Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.97 KB, 63 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
TLỜI MỞ ĐẦU
rong mấy thập kỷ qua, môi trường ngày càng có chiều hướng biến đổi phức tạp.
Chất lượng không khí, nguồn nước, tài nguyên, hệ sinh thái... nhiều nơi ở mức báo
động. Ô nhiễm môi trường và áp lực với thiên nhiên đang diễn ra hàng ngày và ở
nhiều nơi. Vấn đề ô nhiễm môi trường sống, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, quá trình thay đổi khí hậu toàn cầu đang là những thách thức đối với quá
trình phát triển kinh tế bền vững. Trước những nguy cơ đó, hội nghị Liên Hợp
Quốc về môi trường và phát triển đã được tổ chức tại Jio de Janeiro-Braxin tháng
6/1992 và Hội nghị thượng đỉnh Thế Giới về phát triển bền vững tại Joharnesburg –
Nam Phi tháng 8/2002; gần đây nhất là Hội nghị thế giới về khí hậu - Copenhagen
diễn ra tại Đan Mạch từ ngày 7 đến 18/12/2009 và nhiều Điều ước quốc tế song
phương, đa phương về bảo vệ môi trường đã được ký kết. Việt Nam đã tham gia
một số Điều ước như: Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới,
1972 (19/10/1987); Công ước về thông báo sớm sự cố hạn nhân (IAEA), 1985
(30/10/1987); Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc
biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1989); Công ước
khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC), 1992 (16/11/1994);
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982…[22]
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, trong thời gian qua công tác bảo vệ
môi trường của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, ý thức của nhân
dân về bảo vệ môi trường đã được nâng lên một bước; hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường đã được xây dựng và từng bước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy tình trạng vi phạm hành chính (VPHC)
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn xảy ra tương đối phổ biến, công tác xử lý vi
phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng chưa triệt để, có nhiều vụ vi phạm
không được phát hiện kịp thời hoặc được phát hiện nhưng xử lý chưa thỏa đáng.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
1
Khóa luận tốt nghiệp
Những bất cập trên đây có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên


nhân về mặt pháp luật; nhất là kể từ khi Pháp lệnh xử lý VPHC sửa đổi, bổ sung
năm 2008 (Pháp lệnh 2008) có hiệu lực, thì sự mâu thuẫn giữa pháp lệnh và pháp
luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cụ thể là Nghị định số
81/2006/NĐ-CP càng làm tăng khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Trước tình
hình đó, ngày 31/12/2009 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 177/2009/QĐ-CP
về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Nghị định 177 - có hiệu lực
vào 01/03/2010), đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và nhất là pháp luật về các biện pháp xử
phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã có thay đổi đáng kể.
Trước tình hình đó, em đã chọn đề tài “Các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành” làm khóa luận tốt
nghiệp, với mong muốn góp phần nâng cao hiểu biết của các tổ chức, cá nhân về
các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là những quy
định mới về vấn đề này trong Nghị định 177.
Khóa luận có phạm vi nghiên cứu giới hạn trong các quy định hiện hành của
Luật bảo vệ môi trường, Pháp lệnh xử lý VPHC, Nghị định hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh xử lý VPHC, tham khảo một số bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành
và phân tích một số vụ việc xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường xảy ra
trong thời gian gần đây. Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, những yêu cầu mà đề tài đặt ra đã dần được làm sáng tỏ trong khóa
luận.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được kết
cấu thành 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về các biện pháp xử phạt vi phạm VPHC trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
2
Khóa luận tốt nghiệp
Chương II. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng.

Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử
phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận,
nhưng với thời gian, điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế.Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
3
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
1.1. Khái niệm môi trường và các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
1.1.1. Khái niệm, vai trò của môi trường đối với cuộc sống.
a. Khái niệm.
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh
học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của
con người [4]. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực
vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho
ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những
luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp
Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình,
tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xã hội định hướng
hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể
thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật

khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả
các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như
ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
4
Khóa luận tốt nghiệp
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho
sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất,
nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao
gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con
người. Ví dụ: Môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy giáo, bạn bè, nội
quy của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội
như Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những quy định
không thành văn, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị
định, thông tư, quy định.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và
phát triển.
b. Vai trò của môi trường đối với cuộc sống.
Môi trường có các vai trò cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động
sản xuất của con người.
- Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc
sống và hoạt động sản xuất của mình.
- Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người
và sinh vật trên trái đất.
- Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương

thực và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
5
Khóa luận tốt nghiệp
mình bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại không gian
khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới. Việc khai thác
quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể làm cho chất lượng
không gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu và năng lượng cần thiết
cho hoạt động sản xuất và cuộc sống như đất, nước, không khí, khoáng sản và các
dạng năng lượng như gỗ, củi, nắng, gió,... Các sản phẩm công, nông, lâm, ngư
nghiệp và văn hoá, du lịch của con người đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn tại
trên trái đất và không gian bao quanh trái đất.
Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần sử dụng được tuần hoàn
quay trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên tái tạo. Ví dụ như nước ngọt, đất,
sinh vật, v.v... là loại tài nguyên mà sau một chu trình sử dụng sẽ trở lại dạng ban
đầu.
Trái lại, các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin bị mất mát, biến đổi hoặc suy
thoái không trở lại dạng ban đầu thì được gọi là tài nguyên không tái tạo. Ví dụ như
tài nguyên khoáng sản, gen di truyền. Tài nguyên khoáng sản sau khi khai thác từ
mỏ, sẽ được chế biến thành các vật liệu của con người, do đó sẽ cạn kiệt theo thời
gian. Tài nguyên gen di truyền của các loài sinh vật quý hiếm, có thể mất đi cùng
với sự khai thác quá mức và các thay đổi về môi trường sống.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tăng cường khai
thác các dạng tài nguyên mới và gia tăng số lượng khai thác, tạo ra các dạng sản
phẩm mới có tác động mạnh mẽ tới chất lượng môi trường sống.
1.1.2. Khái niệm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
Cưỡng chế nhà nước gồm nhiều nhóm biện pháp cưỡng chế khác nhau, như:
nhóm các biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt được xác định trong chế tài

Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
6
Khóa luận tốt nghiệp
pháp luật; nhóm các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm
pháp luật và bảo đảm việc áp dụng các chế tài pháp luật; nhóm các biện pháp
cưỡng chế nhà nước được áp dụng vì mục đích đảm bảo lợi ích của cộng đồng hoặc
vì lí do an ninh quốc gia... Các biện pháp xử phạt hành chính về môi trường thuộc
nhóm biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt được xác định trong chế tài pháp
luật.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là biện pháp
pháp luật nhằm đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, bảo vệ môi trường. Xử
phạt hành chính là công cụ cưỡng chế Nhà nước có tác dụng to lớn trong việc
phòng chống VPHC để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Tính cưỡng chế thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng các biện pháp xử phạt
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường luôn được các cơ quan hoặc cán bộ Nhà
nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Chỉ có cơ quan hoặc
cán bộ Nhà nước được Nhà nước trao quyền xử phạt hành chính về bảo vệ môi
trường mới có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. Các chủ thể được sử dụng quyền lực Nhà nước, có quyền lựa chọn các
biện pháp xử phạt VPHC phù hợp mang tính trừng phạt, giáo dục; trực tiếp tác
động đến tinh thần hay vật chất; buộc các đối tượng bị xử phạt phải gánh chịu
những tổn hại về tài sản hoặc bị hạn chế một số quyền.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được xác định
trong chế tài của quy phạm pháp luật và được áp dụng khi có vi phạm hành chính
về môi trường. VPHC nói chung và VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói
riêng cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là các hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nó trực tiếp xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Đấu tranh với
các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện bằng nhiều biện pháp
khác nhau: tổ chức - chính trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế, pháp lý. [3, tr 18]

Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
7
Khóa luận tốt nghiệp
Quy phạm pháp luật xác định các biện pháp xử phạt hành chính đối với chủ thể
thực hiện vi phạm hành chính về môi trường thuộc ngành Luật Hành chính. Về
nguyên tắc chung, cũng giống như các quy phạm luật khác, cấu trúc gồm ba phần:
giả định, qui định, chế tài. Thông thường phần giả định chỉ ra các điều kiện về chủ
thể, không gian, thời gian có hiệu lực của quy định. Phần quy định xác định nội
dung quy tắc hành vi dưới dạng các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan
hệ pháp luật môi trường. Còn chế tài ấn định các biện pháp cưỡng chế nhà nước
bảo đảm cho các nghĩa vụ trong quy định được thực hiện và luôn liên quan đến
nhân tố vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào các phần của qui phạm
pháp luật cũng thể hiện trong một Điều luật hoặc trong cùng một văn bản pháp luật.
1.2. Đặc điểm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một trong các
biện pháp cưỡng chế hành chính; vì vậy nó mang đầy đủ đặc điểm của cưỡng chế
hành chính, đó là:
- Nội dung là sự hạn chế quyền hoặc bổ sung thêm nghĩa vụ đối với đối tượng
vi phạm.
Khi tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường,
về nguyên tắc Nhà nước buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định
(hạn chế quyền hoặc tài sản). Việc làm này nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật bảo
vệ môi trường đã bị xâm hại đồng thời giáo dục tổ chức, cá hân vi phạm cũng như
toàn thể cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường.
- Mang tính giáo dục và tính trừng phạt.
Các biện pháp xử phạt hành chính về môi trường được áp dụng trên cơ sở có vi
phạm hành chính về môi trường thể hiện sự phản ứng của nhà nước đối với những
đối tượng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về môi tường. Các biện pháp xử
phạt này mang tính giáo dục đồng thời cũng mang tính trùng phạt của Nhà nước

Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
8
Khóa luận tốt nghiệp
đối với chủ thể vi phạm pháp luật về môi trường mà chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Sự trừng phạt biểu hiện ở việc buộc các chủ thể vi phạm phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần. Đây là ý nghĩa quan trọng
của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, là ý nghĩa đầu
tiên nhưng việc áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường còn nhằm mục đích cao hơn là giáo dục ý thức pháp luật của các chủ thể.
Thông qua việc áp dụng các biện pháp này trong các trường hợp vi phạm cụ thể
Nhà nước tác động đến tâm lý của đối tượng vi phạm và các chủ thể khác, từ đó
cho họ ý thức phải tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường.
Pháp luật về các biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
cần đảm bảo tính phù hợp giữa tính răn đe giáo dục với tính trừng phạt mới có thể
phát huy được hiệu quả. Tính trừng phạt trong các biện pháp xử phạt hành chính về
môi trường sẽ phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng tiêu cực của hành vi vi phạm hành
chính đối với môi trường.
- Các biện pháp xử phạt, mức phạt được pháp luật dự liệu. Các biện pháp này sẽ
được áp dụng trong thực tiễn tùy thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm, các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân của đối tượng vi phạm.
Cùng một hành vi vi phạm pháp luật nhưng đối với mỗi trường hợp cụ thể lại có
tính chất, mức độ khác nhau nên thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho môi trường
có sự khác nhau. Do đó, các biện pháp xử phạt được lựa chọn để áp dụng đối với
mỗi trường hợp cụ thể là khác nhau. Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và
nhân thân của người vi phạm cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn các
biện pháp xử phạt để áp dụng.
- Đối tượng áp dụng là tổ chức và cá nhân.
Cưỡng chế hình sự tác động đối với tội phạm, áp dụng nguyên tắc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự nên cưỡng chế này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp
dụng với tổ chức.Cưỡng chế trong dân sự cũng như cưỡng chế trong hành chính

Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
9
Khóa luận tốt nghiệp
được áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức nhưng cưỡng chế hành chính thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước, trong khi đó cưỡng chế dân sự thể hiện mối
quan hệ giữa bên vi phạm với bên bị vi phạm dưới sự bảo đảm của Nhà nước.
Vì là biện pháp cưỡng chế trong một ngành luật cụ thể nên các biện pháp xử
phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng có các đặc điểm riêng sau:
- Được áp dụng khi có VPHC về môi trường.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chỉ có thể áp
dụng khi có VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Mục đích trừng phạt của các
biện pháp xử phạt VPHC có tác dụng khi tác động đến chủ thể thực hiện hành vi
VPHC mà pháp luật đã quy định. Hơn nữa, VPHC xuất hiện trong tất cả các lĩnh
vực quản lý Nhà nước. VPHC trong mỗi lĩnh vực lại có các đặc thù vì vậy các biện
pháp xử phạt trong mỗi lĩnh vực cũng có những điểm riêng và chỉ được áp dụng đối
với hành vi VPHC tương ứng đã được pháp luật qui định trong lĩnh vực đó.
- Do cơ quan Nhà nước về môi trường áp dụng.
Các cơ quan Nhà nước được chia nhỏ để quản lý các linh vực khác nhau, và có
một bộ phận quản lý Nhà nước về môi trường. Những cơ quan này không những có
điều kiện phát hiện vi phạm mà còn có đủ chuyên môn nghiệp vụ để xử lý VPHC
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nghiêm minh, đúng pháp luật.
- Mức xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường nghiêm khắc
hơn các biện pháp xử phạt VPHC trong các lĩnh vực khác.
Tất cả chúng ta đều biết, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường gây
thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại rất lớn đối với xã hội, Nhà nước hay các chủ
thể khác; và khi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các chủ thể thường thu
được lợi nhuận lớn. Vì vậy, để xử phạt có hiệu quả, các nhà làm luật thường đưa ra
mức phạt nghiêm khắc hơn trong các lĩnh vực khác.
- Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được áp dụng
theo một trình tự thủ tục phức tạp.

Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
10
Khóa luận tốt nghiệp
Về nguyên tắc, thủ tục áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường cũng giống trong các lĩnh vực khác. Tuy nhiên; VPHC trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường thường phức tạp, để chứng minh một hành vi là hành vi
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến
hành nhiều công đoạn như: xét nghiệm các thành phần môi trường, so sánh với tiêu
chuẩn cho phép, xin ý kiến các chuyên gia…
1.3. Nguyên tắc xây dựng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong
pháp luật bảo vệ môi trường.
Nguyên tắc xây dựng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường là những tư tưởng chỉ đạo việc ban hành quy định pháp luật về các biện
pháp xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường được nhanh chóng, đúng
pháp luật góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả quản lý
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo tính giáo dục kết hợp với trừng phạt.
Xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có mục đích trừng phạt, song
đó là sự trừng phạt mang tính nhân đạo sâu sắc nếu xét đến lới ích chung của cộng
đồng xã hội (nhằm bảo vệ môi trường), xét nó như một phương tiện tác động của
Nhà nước làm cho người vi phạm và những người khác nhận thức đúng đắn giá trị
của của pháp luật trong công cuộc bảo vệ môi trường.
Trong khi đó giáo dục là mục đích vốn có của pháp luật bảo vệ môi trường Việt
Nam, nó bắt nguồn từ bản chất nhân đạo sâu sắc của xã hội ta – xã hội luôn tạo
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Không thể đối lập mục đích trùng phạt và
mục đích giáo dục của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Phương châm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là luôn kết hợp trừng
phạt và giáo dục. Mục đích giáo dục của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C

