Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.37 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN THỊ TỐ UYÊN

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 603820

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUANG

HÀ NỘI, 2011


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Nguyễn Văn
Quang, Trưởng Tiểu ban chuyên ngành Luật Hành chính, Giảng viên khoa
Hành chính - Nhà nước, trường Đại học Luật Hà Nội, người đã trực tiếp
hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Khoa Hành chính - Nhà
nước, trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt
những kiến thức quý báu cho tôi và chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.



Tác giả luận văn
Phan Thị Tố Uyên

i


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

UBND

Ủy ban nhân dân

ii


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI

PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG .......... 8
1.1

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ........................ 8

1.1.1

Định nghĩa vi phạm hành chính ............................................................. 8

1.1.2

Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính ........................................... 10

1.1.3

Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường .. 13

1.2

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ........ 15

1.2.1

Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ............................................... 15

1.2.2

Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường .................................................................................................... 17


1.3

Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực bảo vệ môi trường ......................................................................................... 19
Chương 2:PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG .............................................................................................24
2.1

Thực trạng của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực bảo vệ môi trường ......................................................................................... 24
2.1.1

Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ............................ 25

2.1.2

Hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả .................... 28

2.1.3

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ........................................... 35

2.1.4

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ................................................... 37

2.2


Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực bảo vệ môi trường ................................................................................. 39
2.2.1

Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường...... 39

2.2.2

Tình hình thực hiện các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính ....... 44

iii


Chương 3:HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG......................50
3.1

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ....................................................................... 50
3.2

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ....................................................................... 53
3.3


Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ......................................... 56
3.3.1

Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ............................................... 56

3.3.2

Những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường............... 61

PHẦN KẾT LUẬN ..............................................................................................67
1DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

iv


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường bao gồm tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của
con người như không khí, nước, đất... Hiện nay, môi trường đang trở thành vấn đề
lớn thách thức nhiều quốc gia do tình trạng ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi
trường đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Ở Việt Nam, cùng với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ ngày

càng nhanh. Đô thị hóa và công nghiệp hóa là biểu hiện của sự phát triển kinh tế
song cũng đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Do vậy, BVMT gắn liền với sự phát triển bền vững đã trở thành một nội
dung quan trọng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các
quốc gia. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 - 2010 được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển
đất nước là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Chiến lược này tiếp tục
được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện quan trọng của mình.
Gần đây nhất, Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng
nêu rõ: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và
của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm
với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái…”. Trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là “hoàn thiện hệ thống
luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các
hành vi vi phạm”.
BVMT bằng pháp luật là một định hướng cơ bản của hoạt động BVMT ở các
quốc gia trên toàn thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Nhà
nước ta rất chú trọng công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật và chính sách về BVMT. Hoạt động BVMT của nước ta tuy bắt đầu khá muộn


2

so với nhiều nước nhưng đã đạt được những kết quả to lớn trong lĩnh vực pháp luật
về BVMT. Bằng pháp luật, Nhà nước ta đã từng bước điều chỉnh các hành vi của cá
nhân, tổ chức trong xã hội hướng đến mục tiêu BVMT, ngăn chặn các hành vi gây ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Trên thực tế, đã có khá nhiều nhiều văn bản quy phạm pháp luật được Nhà
nước ban hành nhằm mục tiêu BVMT trong đó phải kể đến Luật BVMT 2005; Pháp

lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung gần đây nhất vào
năm 2008); Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2008; Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2009 về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT.
Tuy nhiên, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam vẫn diễn ra
khá phổ biến, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và sức khỏe con người, ảnh
hưởng đến công cuộc phát triển của đất nước, trật tự kỷ cương của xã hội và gây
những thiệt hại nhất định về kinh tế.
Bên cạnh sự hạn chế về ý thức chấp hành pháp luật môi trường trong các
doanh nghiệp, cộng đồng và người dân; việc xã hội hóa các hoạt động cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực BVMT còn ở phạm vi hẹp, quy mô nhỏ, mô hình đơn
giản; định mức kinh tế kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý trong lĩnh vực môi
trường hiện nay còn thiếu... những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực về môi trường là một trong những nguyên
nhân của tình trạng nêu trên.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây, tình hình vi phạm trong lĩnh
vực môi trường có những diễn biến phức tạp. Trên thế giới, hiện tượng dịch chuyển
ô nhiễm xuyên biên giới từ các nước phát triển sang các nước đang và kém phát
triển thông qua các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ, xuất nhập khẩu… đã
biểu hiện rõ. Các sự cố môi trường nghiêm trọng thời gian qua trên thế giới như tràn


