Tải bản đầy đủ (.pdf) (253 trang)

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI VÀ BỔ SUNG MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THỐNG KÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 253 trang )

Mẫu số 04/VTKE
THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

I.THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tên đề tài:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất sửa đổi và bổ sung một số
nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.
2. Mã số: 2.2.3-CS11
3. Thời gian thực hiện: 12 tháng (tháng 01/2011 đến tháng 12/2011).
4. Cấp quản lý: 1. Nhà nước; 2. Bộ; 3. Cơ sở
5. Chủ nhiệm đề tài
Họ và tên: Lê Văn Phát
Địa chỉ cơ quan: 6B Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại cơ quan: 04.37343683
Email:
6. Đơn vị quản lý đề tài: Viện Khoa học Thống kê
Địa chỉ: 54 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 04.38344236; FAX: 04.37751356;
Website: http//iss.gso.gov.vn
7. Đơn vị thực hiện: Thanh tra Tổng cục Thống kê
Địa chỉ cơ quan: 6B Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại cơ quan: 04.37343682
8. Đơn vị phối hợp thực hiện: Vụ Pháp chế, Tuyên truyền, Thi đua-Khen
Thưởng, Viện Khoa học Thống kê.
9. Danh sách những người thực hiện
9.1. Ban chủ nhiệm đề tài:
Cử nhân Lê Văn Phát, Thanh tra Tổng cục Thống kê, Chủ nhiệm;
Cử nhân Vũ Thị Phương Thuý, Thanh tra Tổng cục Thống kê, Thư ký
khoa học;
Cử nhân Vũ Quốc Dũng, Thanh tra Tổng cục Thống kê, Thư ký hành
chính.


9.2. Cộng tác viên nghiên cứu
- CN Nguyễn Hữu Thoả; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống

- CN Hy Việt Hưng; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống kê
- CN Nguyễn Chiếm Thép; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống

- CN Ngô Thị Xuân Hương; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục
Thống kê

2
- CN Đỗ Thị Hồng; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống kê
- CN Nguyễn Ngọc Hữu; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống

- CN Vũ Quang Huy; Đơn vị công tác: Thanh tra Tổng cục Thống kê
II. NỘI DUNG KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
10. Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
10.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu ngoài nước: Chưa tiếp cận
Tình hình nghiên cứu trong nước: Chưa
10.2. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực thống kê đã được triển khai và đi vào đời sống
xã hội, trong hơn 5 năm qua, tình hình kinh tế-xã hội của đất nước đã có nhiều
chuyển biến theo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hoạt
động thống kê có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
người dùng tin, tuy nhiên, hoạt động thống kê tuân theo các quy định của pháp
luật về thống kê trong thực tế đã có nhiều biến đổi cần nghiên cứu để sửa đổi
và bổ sung cho phù hợp. Thực hiện Quyết định số 312/QĐ-TTg ngày
02/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới đồng bộ
các hệ thống chỉ tiêu thống kê, việc nghiên cứu đề tài phục vụ sửa đổi và hoàn

thiện nội dung xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê là một nội
dung cần được triển khai để đáp ứng các yêu cầu đối với công tác thống kê
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
10.3. Mục tiêu của đề tài
Cung cấp luận cứ khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất sửa
đổi và bổ sung một số nội dung của Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày
04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thống kê.
11. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và căn cứ pháp luật nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực thống kê.
- Cơ sở thực tiễn:
+ Đánh giá tình hình triển khai và thực hiện Nghị định số 14/2005/NĐ-
CP ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
thống kê 5 năm (Từ năm 2005 đến năm 2009).
+ Đánh giá những tồn tại, hạn chế của Nghị định số 14/2005/NĐ-CP
ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thống kê
và nguyên nhân.
- Đề xuất sửa đổi một số nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thống kê.


3
12. Nhu cầu kinh tế - xã hội
Kết quả nghiên cứu sẽ được áp dụng để sửa đổi, bổ sung Nghị định số
14/2005/NĐ-CP ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong
lĩnh vực thống kê
13. Hợp tác quốc tế: Không
14. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các hành vi vi phạm hành chính, các
chế tài trong xử phạt hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.
Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu: Thực tiễn hoạt động thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành chế độ báo cáo thống kê và thực hiện phương án điều tra
thống kê của các đối tượng theo quy định của Luật Thống kê; Tổng quan tài
liệu và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan,
Các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, báo cáo phân tích
15. Dạng kết quả dự kiến của đề tài
- Sơ đồ (mô hình) - Đề án
- Bảng số liệu - Luận chứng kinh tế kỹ thuật
- Báo cáo phân tích - Chương trình máy tính
- Tài liệu dự báo - Khác

16. Yêu cầu khoa học đối với sản phẩm dự kiến tạo ra
TT
Tên sản phẩm
Yêu cầu khoa học dự kiến đạt
được
Ghi chú
1
Các chuyên đề và
nội dung nghiên
cứu.
Cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn
để đề xuất sửa đổi, bổ sung một số
nội dung xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thống kê.
In ra giấy
2
Báo cáo tóm tắt kết

quả nghiên cứu
Hoàn chỉnh
In ra giấy
3
Báo cáo tổng hợp
kết quả nghiên cứu
Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội
dung xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thống kê.
In ra giấy

17. Kinh phí
TT
Nguồn kinh phí
Kinh phí dự kiến của
đơn vị thực hiện đề tài
(Triệu đồng)
Kinh phí được
duyệt

Tổng số
50

1
Ngân sách sự nghiệp
KH&CN
50

2
Nguồn khác

-

X




















4
(Chi tiết dự toán kinh phí, xem ở Mẫu số 4.1/VTKE và Mẫu số 4.2/VTKE)
Hà Nội, ngày 07 tháng 01 năm 2011
Đại diện đơn vị quản lý
(Họ tên, chữ ký và đóng dấu)
Chủ nhiệm đề tài
(Họ tên, chữ ký)





Lê Văn Phát


Đại diện đơn vị thực hiện
(Họ tên, chữ ký)





Nguyễn Hữu Thoả


1
TỔNG CỤC THỐNG KÊ






BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT Ở MỘT SỐ
TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƢƠNG




Đề tài:

“NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ XUẤT SỬA
ĐỔI VÀ BỔ SUNG MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THỐNG KÊ"







