Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tác động của những quy định mới trong luật trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.45 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI TRONG
LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TỚI HOẠT ĐỘNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TRỌNG TÀI
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập tại Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn TS. Vũ Thị Lan
Anh – người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân cùng bạn bè và


đồng nghiệp đã động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
công tác.
Với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu không nhiều, luận văn chắc
chắn có những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp để đề tài được hoàn thiện hơn.

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Huyền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, khách quan, khoa học, dựa
trên kết quả khảo cứu thực tế và các tài liệu đã được công bố.

Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2012

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................... 6
1.1. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và các yếu tố tác
động tới hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ....................... 6
1.1.1.


Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài .... 6

1.1.2.

Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp

thương mại bằng trọng tài ........................................................................ 9
1.2. Tác động của văn bản quy phạm pháp luật tới việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ................................................................................. 16
1.2.1. Mục đích của đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật 16
1.2.2. Các tiêu chí cơ bản để đánh giá tác động của văn bản quy phạm
pháp luật tới việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. .......................... 17
1.3. Khái quát về Luật Trọng tài thương mại........................................ 21
1.3.1. Sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại...................................... 21
1.3.2. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại .............. 24
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH MỚI THEO LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI........................................................ 26
2.1. Thẩm quyền của trọng tài................................................................ 26
2.1.1. Mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài .................................. 26
2.1.2. Tranh chấp liên quan đến một bên là người tiêu dùng .................. 32
2.2. Thoả thuận trọng tài ........................................................................ 33
2.2.1. Hình thức của thỏa thuận trọng tài. .............................................. 34
2.2.2. Căn cứ để thoả thuận trọng tài bị coi là vô hiệu............................ 36
2.2.3. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được ............................ 39
2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ............................................... 41


2.3.1. Quyền xem xét thẩm quyền của trọng tài ..................................... 41

2.3.2. Quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thu thập chứng cứ,
triệu tập người làm chứng ...................................................................... 44
2.4. Trọng tài viên và Trung tâm trọng tài ............................................ 48
2.4.1. Trọng tài viên............................................................................... 48
2.4.2. Trung tâm trọng tài ...................................................................... 51
2.5. Phán quyết trọng tài......................................................................... 52
2.5.1. Nguyên tắc ra phán quyết trọng tài............................................... 52
2.5.2. Căn cứ huỷ quyết định trọng tài ................................................... 54
2.5.3. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc ........................................... 58
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI..... 61
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện Luật Trọng tài
thương mại .............................................................................................. 61
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Trọng tài thương mại .... 63
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trọng tài
thương mại .............................................................................................. 65
KẾT LUẬN ................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại rất phổ biến trên thế giới. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có
nhiều ưu điểm thuận lợi như đáp ứng tối đa quyền tự do thỏa thuận của các
bên, thủ tục giải quyết đơn giản, linh hoạt, đảm bảo bí mật kinh doanh, đặc
biệt là phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Thực tiễn giải quyết tranh
chấp trên thế giới cho thấy, trọng tài đang ngày càng đóng vai trò quan trọng

trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Ở Việt Nam, trọng tài hoạt
động hiệu quả sẽ giúp giảm tải gánh nặng công việc cho các tòa án và góp
phần khuyến khích quyền tự định đoạt của những người có tranh chấp. Chủ
trương cái cách tư pháp của Đảng và Nhà nước là khuyến khích sử dụng trọng
tài để giải quyết các tranh chấp thương mại, đòi hỏi chúng ta phải ngày càng
hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài để đáp ứng nhu cầu của các chủ
pháp luật muốn giải quyết các tranh chấp của mình một cách hiệu quả, thuận
lợi và nhanh chóng.
Phát huy hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài thương mại để giải
quyết tranh chấp thương mại đang là vấn đề quan tâm không những của các
trung tâm trọng tài thương mại, trọng tài viên, mà còn của Nhà nước và cả
cộng đồng doanh nghiệp.
Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/06/2010 tại kỳ họp thứ 7, khóa XII và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011 là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, kế thừa và
phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống, tiếp thu tối đa kinh
nghiệm quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc lựa chọn trọng tài để giải
quyết tranh chấp.


2

Luật đưa ra nhiều quy định mới nhằm khắc phục hạn chế của Pháp lệnh
Trọng tài thương mại. Những quy định này có tác động lớn tới hiệu quả giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Việc đánh giá tác động của những quy định
mới này là rất cần thiết nhằm xem xét quy định pháp luật có hiệu quả không,
từ đó đưa ra những kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài
thương mại và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại.

Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tác động của những quy định
mới trong Luật Trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn của
mình. Qua việc nghiên cứu đề tài nay, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về trọng tài, những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại và
tác động của nó tới hoạt động trọng tài, từ đó đề xuất những giải pháp phù
hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình xây dựng Luật cũng như từ khi có hiệu lực, đã có nhiều
công trình nghiên cứu, phân tích về những điểm mới của Luật Trọng tài
thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 dưới dạng các
bài viết khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ…Điển hình các bài
viết trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trong Số chuyên đề về Luật Trọng tài
thương mại năm 2010 như: “Những nội dung cơ bản và những điểm mới của
Luật Trọng tài thương mại 2010” của tác giả Vũ Ánh Dương, “Những chặng
đường phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam” của tác giả Dương
Văn Hậu...Những công trình nghiên cứu là khóa luận tốt nghiệp, luận văn
thạc sỹ có Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh với đề tài “
Luật Trọng tài thương mại 2010- Bước phát triển mới của pháp luật trọng tài
thương mại Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trần Bảo Yến với đề


3

tài “Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại”(năm 2011). Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện về tác động của những
điểm mới tới các quan hệ xã hội, trong đó có tác động tới hiệu quả của quá
trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài – một vấn đề có ý nghĩa hết sức thực
tiễn với hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Luật Trọng tài thương mại 2010 có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh
Trọng tài thương mại 2003. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả
không đi sâu nghiên cứu tất cả các quy định mới của Luật mà chỉ tập trung
nghiên cứu những quy định mới cơ bản, có nhiều tác động tới hiệu quả giải
quyết tranh chấp như quy định về phạm vi thẩm quyển của trọng tài, thỏa
thuận trọng tài, phán quyết trọng tài, trọng tài viên và trung tâm trọng tài,
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Bên cạnh đó, do Luật Trọng tài thương
mại mới có hiệu lực hơn một năm nên việc đánh giá tác động của những quy
định mới chỉ giới hạn ở việc giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực
tiễn hoạt động trọng tài và dự kiến những tác động trong tương lai.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật. Đồng thời, vận dụng những quan điểm
của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới.
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn kết hợp
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp mô tả, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê để giải quyết các vấn đề khoa học của luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Lựa chọn nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những tác
động của những quy định mới theo Luật Trọng tài thương mại tới hoạt động


4

giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Qua đánh giá thực tiễn thi
hành cũng như những ưu, nhược điểm của quy định pháp luật, đề xuất những
giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật trọng tài và nâng cao hiệu quả
thi hành của Luật Trọng tài thương mại trên thực tế.
Để đạt được mục đích trên, tác giả đi tập trung giải quyết những nhiệm

vụ cơ bản sau:
- Vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và
các yếu tố tác động tới hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài;
- Phân tích những bất cập của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003
khiến hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài kém hiệu quả;
- Phân tích những quy định mới của Luật Trọng tài thương mại 2010;
- Đánh giá những tác động tích cực, tiêu cực của những quy định trên
tới hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài;
- Qua đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật,
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài và nâng cao
hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
6. Những kết quả nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, tác giả làm sáng tỏ một cách hệ
thống những vấn đề lý luận về trọng tài thương mại, về tác động của văn bản
pháp luật tới hoạt động trọng tài, những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Tác giả còn đi sâu phân tích những
quy định mới của pháp luật hiện hành và những tác động của chúng tới hoạt
động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và có sự đánh giá pháp luật hiện
hành một cách khách quan, có cơ sở. Cuối cùng, dựa trên những điểm bất cập,
chưa hợp lý của cả pháp luật và công tác thi hành pháp luật, tác giả đưa ra
những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa
hiệu quả thi hàn pháp luật về trọng tài.


5

7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Lời nói đầu, 3 chương và Kết luận, trong đó:
Chương I: Những vấn đề lý luận.
Chương II: Quy đinh mới theo Luật Trọng tài thương mại và những tác động

tới hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
Luật Trọng tài thương mại.


6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và các yếu tố tác
động tới hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
1.1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Trọng tài thương mại ra đời từ rất sớm và ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển, phần lớn các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương
mại thường được các bên tin tưởng lựa chọn giải quyết thông qua phương
thức trọng tài. Có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tại thương mại, ta có
thể tiếp cận khái niệm này ở một số phương diện sau:
Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế thị trường : “Trọng tài là một phương
thức giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự
nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có
tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có
hiệu lực ràng buộc với cả hai bên” [trang 11,13].
Theo cuốn Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nêu: “ Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra
trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành tranh chấp theo những
thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [trang 12,13].
Tuy có những khái niệm và nhận định khác nhau về trọng tài thương
mại được đưa ra song tựu chung lại, có thể đánh giá trọng tài là hình thức giải
quyết tranh chấp mang bản chất phi chính phủ, thông qua hoạt động của các
trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập, được các bên có tranh chấp

tin tưởng lựa chọn để giải quyết những mâu thuẫn giữa các chủ thể này. Giữa
các bên xảy ra tranh chấp phải tồn tại một thỏa thuận trọng tài thống nhất đưa
vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài mới có quyền giải
quyết. Trọng tài sẽ giải quyết các xung đột này bằng cách đưa ra phán quyết


