BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc Cường
HÀ NỘI - 2011
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các thầy cô giáo
trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho em những kiến thức cần thiết trong suốt
quá trình học tập dưới mái trường này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy giáo - TS. Bùi Ngọc
Cường - giảng viên khoa Pháp luật Kinh tế - trường Đại học Luật Hà Nội. Thầy là
người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt thời gian em hoàn thành bản
luận văn này.
Qua đây, em cũng xin được gửi lời cảm ơn gia đình cùng toàn thể bạn bè
đã luôn giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình học
tập vừa qua.
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu Hiền – CH17.021
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Xin đọc là
1
BVNTD
Bảo vệ người tiêu dùng
2
CI
3
NTD
Người tiêu dùng
4
LHQ
Liên hợp quốc
5
Thương nhân
Tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
6
VINASTAS
7
EU
8
OECD
9
UNEP
Tổ chức quốc tế người tiêu dùng (Consumers
International)
Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
(Vietnam Standard and Consumer Association)
Liên minh Châu Âu (European Union)
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for
Economic Co-operation and Development)
Chương trình môi trường của Liêp hợp quốc (United
Nations Environment Programme)
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG
NHÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG........................ 6
1.1.Cơ sở xác định trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ..... 6
1.1.1. Quan hệ giữa thương nhân và NTD .................................................................... 6
1.1.2. Thói quen tiêu dùng và năng lực tự bảo vệ của NTD Việt Nam khi tham gia vào
các giao dịch tiêu dùng ................................................................................................ 10
1.1.3. Nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD ........................................................................ 12
1.2.
Vai trò của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD ........................ 14
1.2.1. Khái quát chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ....................................... 14
1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ..................................................... 17
1.3.Kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng và vận hành cơ chế pháp lý BVNTD đối
với Việt Nam ............................................................................................................... 20
1.3.1. Vài nét về tình hình BVNTD trên thế giới ....................................................... 20
1.3.2. Những nỗ lực quốc tế BVNTD ........................................................................ 23
1.3.2.1. Tổ chức Quốc tế NTD CI ......................................................................................... 23
1.3.2.2. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về BVNTD ........................................................... 24
1.3.3. Kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế pháp lý BVNTD ở một số nước trên
thế giới ......................................................................................................................... 25
1.3.3.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ......................................................................................... 25
1.3.3.2. Kinh nghiệm của Pháp .............................................................................................. 25
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam............................................................ 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA THƯƠNG NHÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU
DÙNG............................................................................................................................ 29
2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của thương
nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ............................................................... 29
2.1.1. Trách nhiệm của thương nhân đối với việc cung cấp thông tin trung thực về hàng
hóa, dịch vụ cho NTD ................................................................................................. 29
2.1.2. Trách nhiệm của thương nhân trong việc đảm bảo chất lượng, số lượng hàng
hóa, dịch vụ ................................................................................................................. 34
2.1.2.1. Trách nhiệm đảm bảo chất lượng hàng hóa, dịch vụ ............................................. 34
2.1.2.2. Trách nhiệm đảm bảo số lượng hàng hóa, dịch vụ ................................................ 36
2.1.3. Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo đảm trung thực về giá cả hàng hóa,
dịch vụ ......................................................................................................................... 37
2.1.4. Trách nhiệm của thương nhân trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của NTD đối
với các hợp đồng mẫu, các điều kiện giao dịch chung ................................................ 41
2.1.5. Trách nhiệm của thương nhân đối với hoạt động quảng cáo, khuyến mại không
trung thực, xâm phạm lợi ích của NTD....................................................................... 47
2.1.5.1. Đối với hoạt động quảng cáo.................................................................................... 47
2.1.5.2. Đối với hoạt động khuyến mại ................................................................................. 50
2.1.6. Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo hành và thu hồi hàng hóa có khuyết
tật.................................................................................................................................. 53
2.1.6.1. Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo hành hàng hóa .............................. 53
2.1.6.2. Trách nhiệm của thương nhân trong việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật........... 56
2.1.7. Trách nhiệm của thương nhân đối với sản phẩm do mình sản xuất, cung cấp.. 58
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong công tác
BVNTD ............................................................................................................. 63
2.2.1. Các quy định về trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD
còn mang tính tuyên ngôn, thiếu tính khả thi trên thực tế ........................................... 63
2.2.2. Một số quy định về BVNTD trong các văn bản còn trùng lặp và mâu thuẫn với nhau .. 64
2.2.3. Cơ chế xử lí vi phạm còn phức tạp, hệ thống chế tài áp dụng đối với các hành vi
vi phạm quyền lợi NTD còn bất hợp lý ....................................................................... 65
2.2.4. Chưa có những quy định hữu hiệu giúp khôi phục lợi ích cho NTD ................ 66
2.2.5. Chưa thừa nhận yêu cầu bảo vệ đặc biệt đối với NTD...................................... 68
2.2.6. Pháp luật hiện hành chưa tạo ra một cơ chế phối hợp và phân công trách nhiệm rõ
ràng giữa các cơ quan có thẩm quyền trong công tác BVNTD .................................. 69
2.2.7. Quy định của pháp luật hiện hành chưa tạo ra một cơ chế hữu hiệu giúp các tổ