Đơn vị chủ trì: Thanh tra- Tổng cục Thống kê

Chủ nhiệm: CN. Lê Văn Phát
Phó Chánh Thanh tra- TCTK

Thư ký khoa học: CN. Vũ Thị Phƣơng Thuý
Thư ký hành chính: CN. Vũ Quốc Dũng












HÀ NỘI, NĂM 2011


2
MỞ ĐẦU
Từ khi Luật Thống kê có hiệu lực, môi trường pháp lý trong quản lý
nhà nước về công tác thống kê đã được hoàn thiện đồng bộ và kịp thời hơn,
thể hiện bằng việc Chính phủ ban hành 2 văn bản phạm pháp luật quan
trọng đó là:
Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13/02/2004 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê.
Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2005 của Chính
phủ về xử phạt vi pham hành chính trong lĩnh vực thống kê.
Thực hiện đề án “Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống
kê” trong đó có nội dung “Hoàn thiện môi trường pháp lý cho công tác
thống kê” - cụ thể là việc đánh giá tình hình và kết quả triển khai thực hiện
Luật Thống kê, các Nghị định và văn bản pháp lý khác có liên quan đến hoạt
động thống kê, đề xuất và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung những nội dung cần thiết để đáp ứng các yêu cầu đối với công tác
thống kê trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong quá trình thực hiện Nghị định 14/2005/NĐ-CP của Chính phủ,
đến nay đã có những thay đổi về cơ chế, chính sách, pháp luật, quản lý kinh
tế - xã hội; Về chế tài xử phạt của Nghị định 14/2005/NĐ-CP khi Nghị định
được ban hành dựa vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đến
nay không còn phù hợp. Nhiều nội dung, chỉ tiêu của báo cáo và điều tra
Thống kê đến nay không thích hợp.
Với tầm quan trọng như vậy và xuất phát từ những yêu cầu về lý luận
và thực tiễn nêu trên, tác giả tiến hành nghiên cứu thực tiễn tình hình triển
khai công tác tổng kết Nghị định 14/2005/NĐ-CP, ngày 04 tháng 02 năm

2005 ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương làm cơ sở cho việc tổng
kết thực tiễn và đề suất hướng sửa đổi bổ sung sát với tình hình ở cơ sở.




3
PHẦN I
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHỊ ĐỊNH 14/2005/NĐ-CP
CỦA CHÍNH PHỦ
1.1. Mô hình tổ chức của ngành thống kê trong giai đoạn hiện nay
Thực hiện chương trình cải cách hành chính, Chính phủ ban hành
Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 04/01/2007 chuyển Tổng Cục Thống kê vào
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và tiếp đó là Nghị định 93/2007/NĐ-CP ngày
04/6/2007 của Chính phủ và Quyết định số 54/2010/QĐ-TTg ngày
24/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng Cục Thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu
tư. Tuy vị trí pháp lý của Tổng Cục Thống kê đã thay đổi từ cơ quan trực
thuộc Chính phủ sang cơ quan trực thuộc Bộ Kê hoạch và Đầu tư, song tổ
chức của Tổng Cục Thống kê vẫn duy trì theo mô hình dọc 3 cấp. Cấp trung
ương Tổng Cục Thống kê, Cấp tỉnh, thành phố trực thuốc trung ương là Cục
Thống kê, cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Chi Cục Thống kê. Điều
này quyết định đến việc triển khai có hiệu quả Luật Thống kê và một số
Nghị định của chính phủ liên quan đề chế tài trong việc thực thi luật và các
văn bản quy phạm pháp luật khác trong đó có Nghị định 14/2005/NĐ-CP.
1.2. Tình hình triển khai Nghị định 14/2005/NĐ-CP của Chính phủ
Ngay sau khi Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 4/2/2005 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thống kê có hiệu lực pháp luật, Tổng cục
Thống kê đã ban hành công văn số 145/TCTK-TTRA ngày 09 tháng 03 năm
2005 về việc tuyên truyền và phổ biến Nghị định số 14/2005/NĐ-CP để

nhanh chóng đưa Nghị định đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện Luật
Thống kê một cách nghiêm túc.
Khi có chủ trương của Tổng cục, Cục Thống kê các tỉnh, thành phố đã
trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; tập trung phối hợp với Hội đồng phổ biến,
tuyên truyền pháp luật của địa phương, các sở ngành liên quan xây dựng kế
hoạch tuyên truyền phổ biến, quán triệt Nghị định. Hàng năm, tổ chức hội
nghị phổ biến, quán triệt Luật Thống kê và Nghị định 14/2005/NĐ-CP với
lãnh đạo các Sở, ban ngành; lãnh đạo UBND các huyện, thành phố thuộc
tỉnh; UBND các xã, phường, thị trấn; lãnh đạo các doanh nghiệp trung ương
và địa phương trên địa bàn; tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tuyên truyền
phổ biến Luật Thống kê và Nghị định 14/2005/NĐ-CP.
1.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến nghị định 14/2005/NĐ- CP
Tranh thủ sự chỉ đạo của UBND tỉnh đối với UBND các cấp; các Sở,
ban ngành, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân
dân trong phạm vi quản lý có trách nhiệm tổ chức xây dựng, củng cố công
tác thống kê, đồng thời xây dựng kế hoạch phổ biến và triển khai thực hiện
Luật Thống kê, Nghị định 14/2005/NĐ-CP tại địa phương, của ngành và

4
giám đốc các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
sự nghiệp, hiệp hội và các tổ chức khác có trách nhiệm tổ chức công tác
thống kê phục vụ yêu cầu quản lý tại đơn vị, thực hiện các cuộc điều tra
thống kê và chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước; gửi báo cáo tài chính,
thống kê định kỳ cho Cục Thống kê tỉnh theo Luật Thống kê và các văn bản
theo quy định của Nhà nước.
Các Cục Thống kê tỉnh chủ trì, xây dựng kế hoạch triển khai, tổ chức
các hội nghị phổ biến Luật Thống kê và Nghị định 14/2005/NĐ-CP cho các
đối tượng.
Trong những năm qua, các Cục Thống kê cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc TW đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thống kê cho cán bộ

thống kê cấp tỉnh, huyện, xã/phường/thị trấn…trên địa bàn tỉnh lồng ghép
việc triển khai Luật Thống kê, Nghị định 14/2005/NĐ-CP và các văn bản
khác.
Nghị định 14/2005/NĐ-CP còn được phổ biến qua các phương tiện
thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo địa phương (gồm cả
báo giấy và Internet), biểu ngữ tuyên truyền….
Với sự chỉ đạo từ phía lãnh đạo địa phương, sự chủ động, tích cực của
Ngành trong phối hợp với các tổ chức, Sở, ban ngành, đoàn thể đã giúp công
tác tuyên truyền, phổ biến, triển khai và công tác kiểm tra chấp hành Nghị
định 14/2005/NĐ-CP.
Ngành đã triển khai công tác tuyên truyền và phổ biến Luật Thống kê
và các văn bản hướng dẫn thi hành, đã phối hợp với Báo viết, Đài phát thanh
truyền hình Tỉnh, Trang Web của tỉnh đăng tải nội dung và giới thiệu Luật
Thống kê, Nghị định 14/2005/NĐ-CP trên báo đài, chủ yếu tập trung trong 2
năm 2004-2005.
Tại các huyện, thành phố đã phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật các
huyện, thành phố đã mở lớp phổ biến Luật cho các đối tượng là trưởng, phó
các phòng ban, đoàn thể cấp huyện; Chủ tịch UBND-HĐND, trưởng các
đoàn thể cấp xã, cán bộ Văn phòng phụ trách Thống kê cấp xã, tổ trưởng dân
phố, cụm dân cư, các làng bản; Chủ doanh nghiệp, cán bộ kế toán, thống kê
của doanh nghiệp.
Hoạt động phổ biến Nghị định còn được tiến hành bằng hình thức gửi
văn bản đến các đối tượng là doanh nghiệp mới thành lập trên địa bàn.