7

trên nguyên tắc tự định đoạt của các bên đương sự và buộc các bên phải thi
hành phán quyết được đưa ra .
Hiện nay, trọng tài ở các nước nói chung tồn tại dưới hai hình thức cơ
bản là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là phương
thức trọng tài hình thành trên sự thỏa thuận của các bên để giải quyết tranh
chấp. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại trong thời gian giải quyết tranh chấp,
sau khi tranh chấp được giải quyết, trọng tài vụ việc sẽ chấm dứt sự tồn tại
của mình. Cơ cấu tổ chức của trọng tài vụ việc nhìn chung rất đơn giản và
linh hoạt: trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy
điều hành thường xuyên, liên tục và thậm chí không có danh sách trọng tài
viên riêng. Trọng tài vụ việc không đưa ra các quy tắc tố tụng dành riêng cho
mình. Do vậy, khi đưa vụ tranh chấp ra giải quyết, các bên có thể thỏa thuận
lựa chọn bất kỳ quy tắc tố tụng phổ biến nào, mà thông thường là các quy tắc
tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín trong nước và quốc tế. Như vậy,
có thể thấy rằng hình thức trọng tài vụ việc đã đề cao ý chí tự định đoạt và
tôn trọng sự thỏa thuận của các bên khi giải quyết tranh chấp. Chính bởi ưu
điểm này mà trọng tài vụ việc đã được các nước trên thế giới sử dụng từ rất
sớm.
Không giống hình thức trọng tài vụ việc được thành lập từ sự thỏa
thuận của các bên tranh chấp, trọng tài thường trực có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, trụ sở giao dịch cố định, có tư cách pháp nhân và hoạt động theo điều lệ
do chính nó đề ra. Trọng tài thường trực có danh sách trọng tài viên và thường

có quy tắc tố tụng riêng. Trên thế giới, trọng tài thường trực được tổ chức
dưới các hình thức đa dạng như Trung tâm trọng tài, Hiệp hội trọng tài hay
các Viện trọng tài, nhưng phổ biến nhất vẫn là các Trung tâm trọng tài.
So với Tòa án thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có
những ưu điểm nổi trội hơn như sau:


8

Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
được thực hiện theo trình tự tố tụng linh hoạt và mềm dẻo. Luật trọng tài các
nước nói chung và Luật trọng tài thương mại 2010 Việt Nam nói riêng đều
quy định thủ tục đơn giản, chủ yếu dựa trên đặc điểm của các bên và đề cao
sự thỏa thuận này. Các bên đương sự có quyền thỏa thuận các vấn đề: ngôn
ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, địa điểm giải quyết vụ tranh chấp, đối với
tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có quyền chọn luật áp dụng, quyết
định số lượng trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài. Trong khi đó, giải quyết
tranh chấp tại Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán
nhà nước thực hiện, cần tuân theo quy trình tố tụng chặt chẽ của pháp luật tố
tụng theo nguyên tắc “bất di bất dịch”. Ở Tòa án, khi xét xử, đương sự phải
tuân theo quy định về thời gian, địa điểm, cách thức, thủ tục xét xử đã được
quy định từ trước.
Thứ hai, trọng tài là cơ chế giải quyết tranh chấp bảo đảm bí mật tối đa
cho các bên. Hầu hết pháp luật về trọng tài các nước đều thừa nhận nguyên
tắc xét xử kín, nếu giữa các bên không có sự thỏa thuận nào khác. Những nội
dung của vụ tranh chấp, các thỏa thuận của các bên, quá trình xét xử không
được công khai. Điều này giúp các nhà kinh doanh giữ được bí mật trong hoạt
động kinh doanh của mình. Đây là điều không thể thực hiện khi giải quyết
tranh chấp tại Tòa án, bởi tại Tòa, với các thủ tục tố tụng được diễn ra công
khai, công chúng đều được quyền tham dự phần nào sẽ ảnh hưởng đến uy tín

của các bên tham gia tranh chấp.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm. Tính chung thẩm
của phán quyết trọng tài được thể hiện ở chỗ khi các bên đưa tranh chấp ra
giải quyết tại trọng tài, vụ việc đó sẽ được xét xử một lần. Phán quyết trọng
tài có giá trị ràng buộc với các bên tranh chấp, các bên phải thi hành phán
quyết trọng tài. Khi phán quyết được đưa ra, các bên không thể chống án hay


9

kháng cáo. Đây là ưu điểm nổi trội so với xét xử tại Tòa án, có thể Tòa án
phải xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí kéo dài đến thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Quy trình xét xử kéo dài như vậy sẽ gây tốn kém về thời gian,
chi phí của các chủ thể kinh doanh. Theo ông Nguyễn Minh Chí, Chủ tịch
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đã
xảy ra những trường hợp: “Một vụ tranh chấp trị giá hàng triệu USD có khi
chỉ được giải quyết trong vòng 3-4 tháng. Trong khi đó, nếu đưa ra Tòa án sẽ
kéo dài hàng năm” [trang 2,26].
Thứ tư, giải quyết tranh chấp thương mại giúp duy trì được quan hệ đối
tác của các bên. Do việc xét xử không công khai nên ít ảnh hưởng đến uy tín
các bên nên các bên vẫn giữ được hòa khí trong quan hệ hợp tác. Ở Tòa án,
các bên trực tiếp tranh luận công khai trước nhiều người dễ tạo tâm lý hiếu
thắng, dễ làm hỏng mối quan hệ hợp tác giữa đôi bên.
Thứ năm, phán quyết trọng tài được công nhận thi hành tại nước ngoài.
Thông qua một loạt các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước Newyork
1958 về công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài, các quyết
định trọng tài sẽ được công nhận và thi hành tại các quốc gia, vùng lãnh thổ là
thành viên của Công ước. Hiện nay đã có khoảng 150 quốc gia đã ký Công
ước NewYork về thi hành các quyết định của trọng tài.
1.1.2. Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương

mại bằng trọng tài
Để việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đạt hiệu quả, cần có sự kết
hợp của nhiều yếu tố như trình độ phát triển của nền kinh tế, chất lượng văn
bản quy phạm về trọng tài, tâm lý của chủ thể tranh chấp, năng lực trọng tài
viên, cơ chế thực thi phán quyết trọng tài. Các yếu tố này sẽ là điều kiện lý
tưởng để việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đạt hiệu quả. Mỗi yếu tố có
một vị trí, vai trò riêng, có sự tác động riêng tới từng khía cạnh của hoạt động


10

trọng tài, trong đó các quy định pháp luật về trọng tài là yếu tố có tác động
trực tiếp nhất và là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế
Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, trong điều
kiện đó, mỗi quốc gia không thể đứng ngoài, tự tách mình khỏi quá trình hội
nhập quốc tế. Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, sản phẩm làm ra của mỗi
tập đoàn không còn bó buộc trong một phạm vi và lãnh thổ nhất định, mà
được gắn kết với nền kinh tế toàn cầu. Sự phát triển kinh tế ở Việt Nam cũng
dẫn tới việc ra đời của hàng loạt doanh nghiệp mới với lĩnh vực kinh doanh đa
dạng. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiện
cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp, đặc biệt số các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ngày càng gia tăng và đóng góp vai trò ngày càng quan trọng vào đời
sống kinh tế của đất nước. Vì thế, số các vụ việc tranh chấp trong tương lai
gần sẽ ngày càng nhiều hơn, nhu cầu giải quyết các tranh chấp linh hoạt,
nhanh chóng được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Nhờ đó, số lượng vụ việc
được thỏa thuận giải quyết tại trọng tài cũng sẽ tăng lên.
Nền kinh tế phát triển cũng đặt ra những đòi hỏi cao hơn đối với hoạt
động trọng tài, theo đó quá trình tố tụng trọng tài phải đáp ứng được yêu cầu
của các bên tranh chấp về thời gian, hiệu quả giải quyết tranh chấp…Vì vậy,

các thiết chế trọng tài phải hoàn thiện, trọng tài viên phải nâng cao trình độ,
năng lực, quá trình giải quyết tranh chấp phải nhanh gọn, hiệu quả mới có thể
đáp ứng được yêu cầu ngày càng đa dạng của các chủ thể.
Thứ hai là văn bản quy phạm pháp luật về trọng tài
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng tới hiệu quả giải quyết của
trọng tài. Pháp luật có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
mới đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp trên thực tế đạt hiệu quả và


11

ngược lại. Hệ thống pháp luật về trọng tài được xem là có chất lượng tốt phải
thỏa mãn những yêu cầu sau:
Thứ nhất là được ban hành phù hợp, có khả năng thực hiện được: Tức
là nội dung của pháp luật phải có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Có thể nói pháp luật là những nhu cầu cơ bản, điển hình
và có tính phổ biến nhất của đời sống kinh tế - xã hội được khái quát hóa, mô
hình hóa dưới hình thức pháp lý cụ thể thông qua hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Do vậy, sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật
mà đặc biệt của các văn bản luật với quy luật khách quan của sự phát triển
kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan trọng đảm bảo tính khả thi và hiệu
quả của pháp luật. Phù hợp với quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm
cho pháp luật dễ dàng thực hiện đồng thời cũng góp phần thúc đẩy, tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội, trường hợp ngược lại, pháp luật khó
được thực hiện trên thực tế, thậm chí có thể cản trở hoặc gây ra những thiệt
hại nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tính khả thi của pháp luật thể
hiện ở việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp
ứng nhu cầu mà cuộc sống đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực
hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp luật phải xem xét tới
điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có thực hiện được quy định

đó hay không, đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chúc bộ máy
nhá nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức có cho phép thực hiện được
điều đó không, trình độ văn hóa và kiến thức pháp lý của nhân dân…Nhìn lại
lịch sử pháp luật trọng tài, sự ra đời của tổ chức trọng tài cũng cần dựa trên
điều kiện kinh tế- xã hội, khi không còn phù hợp sẽ bị thay thế. Trọng tài xuất
hiện trong những năm 1960 với sự ra đời của Hội đồng trọng tài Ngoại
thương và Hội đồng trọng tài hàng hải năm 1963 và 1964. Hệ thống trọng tài
kinh tế được thành lập trong bối cảnh của nền kinh tế tập trung quan liêu, bao