chức BVNTD hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả............................................ 69
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG
NHÂN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT
NAM .............................................................................................................................. 70
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ
quyền lợi NTD .................................................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của thương nhân, nâng cao
hiệu quả hoạt động BVNTD ở Việt Nam............................................................... 72
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành .................................................. 72
3.2.1.1. Quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin .................................................. 72
3.2.1.2. Quy định về ghi nhãn hàng hóa................................................................................ 73
3.2.1.3. Quy định về trách nhiệm đảm bảo chất lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ ....... 74
3.2.1.4. Quy định về trách nhiệm quảng cáo trung thực, chính xác ......................... 74
3.2.1.5. Quy định về hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung .......................... 74
3.2.1.6. Quy định về trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện ....................... 76
3.2.1.7. Quy định về trách nhiệm sản phẩm của thương nhân ........................................... 76
3.2.2. Hoàn thiện thiết chế thực thi pháp luật BVNTD ............................................... 83
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm xã hội của thương nhân ................................................. 85
3.2.4. Xây dựng cơ chế tự vệ cho NTD....................................................................... 86
3.2.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD bằng
biện pháp hành chính ................................................................................................... 88
3.2.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD bằng
biện pháp dân sự .......................................................................................................... 88
KẾT LUẬN................................................................................................................... 90
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thời đại nào cũng vậy, con người luôn là chủ thể xây dựng và là khách thể
được quan tâm bảo vệ nhất của hệ thống pháp luật. Với mong muốn xây dựng một xã
hội công dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” thì ngoài việc tạo ra một khung pháp lý cho sự tự do cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, pháp luật còn có một nhiệm vụ hết sức quan trọng là bảo vệ quyền lợi
của con người trong đó có NTD, một lực lượng chủ yếu và đông đảo trong xã hội.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thấy tầm quan trọng và sự cấp thiết của
công tác BVNTD, có chính sách tôn trọng các quyền của NTD, có biện pháp chống lại
sự lạm dụng của các nhà sản xuất, kinh doanh. Kể từ sau năm 1986, khi Việt Nam vận
hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì công tác bảo
vệ quyền lợi NTD mới được đặt ra với tính chất là một vấn đề cấp thiết.
Việc thừa nhận nền kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới bên ngoài đang
làm thay đổi căn bản những vấn đề về nhận thức và phương pháp điều tiết của Nhà
nước trong việc BVNTD ở Việt Nam. Từ vai trò của người buộc phải chấp nhận sản
phẩm trong cơ chế kinh tế cũ, NTD Việt Nam đã trở thành người chấp nhận giá.
NTD là “thượng đế” do họ có khả năng, điều kiện và một phạm vi lựa chọn rộng lớn
- quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền. Song cách hiểu này cũng cần phải có điều kiện vì
khả năng lựa chọn của NTD không thể vượt quá giới hạn khả năng sản xuất và sự
cung ứng của nhà kinh doanh. Thực tế đã minh chứng, nền kinh tế thị trường bên
cạnh việc mang lại cho NTD nhiều lợi ích với việc họ có cơ hội mua, sử dụng những
hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt với giá cả hợp lý. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế
thị trường cũng tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại cho quyền lợi NTD (hàng giả,
hàng kém chất lượng,…). Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của nhiều phương
thức kinh doanh hiện đại và không ít trong số đó đã du nhập vào Việt Nam. Bởi vậy,
trong điều kiện các thiết chế thị trường chưa hoàn thiện, tính minh bạch chưa được
đảm bảo thì “thượng đế” luôn có nguy cơ trở thành “nạn nhân” trước sự lạm dụng ưu
2
thế của nhà kinh doanh thông qua phương thức kinh doanh gian dối, thiếu trung thực
và được ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi. Vì vậy, nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của thương nhân trong công tác BVNTD là việc làm cần thiết và cấp bách hơn
lúc nào hết, góp phần bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và
minh bạch.
Trong bối cảnh đó, với việc lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của thương nhân
trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam hiện nay” tác giả luận văn muốn
khẳng định ý nghĩa to lớn của công tác bảo vệ quyền lợi NTD trong điều kiện kinh tế
thị trường; nâng cao trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của giới thương nhân trong
công tác bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NTD; góp phần thực thi có hiệu quả
Luật Bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BVNTD, pháp luật BVNTD và đặc biệt là trách nhiệm của thương nhân trong
công tác BVNTD là những nội dung nghiên cứu khá mới mẻ ở Việt Nam. Có thể
thấy, gần đây để phục vụ cho việc xây dựng dự thảo Luật BVNTD thì các vấn đề này
càng được xã hội và các nhà khoa học đặc biệt quan tâm.
Đó là: Luận văn Thạc sỹ “Pháp luật về BVNTD ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Bùi Thị Long (2007); Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Nghiên cứu vai
trò của Hội BVNTD trong việc BVNTD ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Thị Vân Anh
làm chủ nhiệm đề tài (2011); Bài viết “Bảo vệ quyền lợi NTD trong pháp luật cạnh
tranh” của Thạc sỹ Ngô Vĩnh Bạch Dương, tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
11/2000; Bài viết “Pháp luật và vấn đề BVNTD” của tác giả Đặng Vũ Huân đăng
trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng 1/2005;
Bài viết “Gian lận chuyện thực thi pháp luật BVNTD” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh
đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2007; Bài viết “NTD và pháp luật
BVNTD” của tác giả Nguyễn Ngọc Sơn đăng trên Nghiên cứu lập pháp số 1/2009;
Tham luận “Pháp luật về các thiết chế BVNTD” của GS. TS. Lê Hồng Hạnh tại Hội
thảo khoa học của Viện Konrad Adenauer và Bộ Tư pháp Việt Nam (7/2010, tại TP
Hồ Chí Minh); Bài viết “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi
NTD” của PGS. TS. Nguyễn Như Phát đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
2/2010 v.v. Các bài viết nói trên chỉ dừng lại ở mức độ thông tin cho người đọc về
3
thực trạng pháp luật BVNTD và bước đầu đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật BVNTD; hoặc xem xét vấn đề BVNTD dưới góc độ của Luật Cạnh tranh,
Luật Thương mại v.v.