5
Phần II
KẾT QUẢ TRIÊN KHAI NGHỊ ĐỊNH 14/2005/NĐ-CP
2.1 Kết quả triển khai Nghị đinh 14/2005/NĐ-CP
Những năm vừa qua, công tác thanh tra thống kê đã và đang được thực
hiện, ngày một đi vào nề nếp và phát huy tác dụng tích cực, góp phần quan

trọng, thiết thực bảo đảm các chế độ báo cáo thống kê của nhà nước được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, chất lượng báo cáo thống kê ngày một tiến bộ,
đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê ngày càng cao của các đối tượng sử
dụng thống tin thống kê nói chung và công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước
nói riêng.
Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2005 của Chính
phủ về xử phạt vi pham hành chính trong lĩnh vực thống kê đã phát huy tác
dụng trong việc ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực
thống kê như: vi phạm về sử dụng mẫu biểu thống kê; ban hành, sửa đổi, bổ
sung chế độ báo cáo thống kê; báo cáo sai và khai man số liệu thống kê; nộp
báo cáo thống kê không kịp thời, đầy đủ Thực hiện Nghị định
14/2005/NĐ-CP đã giúp cho nhiều tổ chức, cá nhân nhận thức được trách
nhiệm cung cấp thông tin thống kê để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế-xã hội
của đất nước góp phần nâng cao vị trí, vai trò của ngành Thống kê.
Tổng hợp số liệu báo cáo về kết quả triển khai Nghị định 14/2005/NĐ-
CP của Cục Thống kê các tỉnh, thành phố, trong giai đoạn 2005-2009,
Ngành Thống kê đã thực hiện 1.340 cuộc thanh tra, kiểm tra chấp hành Luật
Thống kê; trong đó, có 792 cuộc có vi phạm hành chính. Tổng số đơn vị
phạt cảnh cáo 477 đơn vị, cá nhân. Tổng số tiền phạt là 188,45 triệu đồng.
Các hành vi vi phạm Nghị định 14/NĐ-CP bị xử phạt phổ biến là: Nộp chậm
và không nộp báo cáo thống kê (chiếm 80% số đơn vị bị xử phạt); tính và áp
dụng sai phương pháp thống kê(chiếm 15% số đơn vị xử phạt), số còn lại là
vi phạm về việc sử dụng biểu mẫu thống kê, cung cấp không kịp thời thông
tin thống kê, báo cáo sai sự thật
2.2. Việc chấp hành các quy định của Luật Thống kê và các văn bản
liên quan
2.2.1. Việc thực hiện các quy định về điều tra thống kê
Thống kê địa phương đã chủ động tham mưu với UBND tỉnh, thành
phố trong việc triển khai các cuộc Tổng điều tra thống kê cũng như các cuộc
điều tra trong và ngoài chương trình điều tra thống kê. Hầu hết các cuộc điều

tra thống kê diễn ra tại địa phương đều tuân thủ đúng phương án điều tra.
Công tác triển khai, tập huấn nghiệp vụ điều tra được thực hiện tại tất cả các
Cục Thống kê; khâu điều tra trực tiếp tại địa bàn đều được các điều tra viên
thực hiện khá nghiêm túc; công tác chỉ đạo, giám sát, nghiệm thu tài liệu
được coi trọng đúng mức; phương pháp tính, tổng hợp, suy rộng theo
phương án quy định; số lượng biểu mẫu tổng hợp đầy đủ và đảm bảo thời
gian.

6
Tuy nhiên vẫn có một số hạn chế, tồn tại như: tập huấn điều tra không
đạt yêu cầu, điều tra viên không tuân thủ quy trình điều tra, khâu giám sát,
kiểm tra việc thực hiện phương án điều tra chưa chặt chẽ và chưa được chú
trọng, đối tượng điều tra không hợp tác, trì hoãn trong việc cung cấp thông
tin hoặc cung cấp thông tin chưa sát với thực tế,
Triển khai xây dựng chương trình điều tra thống kê quốc gia dài hạn
và hàng năm, các Bộ, ngành đã tích cực tham gia nghiên cứu, chủ động đề
xuất các cuộc điều tra cho Bộ, ngành. Chương trình điều tra thống kê quốc
gia là căn cứ để các Bộ, ngành chủ động xây dựng kế hoạch các cuộc điều
tra, xây dựng phương án điều tra, kế hoạch thực hiện, dự toán kinh phí và
quyết định các cuộc điều tra thống kê, tạo sự ổn định cho hoạt động thống
kê; Nhờ có chương trình điều tra thống kê quốc gia đã hạn chế phần nào hiện
tượng trùng chéo các cuộc điều tra giữa các Bộ, ngành, giữa Trung ương và
địa phương, tiết kiệm kinh phí cho Nhà nước, giúp việc thẩm định các
phương án điều tra thống kê của Tổng Cục Thống kê có hiệu quả.
2.2.2. Việc thực hiện các quy định về chế độ báo cáo thống kê
Chế độ báo cáo cơ sở ban hành cho các ngành kinh tế đã quá lâu (từ
những năm 2002, 2003), còn nhiều bất cập, khập khiễng, chưa đồng bộ,
nhưng chậm cải tiến, không đáp ứng thực tế. Chế độ báo cáo thống kê đối
với khu vực hành chính các cấp các đơn vị sự nghiệp không đồng bộ, thiếu
thống nhất cả về nội dung báo cáo, chỉ tiêu thống kê, biểu mẫu và phương