11
Khóa luận tốt nghiệp
vực bảo vệ môi trường phải được cụ thể hóa trong quy định pháp luật về vấn đề này
cũng như khi được áp dụng trên thực tế.
Hơn nữa, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có một đặc thù là thường gây
ra hậu quả lớn, khó khắc phục vì vậy giáo dục với ý nghĩa giúp phòng ngừa VPHC
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường lại càng cần thiết.
- Đảm bảo ngăn chặn có hiệu quả VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường gây ra hậu quả lớn, hơn nữa lại
khó có thể thấy được ngay tại thời điểm phát hiện vi phạm, nên việc ngăn chặn hiệu
quả VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tránh
được những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Chính vì vậy khi xây dựng các quy
định pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường,
các nhà làm luật phải nghiên cứu thực tiễn để có thể đưa ra các quy định phù hợp,
có tác dụng đối với các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường.
Nguồn của pháp luật bảo vệ môi trường bao gồm một hệ thống những văn bản
pháp luật do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật
môi trường được ban hành trong văn bản pháp luật chung và cũng có nhiều quy
phạm pháp luật được hệ thống hóa và ban hành trong văn bản pháp luật riêng về
lĩnh vực môi trường. Chính vì vậy, khi ban hành quy định về các biện pháp xử phạt
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các chủ thể có thẩm quyền phải xem xét
quy định của pháp luật liên quan đặc biệt là Pháp lệnh xử lý vi VPHC, Luật bảo vệ
môi trường để tránh tình trạng mẫu thuẫn giữa các văn bản pháp luật gây ảnh
hưởng đến quá trình áp dụng
- Nguyên tắc phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng giống như
các biện pháp cưỡng chế khác là sự hạn chế quyền hoặc bổ sung nghĩa vụ vì vậy để
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C

12
Khóa luận tốt nghiệp
đạt được mục đích của các biện pháp này cần phải quy định phù hợp với đối tượng
áp dụng, không quá nhẹ để họ coi thường và cũng không quá nặng để họ không thể
thực hiện được.
Một yếu tố quan trọng cần tìm hiểu để có thể đáp ứng yêu cầu này đó là điều
kiện kinh tế, xã hội. Các biện pháp xử phạt này phải thay đổi nếu điều kiện kinh tế,
xã hội thay đổi; bởi lẽ không thể dùng các chế tài của nền kinh tế, xã hội kém phát
triển áp dụng cho một nền kinh tế, xã hội phát triển và ngược lại.
Ví dụ : trong nền kinh tế hiện nay không thể áp dụng mức phạt tiền 5.000 đồng
(Pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995) như giai đoạn 1995- 2002 vì như vậy đối tượng
vi phạm sẽ sẵn sàng bỏ qua quy định của pháp luật, khi đó mục đích của việc xử
phạt sẽ không thể đạt được.
Sự phù hợp giữa pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội phản ánh rõ mối tương quan giữa trình
độ pháp luật với trình độ phát triển kinh tế xã hội. Nếu quy định về các biện pháp
xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chứa đựng các nội dung phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường thì không những bảo vệ được môi trường mà còn tạo ra đòn bẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Ngược lại nếu quy định pháp luật về vấn đề này không phù hợp,
không phản ánh đầy đủ các hướng vận động của đời sống xã hội mà quy định quá
cao hoặc lỗi thời thì sẽ không hạn chế được các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, làm môi trường xuống cấp, từ đó kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Như vậy khi xây dựng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, các quy định này phải căn cứ vào thực tế, phù hợp với ý trí và nguyện vọng
của nhân dân để khi đưa vào thực hiện trong thực tế nó phát huy được va trò và góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
13
Khóa luận tốt nghiệp

1.4. Cơ sở áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
1.4.1. Cơ sở pháp lý
Khó có thể liệt kê các biện pháp mà các quốc gia đã thực hiện để bảo vệ có hiệu
quả môi trường. Tuy nhiên, khi nói đến bảo vệ môi trường, chúng ta không thể
không kể đến biện pháp pháp lý. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường có
vị trí vô cùng quan trọng. Môi trường bị hủy hoại chủ yếu là do sự phá hoại của con
người, chính con người trong quá trình khai thác các yếu tố của môi trường đã làm
mất sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm. Vì vậy, muốn bảo vệ môi trường trước hết
phải tác động đến con người.
Việc đưa các tiêu chuẩn để định hướng hành vi khai thác và sử dụng môi trường
có ý nghĩa quan trọng; tuy nhiên không phải trong mọi tình huống các tiêu chuẩn
này đều được các chủ thể tuân thủ và chấp hành. Sự vi phạm xảy ra thường xuyên
hơn đối với các yếu tố môi trường mà ở đó hiện diện mâu thuẫn giữa nhu cầu bức
bách của cuộc sống và yêu cầu bảo vệ môi trường. Đây là lí do ra đời quy định
pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Để
thực hiện được vai trò của mình, pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường phải đáp ứng những điều kiện nhất định về nội dung:
Thứ nhất, phải xác định rõ các biện pháp xử phạt.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là thái độ của
Nhà nước đối với đối tượng vi phạm; và việc áp dụng các biện pháp này không
phải do một chủ thể áp dụng, để tránh hiện tượng mỗi chủ thể lại đưa ra các biện
pháp khác nhau, làm ảnh hưởng đến tính công bằng của pháp luật thì việc xác định
rõ các biện xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là vô cùng quan
trọng.Ngoài ra, việc quy định rõ các biện pháp xử phạt còn giúp người dân nhận
thức được hậu quả pháp lý khi thực hiện các hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường - tính giáo dục.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
14
Khóa luận tốt nghiệp