3

dầu trên vịnh Mexico, vỡ bể chứa bùn đỏ tại Hungari… đặt ra nhiệm vụ ngày càng
quan trọng cho công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường.
Ở trong nước, vi phạm pháp luật môi trường diễn ra trong nhiều lĩnh vực
như: Trong sản xuất công nghiệp, lợi dụng chủ trương mở cửa, chính sách thu hút

vốn đầu tư của Nhà nước cùng với những sơ hở về pháp luật trong lĩnh vực BVMT
của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đầu tư các dự án sản xuất
kinh doanh, nhưng không chú trọng việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải, nhất
là các nhà máy, cơ sở sản xuất trong khu công nghiệp đang trong giai đoạn hoàn
thiện và các cơ sở nằm trên lưu vực sông. Đáng lo ngại là các doanh nghiệp tuy có
hệ thống xử lý chất thải, nhưng luôn cố tình vi phạm, thủ đoạn tinh vi, lén lút để xả
thải ra môi trường như xây dựng hệ thống bí mật, phức tạp, được ngụy trang bằng
hệ thống đạt tiêu chuẩn nên rất khó phát hiện, điển hình vụ Công ty Vedan Việt
Nam, Công ty Tung Kuang, Công ty TNHH Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương,
Công ty giấy Việt Trì…
Vì vậy, để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BVMT việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT theo hướng thống nhất, đồng bộ, hợp lý và
khả thi là một đòi hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ nguy cơ môi trường của toàn cầu, từ vai trò của pháp luật trong
việc BVMT, từ thực tiễn quy định hiện hành của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT, cũng như thực tiễn nghiên cứu pháp lý về vấn đề này,
tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn góp một phần
khiêm tốn nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật về BVMT.
2. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, trên cơ sở đó đánh giá thực


4

trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này nhằm tìm

ra những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập, vướng mắc của chúng. Trên cơ
sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy những điểm tích cực, tiến bộ và khắc phục những tồn tại, hạn chế
của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT,
hướng tới mục tiêu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống các vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính về BVMT
nói riêng.
3. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học liên quan đến đề tài
nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Trọng Bình, Trường Đại học
Luật Hà Nội (2000) phân tích các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được đề
cập trong các văn bản pháp luật, những ưu điểm và hạn chế của chúng khi áp dụng
trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001) đi
sâu phân tích thực trạng pháp luật về thẩm quyền của các chủ thể được xử lý vi
phạm hành chính và nêu ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
với người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật
Hà Nội (2003) đề cập đến những nguyên tắc, thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên và đề ra giải pháp hoàn thiện những quy
định pháp luật trong lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Vũ Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà



5

Nội (2009) nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng tải trên Tạp chí luật học như: “Thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính” của tác giả Bùi Thị Đào; “Hệ thống chế tài xử phạt vi
phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện” của tác
giả Bùi Xuân Đức; “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính” của tác giả Lê Vương Long; “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Minh
Hương...
Trong các công trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận và
thực tiễn có liên quan, các tác giả chỉ giới thiệu, phân tích, đánh giá về pháp luật và
thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung hoặc ở một số lĩnh vực
quản lý nhà nước khác chứ không đề cập chuyên sâu về vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BVMT. Do vậy, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề
này nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống vi phạm trong lĩnh vực BVMT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi
hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT; và các quan
điểm khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính
đa ngành và liên vùng rất cao. Vì vậy, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT vô
cùng phong phú, đa dạng và công tác xử lý cũng cực kỳ khó khăn và phức tạp, nhất
là trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế như hiện nay. Do đó, trong luận văn này, tôi chỉ tập trung chủ yếu vào các
quy định của Luật BVMT năm 2005; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành



6

chính năm 2008; Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2009 về xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT và một số quy định khác có liên quan
cũng như thực tiễn thi hành các quy định này. Mặt khác, luận văn cũng không đề
cập tới toàn bộ nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính mà tập trung
vào một số nội dung cơ bản bao gồm: quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử
phạt, mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt và thủ tục xử
phạt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và Pháp luật; các tư tưởng, quan điểm mang tính nguyên tắc của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật và
xây dựng Nhà nước pháp quyền và về vấn đề BVMT, đề tài tập trung nghiên cứu,
phân tích các quan điểm khoa học có liên quan để giải quyết một số vấn đề lý luận
cơ bản về vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong lĩnh
vực về BVMT nói riêng.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh... để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng
pháp luật và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, nâng cao một bước hiệu lực, hiệu quả
nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm hành chính, tăng
cường trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính, tuy nhiên đây là một công trình khoa học nghiên cứu
pháp luật một cách tương đối toàn diện và hệ thống về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT.