Tạp chí NTD và một số báo điện tử như: Vietnamnet, Vietnamexpress v.v. có một số
bài viết giới thiệu những thông tin đơn thuần về những vụ vi phạm pháp luật
BVNTD. Những bài viết này chưa mang tính nghiên cứu cao.
Từ những phân tích trên có thể thấy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về “Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt
Nam hiện nay” đặc biệt trong bối cảnh Luật Bảo vệ quyền lợi NTD vừa được thông qua
và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 là thực sự cần thiết cả về phương diện lý luận và thực
tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một đề tài tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sỹ luật học,
luận văn không có tham vọng nghiên cứu tất cả các khía cạnh của chế định trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD mà chỉ tập
trung phân tích, đánh giá vai trò, trách nhiệm thương nhân trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của NTD. Trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá mang tính tổng
quan về thực trạng pháp luật hiện hành, góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động BVNTD. Các quy định về chế độ trách nhiệm của cá nhân hoạt
động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh không thuộc
phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu làm sáng tỏ trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo
vệ quyền lợi NTD, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng rộng rãi các
phương pháp nghiên cứu khoa học. Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là
các nguyên tắc và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát
triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân
tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội dung
khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn rất chú trọng phương pháp so sánh luật; kết
4
hợp giữa lý luận với thực tiễn, chứng minh, làm sáng tỏ luận điểm bằng các ví dụ
thực tế.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được viết trong thời điểm mà nhận thức của giới thương nhân về vai
trò, trách nhiệm trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD còn rất hạn chế, vi phạm
quyền lợi NTD xảy ra thường xuyên trong thực tế và không ngừng gia tăng cả về số
lượng, mức độ. Vì vậy, mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực trạng pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ
quyền lợi NTD; phân tích, đánh giá, chứng minh trách nhiệm của thương nhân khi
cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho NTD; từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thực thi có
hiệu quả chế định trách nhiệm của thương nhân đối với NTD nói riêng và pháp luật BVNTD
nói chung.
Để thực hiện được những mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Làm rõ cơ sở xác định trách nhiệm của thương nhân đối với quyền lợi NTD;
- Phân tích vai trò của pháp luật về trách nhiệm của thương nhân đối với việc
bảo vệ quyền lợi NTD;
- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng và vận hành cơ chế
pháp lý BVNTD và bài học đối với Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về chế độ trách nhiệm
của thương nhân trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD;
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra giải pháp nhằm thực thi có hiệu
quả chế định trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD.
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo tương đối hệ thống về chế định trách nhiệm
của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ở nước ta hiện nay. Bằng việc nghiên
cứu khá sâu sắc chế định này, luận văn đem đến cái nhìn khái quát nhất về vai trò, trách
nhiệm của thương nhân đối với công tác BVNTD, trên cơ sở những đánh giá, phân tích
bằng những ví dụ thực tế luận văn hy vọng sẽ góp phần thiết thực vào việc thực thi có
hiệu quả Luật Bảo vệ quyền lợi NTD trong thời gian tới.
5
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và
phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo
và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm của thương nhân đối với việc
bảo vệ quyền lợi NTD;
Chương II: Những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về trách nhiệm
của thương nhân trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD;
Chương III: Thực trạng bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam và một số giải
pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về trách nhiệm của thương nhân đối với
NTD.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
THƯƠNG NHÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Cơ sở xác định trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD
1.1.1. Quan hệ giữa thương nhân và NTD
Tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội, nhất là
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Tiêu dùng gồm hai loại: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng đời sống. Trong quá
trình sản xuất, con người cần phải tiêu dùng một số nguyên liệu nhất định và công cụ
sản xuất bị bào mòn. Đây chính là tiêu dùng sản xuất, loại này được tiến hành trong
lĩnh vực sản xuất, gồm có quá trình sản xuất và quá trình liên quan trực tiếp tới sản
xuất. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh
doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật BVNTD. Tiêu dùng đời sống là
sự tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt bảo đảm cho con người tồn tại và phát triển.
Mác nói: “Trong quá trình ăn uống, một trong những hình thức tiêu dùng con người
sản xuất ra bản thân cơ thể của mình điều đó hoàn toàn đã rõ… nhưng điều đó cũng
có giá trị với mọi hình thức tiêu dùng khác, những hình thức tiêu dùng này về mặt
này hay mặt khác, mỗi hình thức một kiểu, đang góp phần vào việc sản xuất ra con
người” [36, tr.864]. Nghĩa là tư liệu tiêu dùng được sử dụng trong đời sống là cần
thiết để tái sản xuất và phát triển văn hóa của bản thân con người. Ngoài ra tiêu dùng
sản xuất không phải là mục đích cuối cùng của hoạt động kinh tế của loài người mà
chỉ là phương tiện làm cho tiêu dùng đời sống có thể liên tục phát triển. Với ý nghĩa
ấy, tiêu dùng sản xuất cần phải dựa vào tiêu dùng đời sống, phục vụ cho tiêu dùng
đời sống. Đương nhiên, không có sản xuất thì cũng không thể có tiêu dùng thực sự.