Không những phải xác định mà pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường phải xác định một lượng các biện pháp xử phạt nhất
định. VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường rất đa dạng, ảnh hưởng của mỗi loại
vi phạm đối với môi trường là khác nhau vì vậy để việc xử phạt có hiệu quả thì các
biện pháp xử phạt ở những mức độ tác động khác nhau mới có thể có tác dụng răn
đe, giáo dục đối với tất cả các vi phạm đó.
Thứ hai, phải xác định rõ thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt.
“Nhà nước” là một khái niệm Pháp lý trừu tượng, tất cả những hoạt động của
Nhà nước đều do những con người cụ thể thực hiện, hoạt động áp dụng các biện
pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng vậy. Tuy nhiên, việc
quy định cơ quan nào có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng có nhiều quan điểm.
Có quốc gia, quy định quyền này cho cơ quan hành chính với lý do các cơ quan
này có số lượng lớn; lĩnh vực, địa bàn hoạt động rộng sẽ rễ ràng phát hiện và xử lý.
Trong khi đó, một số nước lại giao quyền này cho tòa án, tiến hành theo trình tự
thủ tục tố tụng. Những quốc gia này cho rằng, nếu quy định như vậy sẽ bảo vệ
quyền lợi cho người dân, vì theo thủ tục tố tụng người dân có điều kiện để bảo vệ
quyền lợi của mình (Dược trình bày ý kiến, thuê luật sư,..). Tuy nhiên, quy định
như vậy sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, tốn kém tiền của của Nhà nước và
nhân dân, hơn nữa hệ thống tòa án hiện nay chưa đảm đương được nhiệm vụ này.
Theo tôi, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường rất phổ biến, xuất hiện trên
hầu hết các lĩnh vực, các địa phương vì vậy nên giao quyền áp dụng các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho cơ quan hành
chính Nhà nước. Nếu quy định như vậy không những việc xử lý nhanh chóng mà
người dân vẫn có thể bảo vệ được quyền lợi của mình bằng quyền khiếu nại, tố cáo,
nếu các cơ quan áp dụng không đúng xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
họ.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
15
Khóa luận tốt nghiệp

Tuy nhiên phương án này cũng có khuyết điểm là việc xử phạt quá rễ ràng,
nhiều trường hợp khó khắc phục hậu quả do sai sót ; trờ giải quyết khiếu nại, tố cáo
thì rất lâu. Điều 51 dự án Luật xử lý VPHC có đưa ra các phương án để hạn chế
khuyết điểm này như sau: Phương án một; trước khi ban hành quyết định áp dụng
hình thức xử phạt tạm đình chỉ sản xuất và hoạt động kinh doanh, tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, phạt tiền từ 10 triệu đồng trở lên thì người
có thẩm quyền xử phạt phải thông báo cho đối tượng vi phạm về quyền của họ
được trình bày. Việc giải trình có thể bằng văn bản hoặc tại cơ quan của người có
thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính…Phương án hai; quy định xử lý theo hướng “bán tư pháp” đối với các vụ
việc có tính chất nghiêm trọng. Cụ thể, đối với một số hình thức xử phạt liên quan
đến hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức, phạt tiền số lượng lớn (từ 50 triệu đồng trở
lên) thì cơ quan có thẩm quyền thông báo các bên liên quan có mặt để xem xét
công khai trước khi ra quyết định xử phạt. Tại phiên xem xét công khai, người tiến
hành xác minh và các bên tiến hành tranh luận về các tình tiết liên quan đến vụ vi
phạm…[41] Theo tôi nên áp dụng phương án thứ 2 là hợp lý, vì theo phương án thứ
nhất việc trao đổi chỉ là một chiều khó có thể thể hạn chế được khuyết điểm trên.
Thứ ba, phải xác định những hành vi bị coi là VPHC về môi trường.
Pháp luật là một trong các công cụ để nhà nước điều chỉnh hành vi của tổ chức,
cá nhân trong xã hội vì vậy việc xác định cho các chủ thể này biết đâu là hành vi
được phép và đâu là hành vi không được phép là yêu cầu đạt ra đối với các quy
phạm pháp luật. Pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường nhằm hạn chế VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nên việc quy
định hành vi nào là hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là điều cần
thiết.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
16
Khóa luận tốt nghiệp
Hơn nữa “không có luật không có tội; không có luật định không có hình phạt” là
một trong những tư tưởng chỉ đạo quan trọng bậc nhất khi xây dựng Nhà nước