Luận văn không những chỉ rõ được những bất cập trong các quy định của
pháp luật mà còn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, từ đó đưa ra những giải pháp có


7

thể là ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BVMT và nâng cao hiệu quả của công tác xử phạt vi
phạm hành chính trên thực tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Để giải quyết các yêu cầu đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương I.

Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Chương II.

Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Chương III.

Hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường



8

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

1.1 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
1.1.1

Định nghĩa vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt

trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế như hiện
nay. Với số lượng xảy ra đáng kể, mang tính thường xuyên, vi phạm hành chính đã
và đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi
ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng và là nguyên nhân
làm nảy sinh tình trạng phạm tội nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Xây dựng định nghĩa vi phạm hành chính có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng. Định nghĩa này giúp chúng ta nhận thức được sự khác biệt giữa vi phạm
hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở đó, có thể xác định
chính xác các vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi nhằm xử lý nghiêm minh, triệt để, đúng pháp luật loại
vi phạm pháp luật này.
Lý luận về nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ vi phạm pháp luật là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực hiện phải có năng lực trách
nhiệm pháp lý [50, tr.497]. Vi phạm hành chính là một dạng cụ thể của vi phạm
pháp luật nên trước hết chúng mang đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của một vi phạm
pháp luật. Bên cạnh đó, vi phạm hành chính cũng có những nét đặc thù khác biệt
với các loại vi phạm pháp luật khác. So với tội phạm, vi phạm hành chính có mức
độ nguy hiểm thấp hơn cho xã hội và mức độ nguy hiểm này được đánh giá trên cơ
sở tổng hợp của nhiều yếu tố như thiệt hại gây ra, tính chất và mức độ lỗi, nhân thân

người vi phạm...
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
hành chính, đặc biệt là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo
cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại


9

vi phạm này, việc đưa ra định nghĩa vi phạm hành chính trong pháp luật thực định
thực sự cần thiết cho nhận thức pháp luật cũng như giúp cho quá trình áp dụng pháp
luật để xử lý các vi phạm hành chính trong thực tế. Do vậy, định nghĩa về vi phạm
hành chính cần phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội của loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác
biệt giữa chúng với tội phạm.
Vi phạm hành chính được định nghĩa lần đầu tiên trong Pháp lệnh Xử phạt vi
phạm hành chính năm 1989, theo đó “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước
mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý
hành chính”. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2008) không trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính mà thông qua quy
định về xử phạt vi phạm hành chính các nhà làm luật đã gián tiếp nêu ra định nghĩa
này. Khoản 2 Điều 1, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định “xử phạt
vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý
hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, các quan niệm về vi phạm hành chính
nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này.
Những dấu hiệu bản chất này giúp chúng ta đưa ra định nghĩa chung về vi phạm
hành chính, theo đó, vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý
nhà nước của cá nhân, tổ chức, có lỗi, không phải là tội phạm và theo quy định của

pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Trên cơ sở của định nghĩa chung về vi phạm hành chính nêu trên, có thể định
nghĩa vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT là hành vi vi phạm pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của cá nhân, tổ chức, có lỗi,
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính.


10

1.1.2

Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Cũng giống như mọi vi phạm pháp luật khác, vi phạm hành chính được cấu

thành bởi bốn yếu tố, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể.
Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài
của vi phạm hành chính, bao gồm hành vi trái pháp luật, hậu quả và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng một số dấu hiệu khác như công cụ, phương
tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
Vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi, được biểu đạt ra bên ngoài
bằng hành động hoặc không hành động. Dù biểu hiện bằng hình thức nào đi chăng
nữa, hành vi đó chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi nó là hành vi trái pháp luật
hành chính.
Hậu quả của vi phạm hành chính thể hiện ở việc nó đã xâm hại đến các quy
định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Nói cách khác hậu quả của vi phạm hành chính thể hiện các quan hệ xã hội
được pháp luật hành chính xác lập và bảo vệ đã bị xâm hại.
Hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính có mối quan