Nhưng không có tiêu dùng đời sống của loài người thì sản xuất cũng mất hết ý nghĩa
và trở thành sản xuất không có mục đích, biến thành sản xuất dự trữ lãng phí đặc
biệt. Chính vì thế, sản xuất cần có tiêu dùng đời sống, đó là một quá trình mâu thuẫn,
tiêu dùng đời sống là một mặt đối lập với sản xuất đồng thời lại là sợi dây liên kết
giữa sản xuất và tiêu dùng [55, tr.8]. Điều đó cũng cho thấy mối quan hệ biện chứng,
7
không thể tách rời giữa sản xuất và tiêu dùng và trong mối quan hệ ấy thương nhân và
NTD đã xuất hiện.
Trong quá trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa thương nhân và NTD, tác giả
luận văn nhận thấy rằng, mối quan hệ này luôn gắn liền với quan điểm của Nhà nước
Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới về “tính yếu thế” của NTD trong quan hệ với
nhà sản xuất, người cung cấp hàng hóa, dịch vụ (thường được gọi chung là "thương
nhân"1).
Tính yếu thế đó thể hiện ở 4 khía cạnh quan trọng sau:
- Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng hoá, dịch vụ
trong quan hệ mua bán, trao đổi. Trong quan hệ giao dịch trên thị trường, mối quan
hệ giữa bên cung cấp hàng hoá, dịch vụ và NTD thường có sự không cân xứng về
thông tin, hiểu biết về chất lượng, tính năng, công dụng, độ bền, các ích lợi của hàng
hoá, dịch vụ. Người mua hàng hoá, dịch vụ, do không được trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất hàng hoá, dịch vụ, cũng như do những hạn chế trong hiểu biết về
chuyên môn, kỹ thuật thường không hiểu được đầy đủ về tính năng, công dụng, chất
lượng, các rủi ro liên quan tới quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ khi so sánh với nhà sản
xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ.
- Yếu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch. Do phía người
bán trong quan hệ mua bán với NTD là các thương nhân hoạt động thường xuyên,
liên tục trong việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nên các thương nhân
này nói chung có tính chuyên nghiệp cao hơn trong kinh nghiệm đàm phán, thiết lập
hợp đồng, giao dịch. Ngoài ra, với tiềm lực tài chính thường lớn hơn so với NTD,
các thương nhân này có thể tự trang bị cho mình các phương tiện, sử dụng nguồn
nhân lực (chẳng hạn sử dụng luật sư, các chuyên gia tư vấn v.v.) có chất lượng cao
để giành ưu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng, quan hệ với NTD. Trong
thực tiễn giao dịch hiện nay giữa thương nhân và NTD, hầu hết các thương nhân đều
sử dụng các loại hợp đồng mẫu trong đó nhiều điều khoản trong hợp đồng được coi
1
Khái niệm "thương nhân" trong các đạo luật về BVNTD của các nước trên thế giới (như Pháp, Canada, Nhật
Bản v.v.) thường được hiểu rộng hơn khái niệm "thương nhân" trong pháp luật thương mại. Khái niệm
"thương nhân" trong các đạo luật về BVNTD còn được hiểu bao gồm cả các tổ chức cung ứng dịch vụ có tính
nghề nghiệp như bệnh viện, cơ sở đào tạo v.v.
8
là quy định mặc nhiên, NTD không có cơ hội thảo luận, thay đổi các điều khoản này
(ngoài các điều khoản về giá cả và số lượng).
- Yếu thế về khả năng chi phối giá cả, các điều kiện kinh doanh, giao dịch trên
thị trường. Trong nhiều trường hợp, một số thị trường bị chi phối bởi chỉ một vài
(thậm chí là một) thương nhân tiến hành kinh doanh trên thị trường đó. Thị trường về
xăng dầu, điện, nước, gas, điện thoại, điện thoại di động, hàng không, đường thủy,
đường sắt, ngân hàng, bảo hiểm v.v. là các ví dụ điển hình. Trong trường hợp này,
với mong muốn tối đa hoá lợi nhuận, nếu không có sự can thiệp hợp lý của Nhà
nước, các thương nhân có thể có các hành động gây thiệt hại cho quyền lợi của NTD
bằng việc áp đặt cho NTD phải chịu những nghĩa vụ không hợp lý.
- Yếu thế về khả năng chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm. Do tiềm lực
tài chính có hạn, khi xảy ra các rủi ro (tai nạn) phát sinh trong quá trình sử dụng hàng hoá,
dịch vụ, NTD sẽ rơi vào tình trạng rất khó khăn khi phải tự mình trang trải các chi phí
khắc phục các loại rủi ro này. Trong khi đó, nếu gánh nặng chi phí ngăn ngừa, gánh chịu
rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm (mà NTD không có lỗi) được chuyển sang cho
nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ, thì khả năng trang trải các chi phí này sẽ cao
hơn.
Ngoài ra, trong quan hệ mua bán, giao dịch với các thương nhân, NTD còn có
thể gặp các bất lợi khác như không nắm bắt được các thông tin về giá cả của các loại
hàng hoá, dịch vụ tương tự, chất lượng dịch vụ hậu mãi, hiểu biết pháp luật thấp, không
nắm bắt được các thông tin về uy tín của chính thương nhân trên thị trường, v.v.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD 2010, thì “NTD là người
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia
đình, tổ chức”. Như vậy, quan hệ giữa NTD và người bán, người cung cấp hàng hóa,
dịch vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng dân sự và tranh chấp từ quan hệ đó cần được
hai bên tự giải quyết theo nguyên tắc hòa giải hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, bên cạnh pháp luật tố tụng dân sự hay pháp luật trọng tài, trong hệ thống pháp
luật của nhiều quốc gia chúng ta còn tìm thấy nhóm quy phạm pháp luật về bảo vệ
quyền lợi NTD với các quy định về trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ và quyền lợi, trách nhiệm của NTD. Sự tồn tại của nhóm quy phạm
9
pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD cho thấy sự “can thiệp” của Nhà nước vào quan
hệ kinh doanh của các chủ thể dân sự.