pháp quyền, đồng thời cũng là một bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền
con người đối với mỗi công dân trong xã hội; việc quy định các biện pháp xử phạt,
thẩm quyền xử phạt, hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sẽ là cơ sở
cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt.
1.4.2. Cơ sở thực tiễn
VPHC là một loại vi phạm khá phổ biến trong đời sống xã hội, được khoa học
luật hành chính nghiên cứu như một đối tượng, một nội dung cơ bản. Có rất nhiều
khái niệm về VPHC được đưa ra, tuy có khác biệt về cách diễn đạt nhưng các định
nghĩa này đều thống nhất với nhau về những dấu hiệu bản chất của loại VPHC.
Trên cơ sở đó có thể đưa ra định nghĩa về VPHC như sau: “VPHC là hành vi do cá
nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử
phạt vi phạm hành chính” [3, tr 301]
Lĩnh vực môi trường luôn là lĩnh vực được xã hội quan tâm. Để bảo vệ hiệu quả
môi trường, các chủ thể thiết lập với nhau nhiều mối quan hệ nhằm thực hiện mục
tiêu này. Đây là những quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể khác mà hoạt động
của họ liên quan đến quá trình tác động vào môi trường như: khai thác khoáng sản,
sinh vật biển; thải các chất thải rắn, các chất thải độc hại ra môi trường xung
quanh….
Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong từng quan hệ cụ thể,
không ít các trường hợp các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính về môi
trường đã thực hiện diều pháp luật môi trường ngăn cấm. Những vi phạm đó đã và
đang xảy ra phổ biến, phức tạp và trong nhiều trường hợp không thể dễ dàng nhận
biết được. Đó có thể là việc xả thải bừa bãi, xả nước thải không đúng nơi quy định
của hộ gia đình; hay việc sử dụng hóa chất để đánh bắt thủy sản của ngư dân;
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
17
Khóa luận tốt nghiệp
nghiêm trọng hơn nữa là hành vi xử thải, khí bụi của các nhà máy, các khu công
nghiệp ra môi trường…Tất cả các hành vi đó đều gây ra các hậu quả xấu, ảnh

hưởng đến lợi ích của các thành viên và lợi ích chung của toàn xã hội. Nhưng phải
chăng tất cả các hành vi đó đều là những hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường?
Ở mức độ khái quát, hành vi vi phạm môi trường bao gồm những hành vi vi
phạm pháp luật về nguồn nước, không khí, đất đai, làm suy thoái rừng hay những
hành vi làm ảnh hưởng tới nguồn thủy sinh, nguồn gen, việc bảo tồn di sản…
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan
hệ đặc biệt – quan hệ trách nhiệm hành chính giữa một bên là Nhà nước (thông qua
các cơ quan và cán bộ Nhà nước có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường) và một bên là cá nhân hoặc tổ chức có hành vi VPHC trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường. Trong đó bên VPHC có nghĩa vụ phải gánh chịu những hậu
qua bất lợi do bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước được ghi nhận
trong chế tài của các quy phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Là một dạng cụ thể của vi phạm pháp luật VPHC có những đặc điểm chung sau
đây:
- VPHC là hành vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội (QHXH) được
quan hệ hành chính bảo vệ nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội
phạm hình sự.
Tính trái pháp luật của VPHC thể hiện ở chỗ chủ thể VPHC đã thực hiện hành
vi mà pháp luật hành chính ngăn cấm, hoặc không thực hiện hành vi mà pháp luật
hành chính yêu cầu, hoặc thực hiện những hành vi vượt quá giới hạn pháp luật
hành chính cho phép.
Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào cũng xâm hại các quan hệ pháp luật
và VPHC là loại vi phạm xâm hại hoặc nguy cơ xâm hại đến các QHXH hình thành
trong lĩnh vực quản lý nhà nước được quan hệ pháp luật (QHPL) hành chính bảo
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
18
Khóa luận tốt nghiệp
vệ. Tính xâm hại đó thể hiện ở việc chúng đã phá vỡ trật tự quản lý hành chính Nhà
nước đã được Nhà nước thiết lập trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại

hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể hay cá nhân. Tuy nhiên
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi VPHC là thấp hơn so với tội phạm hình
sự
- VPHC là hành vi có lỗi.
Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc để xác định hành vi vi phạm pháp luật. Sẽ
không có đủ cơ sỏ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với đối tượng vi phạm pháp
luật khi đối tượng thực hiện hành vi không có lỗi. Hành vi xâm hại QHPL do cá
nhân, tổ chức thực hiện phải có lỗi, hành vi đó phải là kết quả của sự lựa chọn, tự
quyết định của đối tượng trong khi có đầy đủ điều kiện để quyết định cách xử sự
theo đúng quy định của pháp luật nhưng thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ
nghĩa vụ đó.
- VPHC là hành vi theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Đây là đặc điểm mang tính chất quy kết đối với VPHC. Như vậy, hành vi trái
pháp luật phải là hành vi được quy định bị xử phạt hành chính và ngược lại. Điều
này đòi hỏi các nhà lập quy bên cạnh việc dự liệu các hành vi trái pháp luật , phải
dự liệu cả hình thức xử phạt hành chính. Sẽ là vô lí nếu một hành vi trái pháp luật
hành chính mà không có hình thức xử phạt nào. Cũng là bất hợp lý nếu tồn tại một
hành vi bị xử phạt mà không trái pháp luật và không có lỗi. Do vậy khi xem xét đặc
điểm này cũng nên dặt chúng trong mối quan hệ biện chứng để có cách nhìn tổng
thể, khách quan nhất.
Là một dạng của vi phạm pháp luật hành chính nên ngoài những đặc điểm
chung của VPHC thì VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn có các đặc điểm
riêng mà đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt với các dạng VPHC khác.
Trước hết, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường xâm hại các quan hệ trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường được pháp luật hành chính bảo vệ.
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
19
Khóa luận tốt nghiệp
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là loại vi phạm xâm hại hoặc có nguy
cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội trong quản lý Nhà nước về môi trường. Các