hệ nhân quả, theo đó, hành vi vi phạm là tiền đề xuất hiện của hậu quả mà vi phạm
này gây ra. Cần lưu ý rằng hậu quả và thiệt hại xảy ra không đồng nhất với nhau.
Mặt khách quan của đa phần các cấu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải
có dấu hiệu thiệt hại. Trong một số trường hợp thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc và
trường hợp này nhất thiết phải xác định mối quan hệ giữa hành vi và thiệt hại mà nó
gây ra.
Ngoài ra, mặt khách quan của vi phạm hành chính cũng có thể có một số yếu
tố khác như thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi vi phạm
hành chính. Những dấu hiệu này mặc dù không phổ biến nhưng trong một số trường
hợp đây lại là dấu hiệu bắt buộc để xác định hành vi đó có phải là vi phạm hành
chính hay không.


11

Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu bên trong của vi phạm
hành chính, bao gồm các yếu tố lỗi, mục đích và động cơ, trong đó, lỗi là dấu hiệu
cơ bản trong cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Lỗi là thái độ tâm lý của
người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật
của mình và được phân chia thành hai hình thức, lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi vi
phạm nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc nhận
thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có ý thức xem thường, mặc dù họ
hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi vi
phạm không biết và không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, mặc
dù cần phải biết và nhận thức được điều đó, hoặc trường hợp một người thực hiện
hành vi trái pháp luật do vô tình hoặc thiếu thận trọng mà không thực hiện những
nghĩa vụ pháp lý bắt buộc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng nghĩa vụ

đó.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính, còn
có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lỗi của tổ chức. Có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là
trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm nên không đặt ra
vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối
với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật hành chính và
hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính là đủ.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức phải chịu trách nhiệm về
mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, đồng thời có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ
chức của mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ,
công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.


12

Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính không phải là dấu hiệu bắt
buộc phải có trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính. Mục đích của vi
phạm hành chính là cái “đích” trong ý thức của người vi phạm hành chính, được đặt
ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm hành chính chỉ có ở trong một
số hành vi vi phạm hành chính nhất định, và những trường hợp này đều có hình
thức lỗi cố ý. Động cơ vi phạm hành chính được hiểu là động lực bên trong thúc
đẩy người vi phạm thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những vi phạm hành
chính với lỗi cố ý, có động cơ, mục đích rõ rệt, còn phần lớn các vi phạm hành
chính có động cơ, mục đích không rõ nét. Trong các trường hợp này, vi phạm hành
chính chủ yếu do thiếu thận trọng, vô tình hay coi nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi
phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại không đáng kể. Do vậy, động cơ, mục
đích vi phạm hành chính không được coi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của

phần lớn các vi phạm hành chính.
Khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp luật
hành chính bảo vệ và bị các vi phạm hành chính xâm hại. Vi phạm hành chính là đã
xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật hành chính bảo vệ.
Vì vậy, khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như trật tự an toàn giao thông, an ninh trật tự, an
toàn xã hội, trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVMT… được pháp luật quy
định và bảo vệ.
Chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Cá nhân là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm công dân Việt Nam và
người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao
và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam, vùng
đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những người này phải có năng lực trách
nhiệm hành chính (tức là không mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác đến


13

mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình) và đạt độ
tuổi nhất định theo quy định của pháp luật (từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính đối với hành vi vi phạm do cố ý).
Chủ thể vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các
tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết

hoặc tham gia có quy định khác.
1.1.3

Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Ngoài những dấu hiệu chung của vi phạm hành chính, vi phạm hành chính

trong lĩnh vực BVMT cũng có những nét đặc thù cần được lưu ý.
Thứ nhất, tính chất phong phú đa dạng của các vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT.
Do môi trường được tạo thành bởi nhiều thành phần môi trường nên hoạt
động BVMT được pháp luật quy định rất đa dạng và phong phú, bao gồm hoạt động
BVMT nói chung và hoạt động bảo vệ từng thành phần môi trường nói riêng. Điều
này cũng sẽ dẫn đến sự phong phú, đa dạng của các vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BVMT. Ngoài hành vi vi phạm các quy định pháp luật về BVMT nói chung
còn có các hành vi vi phạm quy định pháp luật về BVMT trong từng thành phần
môi trường nói riêng như: hành vi gây ô nhiễm môi trường nước; hành vi vi phạm
các quy định về quản lý chất thải; các hành vi vi phạm các quy định về BVMT
trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế liệu…
Do tính chất này, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT không chỉ được
quy định tại một văn bản quy phạm pháp luật chung về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT mà còn được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật
khác. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành


14

chính xâm phạm đến từng yếu tố, thành phần môi trường như: Nghị định số
34/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước; Nghị định số 31/2007/NĐ-CP ngày 02/3/2007 về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý hóa chất nguy hiểm; Nghị định số
31/2010/NĐ-CP ngày 29/3/2010 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thủy sản; Nghị định số 145/2006/NĐ-CP ngày 30/11/2006 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí; Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày
02/11/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản…
Thứ hai, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phần lớn đều liên quan
đến các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và BVMT.
Khi quy định vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, người ta thường sử
dụng “kết cấu dẫn chiếu”. Để xác định vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
phải xác định xem hành vi đó có vi phạm các quy định về khai thác, sử dụng nguồn
tài nguyên thiên nhiên và BVMT hay không. Những quy định này thường nằm rải
rác ở những văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau. Ví dụ, muốn khẳng định
hành vi vi phạm về thải khí, bụi theo Điều 11 Nghị định số 117/2009/NĐ-CP thì
cần căn cứ trên cơ sở giới hạn tối đa được phép thải các chất độc hại và không khí.
Giới hạn này được quy định cụ thể trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải
công nghiệp đối với một số chất hữu cơ (QCVN 20:2009/BTNMT) hay trong Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế (QCVN
02:2008/BTNMT) do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành.
Thứ ba, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT phụ thuộc chủ yếu vào những thiệt hại mà hành vi đó gây ra
cho môi trường, sức khỏe và tính mạng của con người nhưng việc xác định những
thiệt hại này không phải là công việc đơn giản. Lý luận cũng như thực tiễn cho thấy
việc xác định các thiệt hại về môi trường gặp rất nhiều khó khăn và điều này xuất
phát từ nhiều lý do. Trước hết, thiệt hại do môi trường gây ra rất khó chứng minh
đầy đủ. Do môi trường được cấu thành bởi rất nhiều thành phần khác nhau, có mối


15


liên hệ mật thiết và tác động tương hỗ lên nhau nên một hành vi vi phạm hành chính
về BVMT có thể gây ra nhiều thiệt hại: thiệt hại đối với từng thành phần môi trường
cũng như đối với tổng thể môi trường, thiệt hại đối với tài sản, sức khỏe, tính mạng
của con người. Đồng thời, do môi trường là đối tượng khai thác, sử dụng của rất
nhiều người nên trên thực tế có những thiệt hại về môi trường có thể do sự tác động
đồng thời của nhiều người, nhiều nguyên nhân gây nên và những tác động này
thường mang tính tiềm ẩn, đan xen. Thêm vào đó, trong một số trường hợp không
thể xác định được ngay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy
ra, vì hậu quả xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc hậu quả không xảy
ra ngay sau khi có hành vi vi phạm mà phải trải qua một thời gian rất dài mới xuất
hiện (ví dụ: các trường hợp bị nhiễm chất độc hóa học…).
1.2

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

1.2.1

Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Khi vi phạm hành chính xảy ra, Nhà nước tiến hành áp dụng các biện pháp

xử phạt vi phạm hành chính. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trước hết là nhằm mục đích răn đe, trừng phạt người vi phạm. Việc xử phạt vi
phạm hành chính cũng nhằm giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, các quy
tắc quản lý, trật tự quản lý hành chính nói riêng và trật tự pháp luật nói chung, tôn
trọng các quy tắc của đời sống xã hội; ngăn chặn và phòng ngừa các vi phạm pháp
luật có thể xảy ra, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước.
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước.
Hoạt động này là việc áp dụng các hình thức xử phạt và các biện pháp cưỡng chế

hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Nói cách khác, thực chất
của xử phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng các chế tài xử phạt hành chính và
các biện pháp cưỡng chế hành chính khác do cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật.