Mục tiêu trước hết của Pháp luật Bảo vệ quyền lợi NTD là bảo đảm sự cân
bằng về lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Ai cũng biết, trong quan hệ
mua bán, trao đổi, do những hạn chế về thông tin, kiến thức chuyên môn, về các
nguồn lực, về khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng và khả năng tự bảo vệ khi có
tranh chấp nên NTD thường ở vị thế yếu hơn so với người sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Trong xã hội công nghiệp và nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa như
hiện nay, hàng hóa, dịch vụ không còn là sản phẩm của sự sản xuất giản đơn, hay do
một thương nhân cung cấp mà là sự kết tinh của thành tựu khoa học, công nghệ, là
kết quả của quá trình sản xuất mang tính chuyên môn hóa cao, của sự tham gia của
nhiều nhà sản xuất, phân phối, kinh doanh ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Như vậy,
với kinh nghiệm và sự cảm nhận thông thường không thông qua sự trợ giúp của các
phương tiện kỹ thuật thì NTD tự mình khó có thể đánh giá đúng được giá trị thực tế,
chất lượng sản phẩm, xuất xứ hàng hóa, dịch vụ… cũng như phát hiện được các
khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, sự phức tạp của các quy định pháp luật
cũng làm cho NTD thêm khó khăn trong việc hiểu và vận dụng chúng. Trái lại, giới
thương nhân do hoạt động chuyên nghiệp, thường xuyên với một loại nhóm hàng
hóa, dịch vụ cũng như do giao dịch với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau nên
có nhiều kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp hơn so với NTD. Thêm
vào đó, số lượng có hạn người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (trong sự so
sánh với số lượng NTD) cũng như việc sử dụng các hợp đồng được soạn thảo sẵn và
nghệ thuật quảng cáo của nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cũng làm hạn
chế thêm cơ hội lựa chọn và chi phối, tác động đến ý thức của NTD khi quyết định
trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Cũng cần phải nói thêm rằng với khối tài sản, vốn
kinh doanh, bộ máy giúp việc, các phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh
doanh, giới thương nhân có nhiều lợi thế hơn hẳn NTD về phương diện nguồn lực tài
chính, kỹ thuật, nhân sự. Trong quan hệ pháp luật với thương nhân, NTD là đối
tượng được điều chỉnh của pháp luật về quyền công dân và bảo vệ quyền công dân.
Trong quan hệ mua bán, trao đổi, NTD có các quyền phát sinh trên cơ sở hợp đồng
ký kết giữa họ với người bán, người kinh doanh. Quyền phát sinh trên cơ sở hợp
10
đồng là quyền thứ phát, là cấp độ thể hiện thứ hai của quyền công dân và được tạo ra
trên cơ sở năng lực pháp luật và từ sự thể hiện năng lực hành vi của công dân. Ở đây,
quyền lợi của NTD trong quan hệ với người bán, người cung cấp dịch vụ được bảo
vệ theo các nguyên tắc của hợp đồng, luật Dân sự, luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa… Và tranh chấp, thiệt hại phát sinh từ quan hệ đó được giải quyết theo các
nguyên tắc và thủ tục của pháp luật Tố tụng dân sự hoặc luật Trọng tài. Sự tồn tại
của Pháp luật Bảo vệ quyền lợi NTD bên cạnh pháp luật về quyền công dân và bảo vệ
quyền công dân như Hiến pháp, luật Dân sự, luật Tố tụng dân sự… chính là một trong
những hiện tượng cho thấy sự bảo vệ của Nhà nước đối với NTD trong quan hệ giữa họ
với người bán, người cung cấp dịch vụ.
1.1.2. Thói quen tiêu dùng và năng lực tự bảo vệ của NTD Việt Nam khi tham
gia vào các giao dịch tiêu dùng
Qua quá trình nghiên cứu có thể rút ra một số đặc điểm của NTD Việt Nam
hiện nay như sau:
Thứ nhất, tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế giúp cho mức sống
của người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên.
Sự phân hoá giàu nghèo cũng ngày càng gia tăng và tạo ra nhu cầu tiêu dùng khác
nhau. Tâm lý sính hàng ngoại khá phổ biến cho mọi loại hàng hoá sử dụng và xu thế
thay thế hàng sử dụng ngày một tăng so với các thế hệ trước. Việc mua hàng hoá qua
thông tin quảng cáo, truyền miệng khá phổ biến. Bên cạnh đó, nhiều người mua hàng
đắt tiền nhưng hiệu quả sử dụng thấp (như điện thoại, ô tô…) đang trở thành một xu thế
tiêu dùng. Với thực trạng này, nguy cơ bị xâm phạm quyền lợi của NTD ở Việt Nam là
rất lớn.