quan hệ loại này rất đa dạng , phức tạp và diễn ra trong mọi khía cạnh của lĩnh vực
môi trường. Tuy vậy, chúng vẫn được sắp xếp, phân loại thành từng nhóm nhất
định; mỗi nhóm gồm những quan hệ xã hội có hoặc gần tính chất với nhau, tương
ứng với chúng là các nhóm quy phạm pháp luật hành chính thích hợp điều chỉnh,
tạo nên trật tự quản lý Nhà nước về môi trường.
Nói đến tính xâm hại quy tắc quản lý Nhà nước của hành vi VPHC về môi
trường tức là nói đến khả năng vi phạm trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Sự xâm
hại này xảy ra thường xuyên mọi lúc mọi nơi, tạo nên một trở lực lớn cho việc duy
trì, củng cố trật tự, kỷ cương Nhà nước, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của
xã hội, tạo tâm lý lo ngại, bất ổn trong nhân dân.
Thứ hai, nhìn chung các VPHC trong lĩnh vực môi trường thường tinh vi, phức
tạp, dễ bị bỏ qua.
Khác với nhiều loại VPHC thông thường khác, việc phát hiện và xử lý được
những vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gặp không ít khó khăn, phức tạp.
Muốn xử lý đúng đắn các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong nhiều
trường hợp cần đến sự phân tích, đánh giá, nhận định của các chuyên gia trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường. Hơn nữa tác hại của các loại vi phạm này gây ra cho môi
trường là không thể thấy được ngay lập tức mà hậu quả đó ảnh hưởng dần về sau
này. Do vậy, hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường dễ đẫn đến tình trạng
không xử lý hoặc xử lý không đến nơi thận trí bỏ qua vi phạm.
Thứ ba, chủ thể thường xuyên của VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là
các tổ chức.
Một trong những đặc điểm chung của VPHC là các chủ thể của VPHC là các cá
nhân và tổ chức. Tuy nhiên có lĩnh vực chủ thể vi phạm chủ yếu là cá nhân, ví dụ
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
20
Khóa luận tốt nghiệp
như những hành vi VPHC trong lĩnh vực giao thông đường (vượt đèn đỏ, chạy quá
tốc độ, lái xe khi say rượu…); nhưng có những lĩnh vực chủ thể vi phạm có sự

tham gia thường xuyên của tổ chức như lĩnh vực bảo vệ môi trường (thải các chất
thải độc hại ra môi trường của các doanh nghiệp, không đăng ký báo cáo đánh giá
tác động môi trường…)
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
21
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ PHẠT VPHC
TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
Môi trường và bảo vệ môi trường đang là vấn đề nóng thu hút sự quan tâm của
mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng đe dọa
sự sống còn của nhân loại; nổi bật hiện nay là hiện tượng nước biển dâng cao do
băng tan, rất nhiều quốc gia đứng trước nguy cơ bị biển nhấn chìm một phần diện
tích trong đó có Việt Nam. Trước những nguy cơ đó vấn đề xử lý đúng mức vi
phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta càng trở nên quan trọng và cấp
thiết.
Luật bảo vệ môi trường đã được thông qua ngày 27/12/1993 tại kỳ họp thứ IV
Quốc hội khóa IX và đã được thay thế bởi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Luật
bảo vệ môi trường đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hoạt động bảo vệ môi
trường ở Việt Nam. Để đưa luật vào đời sống hàng loạt các văn bản hướng dẫn đã
được ban hành như: NĐ 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về chi phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải; QĐ 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch giải quyết triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; Pháp lệnh 2002 sửa đổi,bổ sung năm 2008 về xử lý VPHC
trong các lĩnh vực; NĐ 81/2006/NĐ-CP về xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
Gần đây nhất, ngày 31/12/2009; căn cứ vào kết quả nghiên cứu điều kiện kinh
tế, xã hội và quy định tại một số văn bản pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành gần đây (Luật bảo vệ môi trường 2005, Pháp lệnh xử lý VPHC
sửa đổi, bổ sung 2008…); Chính phủ ban hành Nghị định 177 thay thế Nghị định

81 – văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh việc xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. Văn bản này đã quy định khá cụ thể các biện pháp xử phạt VPHC
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
22
Khóa luận tốt nghiệp
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tạo cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử phạt.
( Ngoài ra còn một số văn bản trong các lĩnh vực cụ thể như: Nghị định về xử
phạt VPHC trong lĩnh vực Đất đai 105/2009; Nghị định về xử phạt VPHC trong
lĩnh vực Du lịch số 149/2007; Nghị định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực Khoáng
sản số 150/2004 đã được sủa đổi bổ sung bởi Nghị định 77/2007; Nghị định về xử
phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản số 159/2007;… )
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
2.1.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế của nhà nước do cơ quan Nhà nước,
người có thẩm quyền tiến hành áp dụng các biện pháp xử phạt đối với cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi VPHC cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm gây ra cho tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Pháp lệnh 2002 sửa
đổi, bổ sung năm 2008 và Nghị định 177 đã quy định về các biện pháp xử phạt
VPHC gồm các biện pháp xử phạt chính và các biện pháp xử phạt bổ sung.
a. Các biện pháp xử phạt chính.
Tại Điều 3 Khoản 1 Nghị định 177 và Điều 12 Khoản 1 Pháp lệnh 2002 sửa
đổi, bổ sung 2008 thì đối với mỗi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các cá
nhân, tổ chức đều phải chịu một trong các biện pháp xử phạt chính sau đây:
 Phạt cảnh cáo.
Cảnh cáo trong xử phạt VPHC là biện pháp xử phạt chính, được áp dụng đối với
tổ chức, cá nhân vi phạm nhỏ, do sơ suất; vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và
chưa gây tác hại vật chất; do không hiểu biết hoặc do tác động của nguyên nhân