16

Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức có vi phạm hành chính được thực hiện bởi chủ thể có
thẩm quyền. Người có thẩm quyền xử phạt sẽ là người thay mặt Nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước quyết định áp dụng biện pháp xử phạt thích hợp với chủ thể
một vi phạm trên thực tế. Như vậy, xử phạt hành chính chỉ do các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước được Nhà nước trao thẩm
quyền xử phạt hành chính tiến hành.
Pháp luật của nhiều nước hạn chế số lượng cơ quan có thẩm quyền xử phạt
vì cho rằng hoạt động này liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và chỉ Tòa án mới là cơ quan có những phán quyết có ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện
nay, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử phạt vi phạm hành chính được nhanh
chóng, kịp thời và hiệu quả, pháp luật quy định nhiều chủ thể có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là loại hoạt động quản lý đặc biệt bao gồm một
loạt các hành vi cụ thể liên quan mật thiết với nhau như xem xét, đánh giá tính chất
mức độ vi phạm, cân nhắc hình thức và mức độ xử phạt và kết quả cuối cùng của
hoạt động này thể hiện ở nội dung của các quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Khi được ban hành, quyết định xử phạt vi phạm hành chính sẽ làm các tổ chức, cá
nhân bị xử phạt bị áp dụng các biện pháp chế tài xử phạt cũng như các biện pháp
cưỡng chế khác theo quy định của pháp luật. Việc bị buộc thực hiện các biện pháp

này thể hiện rõ hậu quả bất lợi mà tổ chức, cá nhân vi phạm phải gánh chịu trước
Nhà nước.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính phải được thực hiện trong khuôn khổ
của pháp luật và tuân theo trình tự, thủ tục hành chính. Khi tiến hành hoạt động xử
phạt hành chính người có thẩm quyền xử phạt đều phải tuân theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định. Xử phạt hành chính được áp dụng theo trình tự do các quy
phạm thủ tục của luật hành chính quy định (thủ tục hành chính) chứ không phải
trình tự, thủ tục tư pháp. Việc đặt ra các thủ tục pháp lý nhằm xác định nội dung và


17

quy trình thực hiện các công việc một cách hợp lý giúp cho hoạt động của Nhà nước
tiết kiệm được thời gian, công sức mà lại có hiệu quả cao. Hơn nữa, xử phạt vi
phạm hành chính ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền và lợi ích của những chủ thể
nhất định nên thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không chỉ đảm bảo cho hoạt động
của Nhà nước tiến hành hợp lý mà còn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá
nhân, tập thể và Nhà nước. Việc áp dụng trình tự này nhìn chung đơn giản và linh
hoạt hơn so với thủ tục tố tụng tư pháp để giải quyết các vụ án theo quy định của
pháp luật tố tụng.
Như vậy, xử phạm vi phạm hành chính có một số đặc điểm nổi bật sau đây:
- Được thực hiện trên cơ sở có vi phạm hành chính xảy ra;
- Do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện;
- Nội dung cơ bản của hoạt động này là xem xét, đánh giá tính chất mức độ
vi phạm và quyết định hình thức, mức độ xử phạt;
- Được thực hiện theo trình tư, thủ tục được pháp luật quy định.
Từ những lập luận trên, có thể định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính là việc
người có thẩm quyền áp dụng các hình thức, biện pháp xử phạt và biện pháp cưỡng
chế khác đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính theo thủ tục do pháp luật quy
định. Tương tự như vậy, có thể hiểu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

BVMT là việc người có thẩm quyền áp dụng các hình thức, biện pháp xử phạt và
biện pháp cưỡng chế khác đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh
vực môi trường theo thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2

Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi

trường
Ngoài những đặc điểm chung giống như xử phạt vi phạm hành chính trong
các lĩnh vực khác, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT có những đặc
thù gắn liền với những đặc thù của loại vi phạm này như đã phân tích ở phần trên,
cụ thể là:
Thứ nhất, do vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phần lớn đều gắn với
các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và BVMT nên để có