12

cấp. Hệ thống này được thiết lập từ cấp trung ương đến cấp huyện và vận
hành gần giống với xét xử của tòa án. Cho đến những năm 1990, qua gần 30
năm hoạt động, hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước đã bộc lộ những khiếm
khuyết và chứng tỏ không có hiệu quả và không thích hợp với một nền kinh tế
theo định hướng thị trường mới xuất hiện là hệ quả của chính sách đổi mới
của Nhà nước ta trong những năm 1980. Sự kém hiệu quả của trọng tài kinh
tế nhà nước trước đây cho thấy, trọng tài Việt Nam không còn con đường nào
khác là lựa chọn một hình thức khác linh hoạt và hiện đại hơn – trọng tài
thương mại phi chính phủ. Đứng trước tình hình đó, trọng tài kinh tế nhà
nước bị giải thể. Thay vào đó là hệ thống trọng tài phi chính phủ xuất hiện
dưới hình thức tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo quy định tại Nghị định 116
của Chính phủ ngày 5/9/1994. Nhưng văn bản này đã không thiết lập được
các quy định đầy đủ, rõ ràng về hệ thống trọng tài theo mô hình mới. Trong
khi đó, giao lưu thương mại giữa các doanh nghiệp nước ta và các nước, giữa
các doanh nghiệp trong nước ngày càng gia tăng, tất yếu phát sinh tranh chấp
ngày càng nhiều về số lượng, đòi hỏi phải có cơ chế trọng tài phù hợp hơn để
giải quyết. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời đã đánh dấu một bước
phát triển mới của trọng tài Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy

nhiên, qua 7 năm thực hiện, nó cũng bộc lộ những khiếm khuyết cả trong quy
định cũng như trong thực hiện thi hành như về phạm vi thẩm quyền, thỏa
thuận trọng tài, vấn đề tiêu chuẩn trọng tài viên, căn cứ hủy quyết định trọng
tài…Luật trọng tài thương mại 2010 ra đời chính là nhằm khắc phục những
hạn chế đó, khuyến khích các bên có tranh chấp lựa chọn sử dụng phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Không chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, pháp luật
còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Hầu hết các nước trên thế giới đều
thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải


13

quyết tranh chấp phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực thương
mại. Khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập thì đồng nghĩa với việc
chúng ta cần chấp nhận những nguyên tắc chung về giải quyết tranh chấp
thương mại được quy định ở các điều ước quốc tế, thông lệ quốc tế về lĩnh
vực này. Đồng thời chúng ta cũng cần học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp
luật của các nước trên thế giới. Văn bản quan trọng nhất trong lĩnh vực trọng
tài hiện nay chính là Luật trọng tài mẫu của UCITRAL, cho tới nay được hơn
80 quốc gia thông qua. Mục đích của Luật mẫu là hài hòa pháp luật của các
quốc gia về trọng tài. Luật mẫu được thông qua để khắc phục những sự khác
biệt rất lớn trong luật pháp quốc gia về trọng tài, khẳng định sự cần thiết phải
cải thiện và hài hòa pháp luật quốc gia khi chúng ta nhận thấy rằng pháp luật
quốc gia thường không thích hợp với lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế.
Hơn nữa, sự khác biệt về pháp luật của các quốc gia sẽ cản trở sự phát triển
của thương mại quốc tế, vì vậy, cần phải có hoạt động tích cực để giảm bớt
hoặc xóa bỏ các trở ngại pháp lý tạo nên rào cản đối với thương mại quốc tế.
Thứ hai là pháp luật phải đồng bộ và toàn diện. Bất kỳ văn bản quy
phạm pháp luật nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập,

riêng rẽ mà trong tổng thể những mối liên hệ và những ràng buộc nhất định.
Do vậy, tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất
lớn tới tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện pháp luật. Việc thực hiện
một quy phạm pháp luật hay một chế định không tốt có thể sẽ làm việc thực
hiện các quy phạm, các chế định pháp luật khác gặp nhiều khó khăn, thậm chí
là không thể thực hiện được. Trước đây, một số quy định về trọng tài hầu như
chưa sử dụng được cũng có lý do từ việc vướng mắc trong các quy định pháp
luật khác. Đó là khái niệm thương mại được quy định trong Luật thương mại
năm 1997 (nay đã được thay thế bằng Luật thương mại 2005) không tương
thích với quy định tương ứng trong Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.


