng ký với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Sau đó nhà đầu tư sẽ trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Một tỷ lệ vốn góp lớn sẽ là điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư có
nhiều thẩm quyền hơn trong việc quản lý và phân chia lợi nhuận từ quá
trình hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt nếu doanh nghiệp được thành
lập dưới dạng Công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc Công ty cổ phần
thì điều này được thể hiện rõ nét khi tỷ lệ biểu quyết thông qua vấn đề
trong quá trình hoạt động của công ty cũng như tỷ lệ phân chia lợi nhuận
phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu vốn, tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư.
Trường hợp khi doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản, tỷ lệ vốn góp cũng
là yếu tố quyết định tỷ lệ phân chia các tài sản của doanh nghiệp còn lại.
Tuy nhiên, tỷ lệ vốn góp lớn cũng đồng nghĩa với trách nhiệm tài sản
của nhà đầu tư cao. Nhà đầu tư trước hết phải thực hiện đúng cam kết góp
vốn của mình vào công ty theo đúng tín độ và số lượng. Nếu đến thời hạn
cam kết góp vốn mà nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết thì sẽ mất
quyền thành viên tương ứng với số vốn chưa góp, thành viên đó chỉ được
biểu quyết và nhận phần lợi nhuận tương ứng với số vốn thực góp. Đồng
thời các thành viên phải cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bằng tài sản


16


cá nhân của mình trước các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp và phải
huy động cho đủ số vốn điều lệ đã đăng ký.
Sau khi nhà đầu tư đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ góp vốn theo cam
kết thì trong mọi trường hợp sẽ không phải chịu trách nhiệm bằng tài sản
cá nhân trước các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Riêng đối với
trường hợp là thành viên hợp danh của Công ty hợp danh và chủ sở hữu
của Doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm tài sản cho
đến hết nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp sau khi đã
sử dụng toàn bộ tài sản của mình mà vẫn không hoàn thành nghĩa vụ tài
chính đối với bên thứ ba khác.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của mình, vốn góp luôn là yếu tố
đầu tiên được quan tâm khi nhà đầu tư tiến hành thành lập doanh nghiệp.
Năng lực tài chính là yếu tố đầu tiên để nhà đầu tư quyết định lĩnh vực
kinh doanh, các đối tác và địa bàn đầu tư. Sau khi xem xét đầy đủ các
yếu tố này thì nhà đầu tư mới quyết định có tiến hành thành lập doanh
nghiệp hay không, bảo đảm mục tiêu cuối cùng là thu về một khoản tiền
lớn hơn khoản tiền đã đầu tư.


17

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VỐN THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM

2.1. THỰC TRẠNG VỀ VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP CÓ VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.1.1. Các hình thức đầu tư góp vốn

Nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước có thể lựa chọn
hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp khi thực hiện các hoạt động đầu
tư tại Việt Nam.
● Hình thức đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư [8. Điều 3] gồm có các hoạt động đầu
tư sau đây: “Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong
nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh
tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu
tư theo hình thức các Hợp đồng như: Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(BCC) hoặc Hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao (BOT), Hợp
đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (BOT), Hợp đồng xây dựng,
chuyển giao (BT); Đầu tư phát triển kinh doanh; Đầu tư mua cổ phần
hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; Đầu tư thực hiện
việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp” [8. Điều 21]. Trong số các hình
thức đầu tư được liệt kê ở trên, hình thức đầu tư truyền thống và phổ
biến nhất là thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh.


18

Để thực hiện hoạt động đầu tư dưới hình thức này, nhà đầu tư phải làm
thủ tục để thành lập một pháp nhân tại Việt Nam. Pháp nhân này có đầy
đủ quyền và nghĩa vụ như công ty trong nước. Trong trường hợp nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, họ có thể lựa
chọn để thành lập Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần và Công ty hợp danh. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
theo hình thức liên doanh, thì hình thức công ty để họ lựa chọn thành lập
sẽ hạn chế hơn gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
Công ty cổ phần và Công ty hợp danh với sự có mặt của bên Việt Nam là

điều bắt buộc.
Ngoài ra, trong thời gian gần đây, với sự phát triển của thị trường
vốn, hình thức đầu tư bằng việc mua phần vốn góp, mua cổ phần của các
công ty để trở thành thành viên, cổ đông và tham gia điều hành, quản lý
hoạt động đầu tư đang ngày càng gia tăng. Với hình thức này, nhà đầu tư
cũng trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng không hình thành pháp
nhân mới khác với trường hợp góp vốn thành lập doanh nghiệp vì vậy
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này cũng như các hình thức đầu
tư theo hợp đồng BCC, BOT, BTO, BT là các hình thức đầu tư không tạo
ra pháp nhân mới, các bên có thể thỏa thuận việc phân chia lợi nhuận và lỗ
hoặc phân chia sản phẩm hợp tác trong Hợp đồng. Hình thức đầu tư BCC
thường được áp dụng trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí và bất động
sản. Trong khi đó các hợp đồng BOT, BTO, BT lại thường được sử dụng
trong lĩnh vực giao thông và phát triển cơ sở hạ tầng.
● Hình thức đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp


19

tham gia quản lý hoạt động đầu tư [8. Điều 3]. Tác giả không đi sâu nghiên
cứu hình thức đầu tư này.
2.1.2 Quy mô vốn góp và tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay, pháp luật doanh nghiệp và pháp luật đầu tư không có bất
kỳ quy định nào giới hạn quy mô vốn góp và tỷ lệ vốn góp của các nhà đầu
tư trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác hoặc các điều
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác. Tuy nhiên, đối với
vốn thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì quy mô và tỷ lệ

vốn góp có một số điểm đặc biệt so với trường hợp đầu tư trong nước.
Về quy mô vốn góp: Nếu các dự án đầu tư trong nước có quy mô
vốn đầu tư dưới mười lăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc danh mục
lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư không phải làm thủ tục đăng
ký đầu tư [8. Điều 45]. Tuy nhiên, Khoản 3, điều 12, Nghị định số:
102/2010/NĐ-CP quy định: Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài lần
đầu thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam thực hiện đăng ký đầu tư gắn với
thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật về đầu tư không phụ
thuộc vào quy mô và tỷ lệ vốn góp. Trong trường hợp này doanh nghiệp
được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Như vậy, đối với dựa án có vốn đầu tư nước ngoài quy mô
vốn đầu tư dưới ba trăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục
lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư tại
cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư [8. Điều 46]. Ngoài ra, thực tế khi làm việc tại phòng đầu tư nước
ngoài thì quy mô vốn góp của doanh nghiệp phải phù hợp với ngành
nghề đăng ký kinh doanh. Trương hợp Doanh nghiệp đăng ký mức vốn
quá thập hoặc quá cao không phù hợp với phương án kinh doanh thì sẽ
bì từ chối cấp giấy chứng nhận đầu tư.


20

Về tỷ lệ góp vốn: Pháp luật doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam
lấy mức 49% làm mốc giới hạn để áp dụng các điều kiện đầu tư, kinh
doanh. Theo đó, “Doanh nghiệp đã thành lập ở Việt Nam có sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài không quá 49% vốn điều lệ được áp dụng điều kiện
đầu tư, kinh doanh như đối với nhà đầu tư trong nước”. “Doanh nghiệp đã
thành lập ở Việt Nam có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% vốn
điều lệ được áp dụng điều kiện đầu tư, kinh doanh như đối với nhà đầu tư

nước ngoài” [12. điều 11]
Tuy nhiên, trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thành
lập doanh nghiệp để kinh doanh trong lĩnh vực thuộc cam kết quốc tế mà
Viêt Nam tham gia hoặc pháp luật chuyên ngành có quy định về vốn pháp
định thì doanh nghiệp sẽ phải tuân theo quy định đó.
2.1.1.1 Theo biểu cam kết WTO
Trải qua 12 năm đàm phán gia nhập và thực hiện cải cách kinh tế,
hoàn thiện hệ thống pháp luật nội địa theo hướng phù hợp với các chính
sách minh bạch, tự do hóa của WTO, Việt Nam đã gia nhập WTO vào ngày
07/11/2006 và có tư cách thành viên đầy đủ của WTO kể từ ngày
11/01/2007. Kết quả đàm phán giữa Việt Nam và các thành viên WTO về
việc mở cửa thị trường dịch vụ là nội dung được các nhà đầu tư trong và
ngoài nước quan tâm sâu sắc. Theo nội dung của Biểu Cam Kết cụ thể về
dịch vụ của Việt Nam (Biểu Cam Kết), nhà đầu tư nước ngoài nếu đầu tư
vào một số lĩnh vực có điều kiện theo cam kết WTO của Việt Nam thì một
số hạn chế có thể được áp dụng. Các hạn chế đó có thể bao gồm hạn chế tỷ
lệ sở hữu phần vốn góp, ngành nghề không được phép đầu tư… Tuy nhiên,
những hạn chế này cũng đang dần được tháo bỏ theo lộ trình mở cửa mà
Việt Nam đã cam kết. Hiện tại, có tất cả 11 ngành và 155 phân ngành dịch
vụ được các Thành viên WTO tiến hành đàm phán và đạt được thỏa thuận.


21

Tuy nhiên, đến ngày 01/01/2011 thì mọi rào cản của WTO đều được
gỡ bỏ, các hạn chế về quy mô và tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài được
bình đẳng với nhà đầu tư trong nước trên mọi lĩnh vực. Đây vừa là cơ hội
đồng thời cũng là thách thức với các nhà đầu tư trong nước trong việc cạnh
tranh với nhà đầu tư nước ngoài qua đó góp phần phát triển đất nước.
2.1.2.2 Theo quy định của pháp luật chuyên ngành

Đối với cả nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài,
khi tham gia kinh doanh các ngành nghề có điều kiện về vốn pháp định
(mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh
nghiệp hoặc bổ sung hoạt động kinh doanh) thì sẽ phải đáp ứng điều kiện
đó. Có 2 loại yêu cầu về vốn pháp định: Loại thứ nhất là yêu cầu về vốn
pháp định được coi như là một điều kiện để doanh nghiệp (sau khi thành
lập) xin các giấy phép kinh doanh chuyên ngành. Ví dụ, trong lĩnh vực
hàng không, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài,.... Điều này có
nghĩa là sau khi đăng ký kinh doanh, thì doanh nghiệp sẽ phải xin giấy
phép kinh doanh để được quyền kinh doanh trong lĩnh vực, nghề tương
ứng. Loại thứ 2 là yêu cầu khi đăng ký kinh doanh hoặc thành lập doanh
nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh (trong một số lĩnh vực thì việc đăng
ký thành lập doanh nghiệp tại các cơ quan, Bộ quản lý ngành như: Ủy ban
chứng khoán nhà nước, Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa
thông tin,... ). Đối với các ngành nghề này, trong hồ sơ thành lập doanh
nghiệp phải có giấy tờ xác nhận về vốn pháp định của ngân hàng thương
mại tại Việt Nam (Trong một số trường hợp là Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hoặc giấy tờ khác). Theo quy định của pháp luật hiện hành có một số
ngành nghề khi thành lập doanh nghiệp các nhà đầu tư phải đáp ứng điều
kiện về vốn pháp định (chi tiết tại phụ lục III, IV, V đính kèm).
2.1.3 Kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2010


×