18

thể xử phạt đúng đắn loại vi phạm này cần phải vận dụng chính xác các quy phạm
pháp luật môi trường, trong đó đặc biệt là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường. Xuất phát từ điều này, khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT hầu như đều phải thực hiện thủ tục giám định chất lượng môi trường. Đây là
một hoạt động mang tính nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng lại là cơ sở để
xác định vi phạm hành chính về BVMT và đánh giá tính chất, mức độ vi phạm gây
ra. Ý kiến chuyên môn này của bộ phận giám định, vì thế, có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Cũng chính từ đặc thù nói trên mà hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT hầu hết được thực hiện trên cơ sở tiến hành các đợt kiểm tra,
thanh tra về môi trường bao gồm, thanh tra đột xuất, thanh tra định kỳ theo quý,
hoặc năm. Đây là một điểm đặc trưng của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực BVMT so với xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước khác.
Thứ hai, do vi phạm hành chính về BVMT phong phú và đa dạng, cho nên
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau. Có những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt
hành chính mang tính hệ thống (Nghị định số 117//2009/NĐ-CP), cũng có những
văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt hành chính mang tính riêng lẻ theo
từng thành phần của môi trường (ví dụ, các nghị định quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực như: đất đai, nước, thủy sản, quản lý rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản...).
Thứ ba, do đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT nên khi xử
phạt loại vi phạm này việc phân định giữa tội phạm môi trường và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT cũng có nhiều vấn đề cần lưu tâm.
Vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực BVMT đều là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội và chúng chỉ khác nhau ở “mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi”. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ít nguy hiểm cho xã
hội hơn so với hành vi bị coi là tội phạm về môi trường. Để xác định mức độ nguy


19

hiểm khác nhau cho xã hội của vi phạm hành chính và tội phạm nói chung, có thể
dựa trên những tiêu chí chung như tính chất của khách thể bị xâm hại, đặc điểm cá
nhân của chủ thể vi phạm, tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích vi phạm,
mức độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, mức độ tái phạm. Trong lĩnh vực
BVMT, việc nhìn nhận, đánh giá những tiêu chí này cũng có những điểm đặc thù.
Về dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính”: Cần nhận thức rằng môi trường là
một thể thống nhất, các bộ phận của nó không thể tồn tại độc lập với nhau và với
môi trường nói chung. Ý thức BVMT không thể chỉ là ý thức đối với một bộ phận
cấu thành nào đó của môi trường. Để nâng cao ý thức và trách nhiệm giữ gìn,

BVMT của mọi người, việc áp dụng những biện pháp chế tài có tính chất cứng rắn
như chế tài hình sự đối với các hành vi xâm hại môi trường là điều cần được quan
tâm. Vì vậy, nhìn chung dấu hiệu tái phạm thông thường được hiểu là cá nhân hay
tổ chức đó đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường nói chung
mà vẫn tiếp tục vi phạm trong lĩnh vực BVMT chứ không nhất thiết phải là những
hành vi vi phạm cùng loại.
Về dấu hiệu “mức độ thiệt hại trực tiếp của hành vi”: Đây là tiêu chí mang
tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất, khả năng khắc
phục những thiệt hại cho môi trường… Đặc biệt, như đã nêu ở phần trên, trong lĩnh
vực môi trường, việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù riêng. Do đó
sẽ không hợp lý nếu chỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp luật xác định
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm để khẳng định hành vi vi phạm
đó là vi phạm hành chính hay tội phạm về môi trường mà cần xem xét, đánh giá
tổng hợp nhiều yếu tố có liên quan.
1.3

Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực bảo vệ môi trường
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò rất quan trọng, nó là phương tiện
không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội. Pháp luật là cơ sở để


20

thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước, là phương tiện để Nhà nước
quản lý kinh tế - xã hội.
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT là tổng thể
các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành quy định về vi

phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT. Là một bộ
phận của pháp luật nói chung, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BVMT cũng có vai trò rất quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có
hiệu quả đối với các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ở nước ta, giữ vững
ổn định, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập
quốc tế như hiện nay. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT là một yêu cầu khách quan luôn được nhằm bảo đảm
chất lượng, hiệu quả của việc điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề phát sinh của
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT.
Một cách khái quát, hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT phải bảo đảm cả yêu cầu về tính hợp pháp lẫn yêu cầu về tính
hợp lý.
Bảo đảm yêu cầu về tính hợp pháp
Tính hợp pháp đã đặt ra yêu cầu là phải ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT có nội dung phù hợp
với pháp luật, đúng thẩm quyền và đúng trình tự, thủ tục ban hành, cụ thể là:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT của cấp dưới phải phù hợp văn bản của cấp trên, văn bản của cơ
quan có thẩm quyền chuyên môn phải phù hợp với văn bản của cơ quan có thẩm
quyền chung, văn bản của cơ quan hành chính phải phù hợp với văn bản của cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp và văn bản của các cơ quan ở cùngcấp ban hành
không được trùng lắp, chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung. Đặc biệt, việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT phải tính đến sự phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia.


×