Thứ hai, nhận thức về quyền của NTD rất thấp. Cho đến nay, số người nắm rõ
những quyền cơ bản của NTD không nhiều và cũng không có sự quan tâm thực sự
đến những quyền này. Quyền được thông tin đầy đủ của NTD còn bị hạn chế, nhiều
thông tin không nắm được làm hạn chế rất lớn đến quyền lợi của NTD. Các quyền
khác như quyền được giáo dục về tiêu dùng, quyền được sống trong môi trường lành
mạnh, quyền được lắng nghe,… còn chưa có khái niệm đầy đủ ở nhiều cấp nên NTD
vẫn chưa được biết hết và hưởng các quyền của mình.
11
Thứ ba, việc ghi nhận hệ thống quyền của NTD hiện nay còn chưa đầy đủ so
với hệ thống 8 quyền trong Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc năm 1985 về
BVNTD. Hơn nữa, những quyền của NTD hiện nay chỉ mới được quy định chính
thức ở Pháp lệnh BVNTD năm 1999 và một số văn bản điều tiết ngành. Bên cạnh đó,
việc phổ biến tuyên truyền pháp luật BVNTD còn chưa đạt hiệu quả cao nên dẫn đến
một thực trạng là bản thân NTD không biết mình có những quyền nào, cách thức để
bảo vệ khi bị xâm phạm ra sao. Điều này đã làm cho NTD Việt Nam không đủ khả
năng tự bảo vệ mình trong một chừng mực nhất định. Ngược lại, bản thân NTD Việt
Nam cũng chưa có ý thức tìm hiểu về quyền lợi của chính bản thân mình, dẫn đến
khó khăn trong việc tự bảo vệ quyền lợi cho mình.
Thứ tư, ý thức phản kháng của NTD Việt Nam còn hạn chế: không có thái độ
tẩy chay hàng tiêu dùng khi vi phạm đã bị phát hiện, không quan tâm thực hiện
những nghĩa vụ của NTD như trong quy định của Pháp lệnh BVNTD 1999. Điều này
cũng xuất phát một phần từ tư tưởng “cá nhân”, “cục bộ”.
Thứ năm, theo cơ chế hiện nay, khi có vi phạm, NTD phải có trách nhiệm
chứng minh, do vậy, NTD phải tự bỏ tiền để đi giám định, kiểm nghiệm. Điều này đã
dẫn đến tâm lý không muốn tốn thêm công sức, tiền bạc của mình nữa nên dễ cho
qua, không khiếu kiện nữa.
Thứ sáu, theo đánh giá chung, tâm lý của NTD Việt Nam là ngại va chạm, ngại
tham gia các thủ tục hành chính. Mặc dù thực trạng vi phạm xảy ra nhiều nhưng các cơ
quan quản lý nhà nước ít nhận được khiếu nại của NTD. Lý do cơ bản là tâm lý của
NTD từ trước đến nay bị chi phối bởi quan điểm là mình “được” mua hàng hóa; nhiều
trường hợp không dám khiếu kiện vì nghĩ là không thể thắng; thói quen của NTD
trong việc không giữ hóa đơn hoặc cố tình không lấy hoá đơn để có thể trốn thuế VAT
cũng làm cho việc khiếu nại của NTD khó khăn hơn bởi không có chứng cứ. Bên cạnh
đó, thực tế có nhiều khiếu nại không thể xử lý được; bản thân nhận thức của NTD
cũng còn yếu (theo đánh giá chủ quan của các cán bộ được khảo sát thì chỉ khoảng
60% NTD khi mua hàng thực phẩm có biết thông tin quan trọng nhất cần quan tâm là
hạn sử dụng).
12
1.1.3. Nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD
Sản xuất và tiêu dùng là hai mặt thiết yếu của bất cứ nền kinh tế và xã hội
nào. Muốn có tiêu dùng thì phải có sản xuất nhưng sản xuất là để tiêu dùng. Chính vì
thế, ngay từ thủa bình minh của lịch sử, NTD đã tồn tại. “NTD” với tư cách là một
khái niệm pháp lý, được coi là đối tượng quan tâm bảo vệ đặc biệt của pháp luật chỉ
mới xuất hiện vào khoảng những năm 1950-1960 của thế kỷ trước khi các đạo luật
BVNTD ra đời [64]. Điều này cho thấy, nhu cầu BVNTD bằng pháp luật chỉ mới
xuất hiện một cách cấp thiết vài chục năm trước ở các quốc gia công nghiệp phát
triển và với Việt Nam thì hiện nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyên môn hoá trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
nhu cầu đó ngày càng hiện hữu. Pháp luật BVNTD, vì thế, là sản phẩm có tính chất
lịch sử.
Trước thế chiến thứ Hai (nhất là giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), ở các
nước công nghiệp phát triển (Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật v.v.), nguyên tắc «laisezfaire» - còn gọi là học thuyết tự do cạnh tranh hoặc đôi khi có thể dịch là thứ kinh tế
thị trường hoang dã. “Nhà nước không cần và không nên can thiệp vào quyền tự quyết
của các tác nhân kinh tế, không can thiệp vào các quan hệ thị trường mà để các bên tự
do thương lượng, thoả thuận” được các quốc gia ứng dụng khá triệt để trong tổ chức
nền kinh tế của mình. Tinh thần của nguyên tắc này khi xem xét vấn đề của NTD là
«caveat emptor» (tức là hãy để người mua tự ý thức, quyết định, chọn lựa và chịu các
rủi ro liên quan tới các quyết định đó). Điều này cũng có nghĩa rằng, khi mua hàng,
NTD phải có trách nhiệm tự mình xem xét, phát hiện, cân nhắc thật kỹ các khuyết tật,
các loại rủi ro có thể nảy sinh để rồi quyết định nên hay không nên mua hàng hoá, dịch
vụ. Nhưng khi đã quyết định mua hàng hoá, dịch vụ rồi, NTD phải tự gánh chịu mọi
rủi ro liên quan tới việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó trừ khi người bán hàng có cam
kết khác. Đây là một dạng “mua đứt, bán đoạn”, rất sòng phẳng trong quan hệ thị
trường.