khách quan hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện - Đây là quy định rất chung chung của Pháp lệnh về
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
23
Khóa luận tốt nghiệp
cơ sở áp dụng biện pháp cảnh cáo. Nghị định 177 không có giải thích gì thêm, gây
khó khăn không nhỏ cho việc áp dụng biện pháp này. Vi phạm lần đầu thì có thể
hiểu được nhưng thế nào là vi phạm nhỏ, có tình tiết giảm nhẹ trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường thì cần có hướng dẫn cụ thể.
Do trên thực tiễn việc áp dụng biện pháp này so với phạt tiền là rất ít cũng như
do nhận thức coi nhẹ biện pháp này , cho rằng nó không đạt mục đích của chế tài
nên có ý kiến đang muốn đưa ra khỏi hệ thống các biện pháp xử phạt VPHC trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu lại có quan điểm biện
pháp cảnh cáo áp dụng trong xử phạt hành chính về môi trường là hợp lý. Mục đích
của xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không phải nhằm mục
tiêu chính là trừng trị đối với người vi phạm mà cái chính là nhắc nhở, giáo dục
việc tôn trọng và chấp hành trật tự quản lý Nhà nước về môi trường. Cảnh cáo là
biện pháp xử phạt thích hợp đối với các vi phạm nhỏ, lần đầu và với trẻ vị thành
niên. Việc áp dụng biện pháp này sẽ làm cho người vi phạm thấy được sự nghiêm
minh cũng như độ lượng của pháp luật mà trở nên cẩn trọng, tự giác chấp hành
pháp luật về bảo vệ môi trường hơn. Nhiều khi phạt cảnh cáo có hiệu quả hơn phạt
tiền tràn lan.[13]
Biện pháp phạt cảnh cáo do cơ quan Nhà nước, nhân viên cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định bằng văn bản tức là bằng quyết định xử phạt hành chính
dưới hình thức viết. Như vậy, những hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường mà bị
cơ quan, nhân viên Nhà nước có thẩm quyền xử phạt nhắc nhở bằng lời nói thì
không coi là phạt cảnh cáo.
Biện pháp phạt cảnh cáo là một biện pháp xử phạt nhẹ và chỉ có tính chất giáo
dục thuyết phục người vi phạm không thực hiện những hành vi vi phạm chứ chưa
có tính răn đe, chế tài cao nên tâm lý người vi phạm thường coi thường, bỏ qua

những quy định pháp luật để thực hiện hành vi sai phạm của mình. Bởi vậy, biện
pháp này chỉ áp dụng đối với vi phạm mà tính chất, mức độ gây hại của hành vi đó
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
24
Khóa luận tốt nghiệp
là chưa cao hoặc chưa nghiêm trọng, gây ảnh hưởng chưa lớn cho môi trường và
đặc biệt là có thể khắc phục được. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, biện pháp
cảnh cáo có thể được áp dụng đối với một số vi phạm như:
- Hành vi xả nước thải vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dưới 2
lần trong trường hợp thải lượng nước thải nhỏ hơn 10m
3
/ngày (24 giờ) (Điều 10
Nghị định 177);
- Hành vi quấn, ướp, di chuyển, chôn cất thi thể, hài cốt không bảo đảm yêu
cầu về vệ sinh môi trường theo quy định. (Điều 25);
- Hành vi gây ảnh hưởng xấu đến môi trường tại khu du lịch, điểm du lịch sinh
thái trong khu bảo tồn thiên nhiên. (Điều 26);
….
 Phạt tiền.
Trong các biện pháp xử phạt hành chính thì phạt tiền là một biện pháp đã, đang
và sẽ mang lại hiệu quả to lớn đối với việc đấu tranh phòng chống VPHC trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường. Biện pháp này được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực về
môi trường. Mặc dù vậy, điều kiện và đối tượng áp dụng biện pháp này lại chưa
được quy định rõ ràng và hợp lý. Theo quy định của Pháp lệnh thì ngoài các trường
hợp phạt cảnh cáo là các trường hợp phạt tiền; trong khi đó như phân tích ở trên thì
các trường hợp áp dụng biện pháp cảnh cáo cũng chưa thật sự rõ ràng – Như vậy có
thể xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chính xác và thống nhất được
không?
Phạt tiền được quy định tại Điều 14 Pháp lệnh 2008 và Nghị định 177; theo đó
thì phạt tiền là biện pháp tác động mang tính tài sản thể hiện ở chỗ nó tước bỏ ở

người vi phạm một khoản tiền thuộc sở hữu của họ, tức là thể hiện một sự hạn chế
về mặt pháp luật đối với người đó. Sự hạn chế này chứng tỏ phạt tiền là biện pháp
Nguyễn Thị Ngọc Hà –HC31C
25

×