14

Hay sự thiếu nhất quán giữa Pháp lệnh Trọng tài thương mại và các văn bản
pháp luật khác có liên quan như Bộ Luật dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật
Đầu tư…cũng tác động không nhỏ tới hiệu quả của trọng tài.
Thứ ba là vấn đề tâm lý và trình độ hiểu biết pháp luật của chủ thể
tranh chấp
Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp
luật hợp pháp của chủ thể. Tâm lý pháp luật là một hiện tượng tương đối bền
vững, nó hình thành và biến đổi chậm chạp cùng với những truyền thống, thói
quen của con người. Trong lĩnh vực trọng tài thương mại cũng vậy, vấn đề
tâm lý của chủ thể tranh chấp có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả giải quyết tranh
chấp, đặc biệt là với Việt Nam, khi mà việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài chưa được chú trọng. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp đối với 237
cá nhân, tổ chức kinh doanh thì: 57,8% ý kiến cho rằng hình thức giải quyết
tranh chấp ưu tiên của họ thương lượng, 46,8% ý kiến ưu tiên lựa chọn toà án,
22,8% ý kiến là sẽ chọn hoà giải, chỉ có 16,9% ý kiến cho rằng sẽ sử dụng
trọng tài thương mại. Có tới 84% số doanh nghiệp được hỏi cho rằng chưa

bao giờ giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài [trang 5,19]. Khi ký kết
hợp đồng, các chủ thể thường chú trọng tới các điều khoản về giá cả, chất
lượng hàng hóa, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán hơn các điều
khoản về giải quyết tranh chấp. Chính tâm lý đó, cộng thêm sự thiếu hiểu biết
về pháp luật đã tạo ra những sai sót không đáng có cho các chủ thể trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Trong nhiều hợp đồng, doanh nghiệp viết là “nếu có
tranh chấp sẽ nhờ công an giải quyết” hoặc “ nhờ Ủy ban nhân dân” chứng tỏ
trọng tài thương mại còn là một khái niệm mơ hồ với họ. Tuy nhiên, với các
doanh nghiệp nước ngoài, khi ký hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam thì
gần như họ không chọn tòa án mà chọn trọng tài. Họ có thể chọn trọng tài của
bất kỳ nước nào, còn doanh nghiệp Việt Nam chưa coi trọng vấn đề này nên


15

không chú ý khi đàm phán nhiều hợp đồng dẫn đến việc chúng ta buộc phải
lựa chọn trọng tài nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Như vậy, doanh
nghiệp cũng như trung tâm trọng tài trong nước chính là đối tượng thiệt thòi,
bất lợi hơn.
Thứ tư là vấn đề năng lực của trọng tài viên
Trong tố tụng trọng tài thì trọng tài viên chính là những người giải
quyết vụ việc nên năng lực của trọng tài viên là yếu tố vô cùng quan trọng
quyết định tới hiệu quả giải quyết tranh chấp. Tranh chấp có được giải quyết
nhanh chóng, chính xác, hợp lý hay không phụ thuộc rất lớn vào trình độ
chuyên môn cũng như kỹ năng, kinh nghiệm giải quyết tranh chấp của trọng
tài viên. Trọng tài viên phải giỏi chuyên môn. Đồng thời, Hội đồng trọng tài
giải quyết theo cơ chế tập thể nên hiệu quả giải quyết còn phụ thuộc vào sự
đồng đều hay chênh lệch giữa trình độ của các trọng tài viên. Giải quyết tranh
chấp là một hoạt động trí tuệ tương đối phức tạp. Do vậy, trình độ của trọng
tài viên và sự chênh lệch về khả năng giải quyết tranh chấp của một số trọng

tài viên dễ dẫn đến tình trạng các trọng tài viên ra những phán quyết không
đảm bảo những yêu cầu pháp lý, không chính xác hoặc không thể thực hiện.
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những trọng tài viên có chuyên môn nghiệp vụ
pháp lý thì còn có những trọng tài viên chỉ giỏi về chuyên môn kinh doanh
nhưng kiến thức pháp luật về trọng tài và kỹ năng thao tác trong tố tụng trọng
tài bị hạn chế bởi nhiều trọng tài viên là các nhà kinh doanh, làm việc theo
hình thức kiêm nhiệm. Theo khảo sát mới đây cho thấy có đến 72,6% ý kiến
cho rằng các trọng tài viên hiện nay thiếu kỹ năng giải quyết tranh chấp, 65%
cho rằng thiếu số lượng trọng tài viên, 51,1% cho rằng trọng tài viên thiếu
kinh nghiệm nghề nghiệp, 44,7% cho rằng thiếu trình độ chuyên môn và đặc
biệt có đến 44,3% cho rằng các trọng tài viên hiện nay thiếu kiến thức pháp
luật [trang 8,19].


16

Thứ năm là cơ chế thực thi phán quyết của trọng tài
Điều mà các chủ thể mong muốn đạt được khi đưa vụ việc ra giải
quyết tại trọng tài thương mại không chỉ là có một phán quyết hợp lý, có lợi
cho mình mà điều quan tâm nhất là phán quyết đó có được thực hiện trên thực
tế không. Nếu phán quyết trọng tài không được thực hiện thì quá trình giải
quyết tranh chấp của trọng tài trở nên vô nghĩa, nếu bên phải thi hành phán
quyết đó không tự nguyện thi hành. Vì vậy, nếu việc thi hành phán quyết
trọng tài được tiến hành một cách phù hợp thì nó sẽ góp phần không chỉ làm
cho hoạt động tố tụng trọng tài trong các giai đoạn trước đó có hiệu quả thiết
thực, mà còn làm cho các phán quyết trọng tài trong tương lai được thi hành
một cách tự nguyện nhiều hơn. Và nếu hoạt động của trọng tài đạt hiệu quả
thì rõ ràng những ưu thế của trọng tài so với tòa án mới được phát huy. Pháp
luật nhiều nước trên thế giới và Việt Nam quy định rằng trong trường hợp
một bên không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài thì bên kia có quyền

yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành phán quyết. Cán bộ quản lý nhà nước,
thẩm phán, chấp hành viên đều cho rằng, quy định pháp luật hiện hành chưa
phù hợp và rất ít quyết định trọng tài hoặc quyết định liên quan đến trọng tài
được yêu cầu thi hành là hai nguyên nhân cơ bản của việc cơ quan thi hành án
chưa có hoạt động hỗ trợ cho trọng tài. Phần lớn các cán bộ quản lý nhà nước
cho rằng, cơ quan thi hành án không coi trọng việc thi hành quyết định trọng
tài hoặc quyết định liên quan đến trọng tài vì việc này chỉ chiếm một phần
không đáng kể công việc của toà án và cơ quan thi hành án.
1.2. Tác động của văn bản quy phạm pháp luật tới việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài
1.2.1. Mục đích của đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản luật, có vai trò, tác dụng
vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, thường được ban hành và sử dụng


17

trong một thời gian khá dài, nên khi ban hành cần tiến hành đánh giá tác động
của nó thật khoa học và chính xác. Việc đánh giá tác động của văn bản quy
phạm pháp luật thường được tiến hành trong hai trường hợp: đánh giá khả
năng tác động của dự thảo văn bản quy phạm pháp và đánh giá hiệu quả của
văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành. Đánh giá khả năng tác động
của dự thảo nhằm dự báo những tác động tích cực, tiêu cực của dự thảo văn
bản để có biện pháp khắc phục chúng trước hoặc sau khi ban hành. Đồng thời,
đánh giá khả năng tác động của dự thảo văn bản còn là cơ sở để so sánh, đánh
giá hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật sau khoảng thời gian thi hành
nhất định. Việc đánh giá hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ xã hội có tác dụng nắm bắt được những gì đang
thực sự diễn ra trong thực tế, những gì chưa phù hợp, những vướng mắc để
hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật nói riêng, hệ thống pháp luật nói

chung trong tương lai. Việc đánh giá hiệu quả tác động cũng nhằm nâng cao
chất lượng văn bản pháp luật, nâng cáo tính cạnh tranh của nền kinh tế, nâng
cao tính công bằng xã hội.
1.2.2. Các tiêu chí cơ bản để đánh giá tác động của văn bản quy phạm
pháp luật tới việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Muốn đánh giá một cách chính xác các tác động của văn bản quy phạm
pháp luật, không chỉ nghiên cứu bản thân văn bản quy phạm pháp luật đó, mà
còn dựa vào những căn cứ khác mới thấy được sự điều chỉnh của văn bản
pháp luật đó lên quan hệ xã hội có tác động tích cực hay tiêu cực, có thực sự
hiệu quả không. Trước tiên phải xác định mục đích, yêu cầu, định hướng đặt
ra cho pháp luật nói chung cũng như với từng quy phạm pháp luật nói riêng,
những kết quả mong muốn đạt được từ văn bản pháp luật đó. Tuy nhiên, chỉ
tìm hiểu mục đích, yêu cầu, định hướng, mong muốn đạt được khi ban hành
pháp luật thì chưa thể đánh giá được hiệu quả pháp luật. Sự điều chỉnh của


18

pháp luật lên các quan hệ xã hội bao giờ cũng gây ra những biến đổi nhất
định. Giữa kết quả đạt được trong thực tế do sự tác động của pháp luật với
những mục đích, yêu cầu đặt ra cho pháp luật luôn tồn tại một sự tương quan
nhất định. Do vậy, cần phải xem xét trạng thái các quan hệ xã hội trước khi
pháp luật điều chỉnh và những thay đổi thực tế của chúng sau khi pháp luật
điều chỉnh. Nếu kết quả trong thực tế phù hợp với những mục đích, yêu cầu,
định hướng ban đầu thì pháp luật được xem là có hiệu quả, ngược lại sẽ “phản
hiệu quả” khi nó trái với mục đích, yêu cầu, định hướng đặt ra khi ban hành
pháp luật.
Thứ nhất, trạng thái của các quan hệ xã hội khi pháp luật chưa
điều chỉnh
Để đánh giá được sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật, phải

xác định được trạng thái của các quan hệ xã hội khi pháp luật chưa điều
chỉnh. Chỉ khi đánh giá đúng trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội thì
mới có cơ sở để so sánh với trạng thái của chúng sau khi pháp luật đã điều
chỉnh nhằm xác định những biến đổi của các quan hệ xã hội, đánh giá đúng
các kết quả thực tế do sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật mang lại.
Trước khi ban hành Luật trọng tài thương mại, Ban soạn thảo đã lập ra “Báo
cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh trọng tài 2003”, trong đó nêu ra những điểm
đã đạt được cũng như những bất cập và thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt
Nam, để có những căn cứ cho việc xây dựng Luật hợp lý và hiệu quả.
Thứ hai là những mục đích, yêu cầu và định hướng của văn bản
quy phạm pháp luật
Mục đích, yêu cầu và định hướng đề ra khi ban hành văn bản quy phạm
thể hiện ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau nên việc nghiên cứu hiệu quả
của pháp luật cần được đặt ra ở những cấp độ và phạm vi nhất định. Sự hiệu
quả của pháp luật phụ thuộc vào sự tác động đồng bộ, có hiệu quả của tất cả