Cách tiếp cận ấy sẽ là hợp lý trong nền sản xuất mà các sản phẩm có thể dễ
dàng kiểm tra bằng kinh nghiệm, mắt thường của NTD. Đây là hình ảnh của một nền
sản xuất ở trình độ không quá cao. Quan hệ giữa nhà sản xuất, phân phối với NTD ở
vị thế tương đối bình đẳng về mặt thực tế.
13
Tuy nhiên, cùng với quá trình công nghiệp hoá, việc gia tăng các ứng dụng
khoa học, công nghệ trong việc sản xuất sản phẩm làm cho việc thẩm định chất
lượng của sản phẩm trở nên rất tốn kém và đòi hỏi có chuyên môn cao, quan hệ giữa
nhà sản xuất, phân phối với NTD không còn ở vị thế bình đẳng như trong nền sản
xuất giản đơn nữa.
Hiện nay, quá trình phát triển kinh tế tri thức, sự tác động ngày càng sâu của
cuộc cách mạng công nghệ (cách mạng công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ sinh học v.v.), toàn cầu hoá và sự phát triển thương mại điện
tử đang càng làm cho quá trình chuyên môn hoá có những bước nhảy vọt hơn nữa về
chất, khoảng cách giữa nhà sản xuất và NTD ngày càng xa nhau, sự chênh lệch giữa
hiểu biết của nhà sản xuất về sản phẩm với kiến thức mà NTD biết về sản phẩm ngày
càng lớn, quy mô kinh tế giữa thương nhân với NTD càng có sự chênh lệch. Điều đó
càng làm cho nhà sản xuất với NTD có độ chênh lệch lớn về vị thế thực tế. Trong bối
cảnh ấy, nếu NTD không có các công cụ hỗ trợ, việc NTD bị nhà sản xuất, phân phối
lạm dụng là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nếu chỉ trông chờ vào khả năng tự bảo vệ
của mình, NTD sẽ khó có thể phòng ngừa và khắc phục được những rủi ro trong quá
trình tham gia giao dịch với nhà sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ cũng như
trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Điều này đã được thực tiễn của không
chỉ ở các quốc gia công nghiệp phát triển mà còn ở chính Việt Nam chứng minh.
Đó chính là lý do vì sao, sự hiện diện của Nhà nước, sự can thiệp của Nhà
nước bằng pháp luật là cần thiết để quan hệ giữa thương nhân với NTD trở nên lành
mạnh, công bằng hơn. Khi xã hội càng phát triển, lĩnh vực pháp luật BVNTD sẽ
càng cần thiết và càng cần được quan tâm.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì vấn đề BVNTD càng trở nên bức thiết.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ góp phần đảm bảo sự vận hành lành mạnh của thị
trường hàng hoá, dịch vụ, đảm bảo công bằng xã hội [56]. Đây cũng là quan điểm
được các chuyên gia quốc tế thừa nhận. Từ kinh nghiệm BVNTD ở Canada, ông
Yvan Turcotte, Chủ tịch Văn phòng BVNTD bang Québec (Canada) cho rằng: Lý do
của sự can thiệp bằng pháp luật là nhằm đảm bảo cho nhà sản xuất, phân phối không
lợi dụng sự bất bình đẳng về vị thế của mình với NTD để có hành vi lạm dụng, hiện
thực hoá tính bình đẳng trong giao dịch đồng thời tái thiết niềm tin của NTD vào thị
14
trường. Thêm vào đó, ông Yvan Turcotte còn nhấn mạnh sự can thiệp của Chính phủ
vào nền kinh tế để BVNTD (thông qua việc khắc phục các yếu thế của NTD) hoàn
toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc hoạt động của thị trường tự do và việc đảm
bảo sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật [56].
Bảo vệ lợi ích của NTD là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tất cả
các quốc gia trên thế giới và đặc biệt cấp bách đối với các nước đang phát triển, bởi
xét từ khía cạnh kinh tế học, thì tiêu dùng là một khâu của quá trình tái sản xuất; là
mục đích và điều kiện tiên quyết của sản xuất. BVNTD thực chất cũng là bảo vệ sản
xuất, bảo đảm cho sản xuất phát triển vừa hiệu quả, vừa đúng hướng. Xét từ góc độ
xã hội và nhân văn thì rõ ràng con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự
phát triển bền vững, toàn diện và lâu dài; con người có quyền được hưởng một cuộc
sống hạnh phúc và lành mạnh; NTD có quyền được hưởng các sản phẩm an toàn,
phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
1.2. Vai trò của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD
1.2.1. Khái quát chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
Quan hệ tiêu dùng là một loại quan hệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua
bán, theo đó, NTD mua và/hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của người cung
cấp mà không vì mục đích kinh doanh (bán lại). Tuy nhiên, do tính chất xã hội của
quan hệ tiêu dùng mà NTD khó có cơ hội được tự do, bình đẳng vì họ luôn phải tham
gia vào mối quan hệ với đặc tính là “thông tin bất cân xứng”. Bên cạnh sự bất cân
xứng về thông tin, NTD còn có thể phải rơi vào tình trạng mất khả năng mặc cả khi
họ buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp độc quyền.