pháp thống kê. Chế độ báo cáo thống kê các lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
kho bạc, bảo hiểm, thể dục thể thao, tư pháp, toà án, viện kiểm sát… không
được ban hành kịp thời, thiếu cơ sở pháp lý về thống kê cho những đối
tượng này.
Chế độ báo cáo thống kê đối với các cơ quan, ban, ngành ở địa
phương được thực hiện theo sự chỉ đạo của các Bộ, ngành ở Trung ương.
Định kỳ hàng tuần, tháng, quý, 6 tháng và năm các Sở, ban, ngành báo cáo
tình hình hoạt động cho UBND tỉnh, thành phố, phục vụ cho việc đánh giá
tiến độ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và một số
báo cáo đột xuất khác khi có yêu cầu. Do số liệu phục vụ cho các chế độ báo
cáo thống kê tổng hợp các Cục Thống kê thường tổng hợp từ các Phòng
Thống kê và từ các Sở, ban ngành nên đôi khi không có sự thống nhất với
các số liệu của các Sở, ban, ngành. Một trong những nguyên nhân là do kỳ
hạn báo cáo số liệu khác nhau nên số liệu báo cáo về cùng hiện tượng cũng
có sự khác nhau. Nguyên nhân thứ hai là do các Sở, ban, ngành lại thu thập
số liệu theo hệ thống riêng nên nhiều khi không thống nhất với các Phòng
Thống kê. Cán bộ công tác thống kê ở các Sở, ban, ngành còn thiếu và yếu
về chuyên môn nghiệp vụ thống kê dẫn đến chất lượng số liệu chưa thực sự
tốt. Ngoài ra, chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng dối với Cục Thống
kê được chia thành các mảng nghiệp vụ riêng, một chế độ bao gồm nhiều
bảng biểu nên khối lượng công việc thực hiện tại Cục Thống kê rất lớn,
trong khi Cục Thống kê còn phải làm thêm nhiều công việc khác như tiến

7
hành các cuộc điều tra, các loại báo cáo khác nên cũng ảnh hưởng tới chất
lượng của chế độ báo cáo thống kê. Sự chồng chéo về chỉ tiêu giữa cuộc điều
tra và chế độ báo cáo cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng của chế độ báo cáo,
gây nặng nề cho các Cục Thống kê và các đối tượng cung cấp thông tin. Một
số Cục Thống ke cũng đã diễn ra hiện tượng lấy số liệu của các cuộc điều tra
để báo cáo cho các chế độ báo cáo thống kê.

Nhìn chung, tình hình chấp hành chế độ báo cáo của các cơ quan, ban,
ngành cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra. Đa số các cơ quan, đơn vị thực hiện
khá tốt và ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện báo cáo. Tuy nhiên,
trong thực hiện chế độ báo cáo thống kê, các cơ quan, đơn vị chưa nhận thức
rõ tầm quan trọng trong việc thực hiện báo cáo nên việc báo cáo còn chưa
đầy đủ, hoặc chưa thật sự phối hợp,vẫn có tình trạng ngành thống kê phải “đi
xin số liệu”.
2.2.3. Việc thực hiện các quy định về bảng phân loại thống kê
Việc thực hiện bảng phân ngành kinh tế quốc dân, danh mục đơn vị
hành chính, danh mục nghề nghiệp, danh mục giáo dục đào tạo đã được
chấp hành nghiêm chỉnh theo quy định, các bảng phân loại có thay thế, bổ
sung được ngành thống kê cập nhật kịp thời.
Các Bộ, ngành khi xây dựng và ban hành các bảng phân loại, danh
mục thuộc Bộ, ngành phục trách đã tuân thủ theo các quy định của Luật
Thống kê, phối hợp với Tổng Cục Thống kê trong việc xây dựng và thẩm
định về chuyên môn, nghiệp vụ trước khi ban hành.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các bảng phân loại, danh mục
vẫn còn nhiều sai sót, chưa kịp thời dẫn đến sự không thống nhất, chẳng hạn
việc chuyển đổi Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam năm 1993 sang Hệ thống
ngành kinh tế Việt Nam năm 2007 chưa kịp thời, tên gọi một số ngành kinh
tế chưa được Việt hoá, chưa phổ biến nên gây không ít khó khăn cho việc
phân ngành và đánh mã ngành kinh tế
2.2.4.Việc thực hiện các quy định về công bố và sử dụng thông tin
thống kê
Công tác phổ biến thông tin thống kê trong những năm vừa qua nhìn
chung được tăng cường cả trên phạm vi Tổng Cục Thống kê cũng như ở các
Cục Thống kê và thống kê các Bộ, ngành. Do vậy đối tượng thông tin đã
được mở rộng hơn, lượng thông tin phổ biến tới các đối tượng cũng nhiều
hơn. Ngoài việc phổ biến dưới hình thức in và phát hành ấn phẩm theo cách
làm truyền thống, những năm gần đây các sản phẩm thông tin như báo cáo

tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, niên giám thống kê hàng năm, kết quả
các cuộc điều tra, các sản phẩm phân tích thống kê còn được in và phát hành
qua đĩa CD- ROM hoặc đưa trên website và internet. Các hoạt động phổ biến
thông tin thống kê khác như họp báo công bố số liệu 6 tháng và cả năm, in
và phát hành tờ gấp số liệu hàng quý, ra thông cáo báo chí tình hình kinh tế -
xã hội hàng tháng tiếp tục được duy trì. Hàng năm Tổng Cục Thống kê đều

8
xuất bản và phát hành cuốn “Giới thiệu một số sản phẩm thông tin chủ yếu”
phục vụ các đối tượng dùng tin tra cứu để thu thập thông tin thống kê.
Việc sử dụng thông tin thống kê được bảo đảm thống nhất chung toàn
ngành thống kê, không còn tình trạng sử dụng số liệu không chính thống.
Những thông tin thống kê của tổ chức, cá nhân cung cấp cho ngành thống kê
khi tiến hành tổ chức cuộc Tổng điều tra, điều tra, đặc biệt là những thông
tin về kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, thông tin cá nhân ,
được bảo mật theo đúng quy định của Luật Thống kê.
Tuy nhiên, việc công bố và sử dụng thông tin vẫn còn một số mặt hạn
chế, tồn tại như:
- Chưa tạo lập được hệ thống thông tin thống kê quốc gia đồng bộ và hiệu
quả
- Số lượng và chất lượng thông tin còn nhiều hạn chế, đối tượng được
thông tin còn hạn hẹp.
- Chính sách và cơ chế phổ biến thông tin chậm được ban hành.
2.2.5. Việc gửi báo cáo tài chính của các doanh nghiệp
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, các cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp đã chấp
hành đúng quy định của Luật Thống kê và quy định của chế độ kế toán hiện
hành. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định trên không ít cơ quan, đơn vị
thực hiện chưa tốt, chưa hiểu rõ (không tự giác, báo cáo thiếu, số liệu mâu
thuẫn, độ chính xác chưa cao, báo cáo chậm, không báo cáo ).