19

các chế định luật, các quy phạm pháp luật. Vì vậy, khi đánh giá tác động của
Luật trọng tài thương mại, cần đánh giá tác động của từng chế định như thỏa
thuận trọng tài, trọng tài viên, thẩm quyền của trọng tài, trung tâm trọng tài,
phán quyết trọng tài,…, thậm chí đánh giá tác động của từng quy phạm .
Thứ ba là những kết quả đạt được do sự tác động của pháp luật
mang lại
Xác định những biến đổi thực tế do sự tác động của pháp luật cần căn
cứ vào trạng thái của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh, nghĩa là,
xác định và so sánh trạng thái của các quan hệ xã hội khi pháp luật đang xem
xét điều chỉnh với trạng thái của chúng khi chưa có sự điều chỉnh của pháp
luật. Biến đổi đó bao gồm những biến đổi tích cực và những biến đổi không

tích cực, những ảnh hưởng không tốt phát sinh do tác động điều chỉnh của
pháp luật mang lại. Những thay đổi về trạng thái của quan hệ xã hội được thể
hiện ở hành vi và ý thức pháp luật của chủ thể pháp luật, ở những lợi ích vật
chất và tinh thần được tạo ra nhờ sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã
hội mang lại. Nếu những biến đổi tích cực đạt được do tác động của pháp luật
phản ánh đúng mục đích, yêu cầu, định hướng đề ra khi ban hành pháp luật
thì pháp luật có thể được xem là có hiệu quả. Những yêu cầu, định hướng khi
ban hành pháp luật và những biến đổi thực tế do sự tác động của pháp luật cần
được xác định theo cùng một tiêu chuẩn, trong cùng một phạm vi. Có như vậy
thì việc so sánh tương quan giữa những biến đổi thực tế do sự tác động của
pháp luật với mục đích, yêu cầu và định hướng đề ra cho pháp luật mới chính
xác.
Vì vậy, khi xem xét những biến đổi thực tế do sự tác động của pháp
luật cần tính tới cả những biến đổi tích cực và cả những biến đổi không tích
cực nếu có. Một số văn bản quy phạm pháp luật có thể vừa có những tác dụng
tốt vừa có những hạn chế, những tác dụng không tốt nhất định. Ví dụ như khi


20

ban hành Luật đâu tư, mặt tích cực của nó là thu hút được vốn, tranh thủ được
công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động
Việt Nam, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Bên
cạnh những ưu điểm đó, Luật đầu tư có thể sẽ làm cho việc bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn của đất nước ta trở nên khó khăn hơn trước đây vì
không phải doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài nào cũng đến Việt Nam chỉ
với mục đích kinh doanh với phương châm hai bên cùng có lợi. Vì vậy, khi
đánh giá những biến đổi do sự tác động của pháp luật phải tính đến sự tương
quan giữa cái lợi và những cái không có lợi do quy định của pháp luật mang
lại, để cân nhắc và có hướng hoàn thiện thích hợp, chẳng hạn với những quy

định tuy có đem lại biến đổi tiêu cực nhất định nhưng lợi ích của nó là lớn
hơn thì có thể tiếp tục được sử dụng, những mặt hạn chế được khắc phục bằng
biện pháp khác.
Thứ tư, mức chi phí để đạt được các kết quả trong thực tế
Để đánh giá hiệu quả tác động của văn bản quy phạm pháp luật còn
phải xem xét cả mức chi phí để đạt được các kết quả trong thực tế. Tiêu chí
này cũng thể hiện tính kinh tế và tính hữu ích trong việc điều chỉnh pháp luật.
Những chi phí này đều cần phải ở mức thấp nhưng phải bảo đảm cho văn bản
pháp luật phát huy tốt nhất vai trò tác dụng của nó và đạt được kết quả thực tế
ở mức cao nhất.
Trên đây là những tiêu chí cơ bản để đánh giá tác động của văn bản quy
phạm pháp luật nói chung và Luật Trọng tài thương mại nói riêng. Việc xem
xét đánh giá chúng có thể được thực hiện ở những phạm vi và cấp độ khác
nhau, nên trong từng trường hợp cụ thể, những tiêu chí này cần được cụ thể
hóa trên cơ sở xác định rõ mục đích, yêu cầu và mức độ cần thiết của việc
đánh giá để vận dụng các tiêu chí trên một cách thích hợp.


×