2.3. Phân tích, đánh giá những vi phạm đã phát hiện
2.3.1. Vi phạm trong điều tra thống kê
Công tác chỉ đạo điều tra có nơi làm chưa tốt, điều tra viên chưa tuân
thủ quy trình điều tra, một số điều tra viên chưa trực tiếp đến hộ phỏng vấn
thu thập thông tin mà còn phỏng vấn gián tiếp, nghiệp vụ điều tra viên còn
những mặt hạn chế, chưa nắm vững nghiệp vụ.
Đối với Tổng điều tra, công tác lập bảng kê tại địa bàn điều tra chưa
thực hiện đúng quy trình lập bảng kê.
Đối tượng được phỏng vấn để thu thập thông tin trả lời còn thiếu
trung thực, giấu giếm, hoặc không muốn hợp tác với người làm công tác
thống kê. Đây là những cản trở rất lớn đến việc thu thập thông tin và số liệu
điều tra mức độ chính xác chưa cao.
2.3.2. Vi phạm về chế độ báo cáo thống kê
Công tác thống kê chưa đi vào nề nếp và ổn định; tình trạng các đơn
vị thuộc địa phương không gửi hoặc gửi không đúng hạn các báo cáo thống
kê định kỳ còn diễn ra khá phổ biến; số liệu thống kê trong nhiều báo cáo có

9
độ chính xác chưa cao, chưa chấp hành đầy đủ báo cáo thống kê theo chế
độ Nhà nước quy định, như số lượng biểu mẫu, số lượng chỉ tiêu, thu thập
chưa đầy đủ, chất lượng báo cáo thống kê thiếu chính xác, số liệu còn mâu
thuẫn, thiếu tính logíc báo cáo trước với báo cáo sau. Báo cáo quyết toán tài
chính chưa chấp hành đầy đủ, cán bộ làm công tác thống kê chưa nắm vững
chế độ báo cáo thống kê do Nhà nước quy định. Mặt khác sự phối kết hợp
giữa các phòng nghiệp vụ trong đơn vị để tổ chức thực hiện chế độ báo cáo
thống kê chưa tốt. Giám đốc, thủ trưởng đơn vị chưa thường xuyên kiểm tra
cán bộ làm công tác thống kê, cán bộ thống kê chưa được bồi dưỡng nghiệp
vụ chế độ báo cáo thống kê, tiếp cận công tác thống kê chưa được đầy đủ.
2.3.3. Vi phạm sử dụng thông tin thống kê
Người sử dụng thông tin chưa hiểu biết nội dung, bản chất của hệ

thống chỉ tiêu thống kê dẫn đến làm sai lệch về bản chất số liệu thống kê
phản ánh không đúng quy luật, xu hướng phát triển, nên khi phân tích, nhận
định, đánh giá bị sai lệch làm cho số liệu thống kê bị méo mó, phản ảnh
thiếu trung thực. Mặt khác, khi sử dụng số liệu thống kê không ghi rõ số liệu
thống kê được cung cấp ở đâu, mà chỉ ghi “theo số liêu thống kê” đã dẫn đến
hiểu lầm số liệu thống kê làm cho công tác thống kê cũng bị hạn chế.
2.4.4. Vi phạm các quy định về lưu trữ tài liệu thống kê
Qua công tác kiểm tra, giám sát chưa phát hiện trường hợp nào vi
phạm làm hư hỏng phiếu, biểu điều tra, báo cáo thống kê có chứa thông tin
thống kê trong thời hạn lưu trữ theo quy định.
2.4.5. Vi phạm các quy định về thanh tra, kiểm tra thống kê
Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin thống kê chấp
hành tương đối tốt các quy định về thanh tra, kiểm tra khi được thông báo.
Các đơn vị đều cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng từ, sổ sách khi
Đoàn thanh tra yêu cầu và không có hiện tượng vi phạm.
2.6. Những thuận lợi, khó khăn trong việc xác định hành vi vi
phạm; áp dụng hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thống kê.
2.6.1. Thuận lợi
- Tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành xử phạt những hành vi vi
phạm Luật Thống kê đối với các tổ chức, cá nhân mà Luật Thống kê điều
chỉnh;
- Các điều khoản quy định hành vi vi phạm được ứng với mức phạt cụ
thể tạo nhiều thuận lợi trong việc xác định hành vi vi phạm, áp dụng hình
thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.
Việc triển khai chế độ báo cáo Thống kê định kỳ đối với các tổ chức
được tiến hành kịp thời.

10
- Đối với các đơn vị ngoài Nhà nước, các cơ sở kinh tế cá thể, các hộ

gia đình có sự hợp tác tốt với các điều tra viên và phản ánh trung thực kết
quả sản xuất kinh doanh của đơn vị.
2.6.2. Khó khăn
- Đội ngũ phụ trách công tác thống kê ở các đơn vị thường là kiêm
nhiệm, thay đổi thường xuyên nên chưa cập nhật đầy đủ, kịp thời những quy
định về công tác thống kê của Nhà nước và của Ngành.
- Lãnh đạo một số đơn vị, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập,
chưa quan tâm đúng mức đến công tác báo cáo, điều tra thống kê, bố trí cán
bộ thống kê chưa hợp lý.
- Mức xử phạt trong Nghị định còn nhẹ, mới dừng lại ở mức răn đe,
cảnh cáo, còn tình tiết tăng năng rất khó áp dụng, vai trò của Luật Thống kê
đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa cao, còn mang nặng tính
chất tuyên truyền Luật Thống kê.
- Hành vi cố ý trì hoãn việc thực hiện yêu cầu của điều tra viên thống
kê; hành vi cố ý ghi sai lệch thông tin ban đầu được điều tra thống kê đã
cung cấp vào phiếu điều tra; hành vi cản trở việc điều tra thống kê, khai man
thông tin trong điều tra thống kê; hành vi không cung cấp kịp thời, đầy đủ cơ
sở dữ liệu thống kê theo qui định của nhiều cá nhân, hộ gia đình chưa thực
hiện xử phạt được bắng hình thức phạt tiền do tính khả thi của quyết định xử
phạt chưa cao.
- Hình thức xử phạt của Nghị định 14/2005/NĐ-CP chưa được đổi
mới theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh sử lý vi
phạm hành chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị Định 128/2008/NĐ-CP của chính phủ,
ban hành ngày 16 tháng 12 năm 2008; Nghị Định quy định chi tiết thi hành
một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
2.7. Những tồn tại, hạn chế
2.7.1. Những hạn chế của Nghị định 14/2005/NĐ-CP
- Nghị định 14/2005/NĐ-CP chưa bao quát hết phạm vi điều chỉnh
cho cả 3 loại đối tượng cung cấp thông tin thống kê, sử dụng thông tin thống

kê và người làm công tác thống kê; chưa đề cập được chi tiết những hành vi
vi phạm về sử dụng thông tin thống kê; công bố thông tin thống kê; quyền
khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu thống kê; điều tra thống kê của các tổ chức,
cá nhân ngoài tổ chức thống kê nhà nước.
- Về thẩm quyền xử phạt như hiện này chỉ có Thanh tra viên, Chánh
Thanh tra, Chủ tịch UBND huyện, tỉnh mới có thẩm quyền xử phạt những
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê nên khó khăn cho việc
xử phạt khi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê được phát hiện.

11
- Về thời hiệu, thời hạn xử phạt chưa phù hợp với tình hình thực tế,
khó thực hiện trong việc xử phạt.
Nghị định 14/2005/NĐ-CP quy định mức xử phạt đối với một số hành
vi vi phạm áp dụng đối với các tổ chức còn thấp, ít tác dụng.
Hành vi ban hành, bổ sung, sửa đổi chế độ báo cáo, chế độ điều tra
không đúng thẩm quyền là hiện tượng khá phổ biến song trên thực tế chưa
quy định cụ thể chế tài phân định vi phạm hành chính và vi phạm trách
nhiệm kỷ luật nên thực tế cũng không áp dụng được hình thức xử phạt theo
Nghị định 14/2005/NĐ-CP.
Một số hành vi chưa được qui định rõ trong Nghị định nên khi vận
dụng trong thực tế sẽ rất khó khăn như: Cố ý trì hoãn việc thực hiện yêu cầu
của điều tra viên thống kê; từ chối cung cấp thông tin theo yêu cầu của điều
tra viên theo qui định của phương án điều tra thống kê; cản trở việc điều tra
thống kê; khai man hoặc ép buộc người khác khai man thông tin trong điều
tra thống kê; báo cáo thống kê sai sự thật
Chưa qui định hết các hành vi vi phạm và mức xử phạt tương ứng
như: vi phạm về hành vi không tố cáo hoặc bao che cho các hành vi vi phạm
pháp luật về Thống kê; Công bố thông tin thống kê không đúng thẩm quyền
hoặc công bố thông tin thống kê chậm so với thời hạn qui định; Cản trở việc
tiếp cận các thông tin thống kê theo qui định được phép tiếp cân.

Nghị định 14/2005/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê theo Pháp lệnh năm 2002, nhưng năm
2008 Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
mới với một số nội dung thay đổi, do vậy, Nghị định số 14/2005NĐ-CP có
điểm “vênh”, chưa phù hợp với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
Quan hệ Quốc tế ngày càng mở rộng, tạo điều kiện cho đối tác nước
ngoài vào Việt nam ngày một tăng: Liên doanh, liên kết, đầu tư 100% vốn
nước ngoài. Hoạt động của thành phần kinh tế này mang đặc điểm thông lệ
quốc tế, tuy nhiên nội dung các hành vi xử phạt trong Nghị định khi phát
hiện vi phạm rất khó áp dụng hình thức phù hợp.
2.7.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc chấp hành pháp luật về thống kê
- Nhận thức của lãnh đạo và công chức, viên chức về công tác thống
kê chưa đầy đủ, chưa thấy hết được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác
thống kê.
- Hành vi vi phạm về thống kê còn nơi này, đơn vị kia, thực hiện chưa
đầy đủ và đúng chế độ thống kê; Những hành vi vi phạm này chưa được chi
tiết, cụ thể trong Nghị định. Khi thanh tra, kiểm tra phát hiện còn nể nang,
ngại va chạm chưa xử lý hoặc không xử lý.

12
2.7.3. Tồn tại trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê
Tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thống kê trong thời
gian qua vẫn còn khá phổ biến và có nơi ở mức nghiêm trọng. Mặc dù vậy
công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn rất hạn chế. Nhiều hành vi vi
phạm chưa được xử lý kịp thời, nghiêm minh tương xứng với mức độ vi
phạm. Chính vì vậy, hiệu quả thanh tra thực hiện Luật Thống kê mới dừng ở
việc rút kinh nghiệm, chấn chỉnh, đôn đốc, chưa thực sự có tác dụng “răn
đe” (xử lý nghiêm các hành vi vi phạm).
Công tác Thanh tra chưa thực sự được chủ động trong công tác, còn

phụ thuộc, cán bộ Thanh tra thống kê chưa có tính chuyên nghiệp để thực thi
nhiệm vụ, trong khi đó vi phạm pháp luật thống kê còn khá phổ biến, phạm
vi rộng, thuộc các đối tượng, các cấp, các ngành, các thành phần do đó đòi
hỏi phải có một tổ chức thanh tra hoạt động độc lập một cách tương đối, có
một lực lượng thanh tra đủ mạnh, để thực hiện tốt công tác thanh tra.
2.7.4. Tồn tại, hạn chế của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
Trên thực tế mặc dù đã có nhiều văn bản pháp quy của các ngành liên
quan như nói trên nhưng loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa không tổ chức
phòng ban kế toán, thống kê (kế toán thuê ngoài; thống kê do kế toán kiêm).
Là loại hình thực hiện điều tra thống kê; thời gian vừa qua có nhiều đơn vị vi
phạm phương án điều tra thống kê; Thanh tra thực hiện thanh tra đã phát
hiện hành vi vi phạm, các vi phạm thông thường ở các doanh nghiệp là ghi
thiếu thông tin phần liên quan nhiều chỉ tiêu kết quả tài chính doanh nghiệp,
khi áp dụng xử phạt xét thấy hành vi xử phạt trong Nghị định các điều mục
chưa thể hiện rõ hành vi kết quả tài chính; kết quả tài chính chỉ áp dụng xử
phạt đối với chế độ báo cáo; thiếu sự đồng bộ các điều, mục trong Nghị định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Thống kê và Nghị định
14/2005/NĐ-CP là rất rộng (bao gồm mọi tổ chức và cá nhân), song hiệu quả
lại rất hạn chế mới chủ yếu phát huy đối với người làm công tác thống kê và
một số doanh nghiệp.
Các chế độ báo cáo, điều tra thống kê mặc dù đã được cải tiến, đổi
mới, song vẫn chưa theo kịp những thay đổi của cơ chế quản lý và tình hình
thực tiễn.
Báo cáo của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn cồng kềnh và quá
nhiều chỉ tiêu làm cho các đơn vị khó thực hiện đầy đủ và dễ dẫn đến vi phạm.
Chế độ báo cáo khu vực hành chính sự nghiệp, tài chính, tín dụng, bảo
hiểm đến nay vẫn chưa được ban hành đầy đủ.
2.76.5. Những khó khăn khi chấp hành pháp luật về thống kê ảnh
hưởng đến các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê


13
- Do chế độ báo cáo thống kê hiện nay quy định chưa được đầy đủ,
đặc biệt là thời điểm thu thập số liệu, thời hạn báo cáo thống kê chưa thống
nhất, chưa có một Hệ thống chỉ tiêu thống kê thống nhất cho từng ngành,
từng lĩnh vực; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp Luật Thống kê còn hạn
chế. Bên cạnh đó, số lượng cán bộ làm công tác thống kê tại các thành phần
kinh tế rất mỏng, đa số làm kiêm nhiệm, ít được bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ về thống kê
- Nhận thức của một bộ phận lãnh đạo và cán bộ, công chức một số cơ
quan, đơn vị về công tác thống kê chưa đầy đủ, chưa thấy hết được ý nghĩa
và tầm quan trọng của công tác thống kê. Một số cơ quan, đơn vị còn nặng
về "bệnh thành tích" trong báo cáo thống kê hoặc có tâm lý báo cáo thống kê
mang tính "đối phó"; một số cán bộ trực tiếp làm công tác thống kê thiếu
tinh thần trách nhiệm, trong khi đó thủ trưởng cơ quan, đơn vị buông lỏng
hoặc chủ quan, không kiểm tra công tác thống kê cũng là một trong những
hạn chế.
- Hệ thống tổ chức cán bộ thống kê ở các cơ quan, doanh nghiệp bị cắt
xén, tinh giảm một cách tuỳ tiện. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp thậm chí
không bố trí cán bộ làm công tác thống kê, hoặc nếu có chỉ là kiêm nhiệm.
Cán bộ làm công tác thống kê cơ sở vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn lại
thường xuyên bị thuyên chuyển, thiếu ổn định.
- Kỷ cương, nề nếp trong việc chấp hành chế độ báo cáo thống kê còn
bị xem nhẹ. Việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê nhiều nơi còn mang
nặng tính hình thức đối phó. Qua thanh tra, kiểm tra hầu hết các đơn vị đều
có vi phạm về biểu mẫu, chỉ tiêu báo cáo, tính toán không đầy đủ phạm vi
hoặc không đúng phương pháp qui định, tình trạng nộp chậm, thiếu chỉ tiêu
báo cáo là khá phổ biến. Thậm chí cá biệt một số đơn vị còn không thực hiện
chế độ báo cáo thống kê.
2.8. Nguyên nhân

- Công tác thống kê chưa được lãnh đạo các cấp, các ngành các đơn vị
quan tâm đúng mức tương xứng với vai trò tác dụng của nó.
- Đối với các doanh nghiệp, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp chưa thực
sự quan tâm đến công tác thống kê, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
chế độ báo cáo thống kê, chưa nhận thức rõ vai trò của công tác Thống kê
trong quản lý nhà nước, cũng như phục vụ ngay chính công tác quản lý điều
hành doanh nghiệp.
- Công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật về
Thống kê, cũng chưa được các cấp, các ngành và ngay cả ngành Thống kê tổ
chức thực hiện thường xuyên và sâu rộng.

14
- Kỷ cương, pháp luật trong hoạt động thống kê có lúc, có nơi bị
buông lỏng, thậm chí kéo dài nhiều năm. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm lại không được đẩy mạnh hoặc thực hiện thiếu kiên quyết.
- Các văn bản pháp luật về Thống kê, cũng như Hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia; Hệ thống chỉ tiêu thống kê tỉnh, huyện, xã; chế độ báo
cáo thống kê tổng hợp; chế độ báo cáo thống kê cơ sở và chương trình điều
tra thống kê quốc gia chưa được ban hành một cách đồng bộ và thống nhất.
- Tổ chức thanh tra Thống kê sau nhiều năm củng cố, xây dựng đến
nay vẫn chưa ổn định cả về bộ máy biên chế lẫn phương thức hoạt động.


15
PHẦN III
KẾT LUẬN
Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng để
tiến hành xử phạt những hành vi vi phạm Luật Thống kê đối với các tổ chức,
cá nhân mà Luật Thống kê điều chỉnh; từng hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thống kê, ứng với mức phạt của hành vi đó và biện pháp khắc

phục hậu quả được quy định cụ thể tại từng điểm, khoản, điều của Nghị định
số 14/2005/NĐ-CP tạo nhiều thuận lợi trong việc xác định hành vi vi phạm,
áp dụng hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.
Tuy nhiên, qua hơn 5 năm đi vào thực tiễn, sự bất cập của Nghị định
14/2005/CP-NĐ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê đã
bộc lộ khá rõ nét. Vì vậy, để kịp thời đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi
mới, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, tăng cường hiệu quả công tác
thanh tra, khắc phục những hạn chế, bất cập của Nghị định, trên cơ sở
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất sửa đổi bổ sung một số nội
dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê, nhằm giúp
cho các cơ quan của nhà nước có căn cứ khoa học cho việc sửa đổi Nghị
định 14/2005/CP-NĐ ngày một hoàn thiện hơn, bám sát vào tình hình phát
triển của nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng trong công tác quản lý
và nâng cao mức độ chính xác về số liệu thống kê kinh tế - xã hội của đất nước.
Và việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thống kê là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong
công tác cải cách ngành Thống kê nước nhà.
Cuối cùng, việc sửa đổi Nghị định kịp thời cũng là sự thúc đẩy khoa
học pháp lý về thanh tra ngày càng phát triển, góp phần hoàn thiện hơn nữa
hệ thống pháp luật ở Việt Nam.

16
PHẦN V
BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ở MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ VỀ
VIỆC TỔNG KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 14/2005/NĐ-CP
CỦA CHÍNH PHỦ

1. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Lao Cai;
2. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh;
3. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa;

4. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Bình Định;
5. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng;
6. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Bình Dương;
7. Báo cáo tổng hợp của Cục Thống kê tỉnh Tiên Giang.




TỔNG CỤC THỐNG KÊ






BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ



Đề tài:

“NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ XUẤT
SỬA ĐỔI VÀ BỔ SUNG MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THỐNG KÊ"








Đơn vị thực hiện: Thanh tra- Tổng cục Thống kê

Chủ nhiệm: CN. Lê Văn Phát
Phó Chánh Thanh tra- TCTK

Thư ký khoa học: CN. Vũ Thị Phƣơng Thuý
Thư ký hành chính: CN. Vũ Quốc Dũng












HÀ NỘI, NĂM 2011


2
MỤC LỤC Trang
Mở đầu
4
Phần I: Cở sở lý luận và thực tiễn phục vụ sửa đổi và bổ sung hoàn

thiện nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống

6
1.1. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu nội dung của việc nghiên cứu sửa
đổi bổ sung về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thống kê
6
1.2. Vị trí vai trò của Thanh tra chuyên ngành trong quản lý nhà nước
10
1.3. Thanh tra, kiểm tra, giám sát trong hoạt động thống kê
13
1.4. Vai trò, ý nghĩa của Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thống kê
17
1.5. Một số định hướng cơ bản về tăng cường môi trường pháp
18
1.6. Căn cứ pháp lý nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định
14/2005/NĐ-CP
19
Phần II: Đánh giá tình hình triển khai và thực hiện Nghị định
14/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2005 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
20
2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Nghị định
20
2.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến nghị định 14/2005/NĐ-CP
21
2.3. Kết quả thực hiện kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thống kê
24
2.4. Phân tích, đánh giá những vi phạm đã phát hiện

27
2.5. Những thuận lợi, khó khăn trong việc xác định hành vi vi phạm; áp
dụng hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống
kê.
29
2.6. Những tồn tại, hạn chế
31
2.7. Nguyên nhân
37
Phần III: Đề xuất sửa đổi và hoàn thiện nội dung xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê
39
3.1. Một số yêu cầu chung khi xác đinh hành vi, hình thức và mức phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thông kê
39

3
3.2. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê, hình thức,
mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
46
3.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
53
3.4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính trrong lĩnh vực thống kê
55
3.5. Phạm vi, đối tượng, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo
62
PHẦN IV: Kết luận và kiến nghị
64
4.1. Kết luận

64
4.2. Kiến nghị
64
Danh mục tài liệu tham khảo
67
Phụ lục1: Danh mục một số biên bản và quyết đinh xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê
68
Phụ lục2: So sánh Nghị định số 14/2005/NĐ-CP và Nghị định số
/2012/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
99
Danh mục sản phẩm đạt đƣợc
116


4
MỞ ĐẦU
Thanh tra Tổng cục Thống kê được tái lập theo Quyết định số 46/QĐ-
TCTK ngày 30 tháng 4 năm 1992 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.
Trong quá trình hoạt động Thanh tra Thống kê đã phát triển thành hệ thống từ
Tổng cục Thống kê tới các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
với thành phần gồm Thanh tra viên các cấp, cán bộ thanh tra kiêm nhiệm và
cộng tác viên thanh tra.
Thanh tra Thống kê có hai chức năng là thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành, trong đó chức năng thanh tra chuyên ngành là thanh tra việc chấp
hành chế độ thống kê của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về
thống kê. Điều chỉnh các hành vi vi phạm về thống kê của các đối tượng này là
Nghị định số 14/2005/NĐ - CP ngày 04 tháng 02 năm 2005 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê; Bảo đảm cho việc chấp
hành Luật Thống kê được tốt hơn.

Về tổ chức, bộ máy hiện có những thay đổi mới như: Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 54/2010/QĐ - TTg ngày 24 tháng 8 năm 2010
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục
Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tổng cục Thống kê đã ban hành các Quyết định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trong đó xác định Thanh tra Cục Thống kê là một mô hình cơ cấu độc lập
trực thuộc sự lãnh đạo và điều hành của Cục trưởng Cục Thống kê.
Để tăng cường kỷ luật, hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thống
kê, cùng với Luật Thống kê; Nghị định 14/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê được ban hành; 02 văn bản pháp luật quan
trọng này trong lĩnh vực thống kê đã tạo thuận lợi cho hoạt động thống kê trong
khuôn khổ pháp luật, nâng cao chất lượng, tác dụng và hiệu quả trong công tác
thống kê.
Thực hiện đề án “Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê”
trong đó có nội dung “Hoàn thiện môi trường pháp lý cho công tác thống kê”
- cụ thể là việc đánh giá tình hình và kết quả triển khai thực hiện Luật Thống kê,
các Nghị định và các văn bản pháp lý khác có liên quan đến hoạt động thống kê,
đề xuất và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những nội
dung cần thiết để đáp ứng các yêu cầu đối với công tác thống kê trong quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong quá trình thực hiện Nghị định 14/2005/NĐ- CP của Chính phủ, đến
nay đã có những thay đổi về cơ chế, chính sách, pháp luật, quản lý kinh tế - xã
hội; Về chế tài xử phạt của Nghị định 14/2005/NĐ-CP khi Nghị định được ban
hành dựa vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đến nay không còn
phù hợp. Nhiều nội dung, chỉ tiêu của báo cáo và điều tra Thống kê đến nay

5
không thích hợp. Về số lượng tổ chức, đơn vị chịu sự điều chỉnh của Luật Thống
kê cũng có nhiều biến đổi. Ngay cả trong cùng một nội dung, phạm vi điều

chỉnh cũng chưa thể hiện đầy đủ các hành vi sai phạm cần được xử lý.
Với tầm quan trọng như vậy và xuất phát từ những yêu cầu về lý luận và
thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề
xuất sửa đổi và bổ sung một số nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thống kê”.
Mục tiêu nghiên cứu
Với mục đích yêu cầu trên, đề tài này bao gồm các nội dung sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi và bổ
sung một số nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê;
- Đánh giá công tác triển khai Nghị định 14/2005/NĐ-CP;
- Kết quả thực hiện kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thống kê;
- Những tồn tại, hạn chế của Nghị định 14/2005/NĐ-CP và nguyên nhân
trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị định;
- Một số kiến nghị và giải pháp.
Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn những tồn tại
của Nghị định sau 5 năm triển khai thực tế, nhằm đề suất sửa đổi và bổ xung về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê, để cung cấp thông tin cho
Chính phủ sửa đổi một số nội dung của Nghị định 14/2005/NĐ-CP, ngày 04
tháng 2 năm 2005 của Chỉnh phủ.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để nghiên
cứu tình hình triển khai và kết quả thu được sau 5 năm thực hiện Nghị định
14/2005/NĐ-CP, ngày 04 tháng 2 năm 2005 của Chính phủ.

DANH SÁCH NHỮNG CÁ NHÂN THỰC HIỆN CHÍNH


1. CN. Lê Văn Phát, Phó Chánh Thanh tra – TCTK, Chủ nhiệm đề tài;

2. CN. Nguyễn Hữu Thỏa, Chánh thanh tra;
3. CN. Nguyễn Chiếm Thép, Thanh tra viên chính;
4. CN. Vũ Thị Phương Thuý, Thanh tra viên, Thư ký khoa học đề tài;
5. CN. Vũ Quốc Dũng, Thanh tra viên, Thư ký hành chính đề tài.

×