Thực tế là vậy, những kẻ có thế và lực mạnh hơn thường hành xử theo xu
hướng lạm dụng quyền lực trong quan hệ với kẻ yếu. Thêm vào đó, nếu như cứ có
300% lợi nhuận thì các nhà tư bản sẵn sàng “treo cổ” mình lên và vì vậy, họ cũng sẵn
sàng “khuyến mại” cho khách hàng và NTD những cạm bẫy pháp lý và kỹ thuật và
thậm chí còn cả những thứ độc hại [53]. Vì lẽ đó, mọi hệ thống pháp luật nhân đạo
đều phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu và như thế, pháp luật BVNTD sẽ như là một công cụ
hỗ trợ từ bên ngoài quan hệ dân sự để khắc phục những lỗ hổng về khả năng tự do và
bình đẳng của NTD trong quan hệ với nhà cung cấp để quan hệ dân sự có thể trở lại với
đúng nguyên tắc của nó.
15
Trên tinh thần đó, pháp luật BVNTD là loại pháp luật mang tính can thiệp vào
quyền tự do (do không nhận thức được quy luật) của các nhà cung cấp sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ và như thế, không có sự tự do và bình đẳng trong quan hệ pháp luật về
BVNTD.
Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh vực pháp luật khác như luật Cạnh tranh, luật An
toàn thực phẩm, luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và rộng ra là cả pháp luật Dân sự,
Hình sự đều có thêm mục đích là BVNTD. Tuy nhiên, nếu như những lĩnh vực pháp
luật này BVNTD theo phương pháp can thiệp vào hành vi của nhà sản xuất, kinh
doanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thông qua những hạn chế hoặc cấm đoán
hành vi thì pháp luật BVNTD (với tính cách là một chế định pháp luật độc lập) lại xuất
hiện ở phía NTD. Theo đó, pháp luật BVNTD sẽ tạo cho NTD những khả năng và cơ
hội thuận lợi hơn trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật quan hệ mua bán (theo Luật Dân
sự) mà một chủ thể pháp luật dân sự thông thường sẽ không có được.
Có thể định nghĩa khái quát, pháp luật BVNTD là tổng thể các quy phạm pháp
luật có mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NTD khi mua hoặc sử dụng hàng hoá,
dịch vụ. Theo quan niệm này, pháp luật BVNTD gồm quy phạm thuộc nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, miễn có chung mục đích bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NTD.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD liên quan đến hầu hết các lĩnh vực trong đời
sống - kinh tế xã hội. Do đó, một văn bản pháp luật không thể bao trùm hết tất cả các
lĩnh vực. Hay nói cách khác, để bảo vệ quyền lợi NTD phải sử dụng một hệ thống
quy phạm pháp luật điều chỉnh. Pháp luật BVNTD của hầu hết các nước trên thế giới
cũng cho thấy điều đó, ví dụ: tại Nhật Bản, ngoài Luật Bảo vệ quyền lợi NTD còn
gần 30 Luật chuyên ngành khác liên quan đến hoạt động BVNTD như: Luật hợp
đồng tiêu dùng, Luật giao dịch thương mại đặc định, Luật sinh học thực phẩm, Luật
chú thích sản phẩm, Luật khuyến khích các tổ chức phi lợi nhuận, Luật bảo vệ thông
tin cá nhân, Luật bình ổn giá, Luật bán hàng trả góp,… Liên quan đến hoạt động
BVNTD ở Việt Nam hiện nay cũng đang có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh như: Hiến pháp; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Hình sự; Luật Chất lượng sản
phẩm, hàng hóa; Luật Khám, chữa bệnh; Luật Cạnh tranh; Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật…
16
Các quy phạm pháp luật BVNTD tồn tại chủ yếu trong các văn bản pháp luật
thực định sau đây:
- Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của NTD năm 1999 và các văn bản hướng dẫn
thi hành (Nghị định số 55/2008/NĐ-CP ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD, thay cho Nghị định số 69/2001/NĐ-CP ngày
2/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD, v.v.); Pháp
lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị
định số 163/2004/NĐ-CP ngày 7/9/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm, v.v.); Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày
30/9/2006 về nhãn hàng hoá;
- Một số quy định pháp luật về BVNTD được quy định trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 (nhất là các quy định về bảo đảm chất lượng vật mua bán, bảo đảm thông
tin về vật mua bán, vấn đề bảo hành trong hợp đồng mua bán tài sản v.v.), các quy
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Các quy định về xử phạt hành chính trong những lĩnh vực có liên quan đến
BVNTD (hiện đang tồn tại rải rác trong một số Nghị định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực cạnh tranh, quảng cáo, thương mại, đo lường chất lượng hàng
hoá, an toàn vệ sinh thực phẩm như Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá; Nghị định số
126/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo
lường, và chất lượng sản phẩm, hàng hoá (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
95/2007/NĐ-CP); Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thương mại, v.v.).
- Các quy định về một số tội liên quan đến NTD trong Bộ luật Hình sự năm
1999 (chẳng hạn: tội sản xuất, buôn bán hàng giả tại Điều 156, Điều 157 và Điều
158; tội lừa dối khách hàng tại Điều 162; tội quảng cáo gian dối tại Điều 168; tội vi
phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Điều 244 v.v.).
- Các quy phạm pháp luật về BVNTD còn được quy định rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật quan trọng khác trong đó phải kể đến Luật Dược năm 2005; Luật Tiêu
chuẩn năm 2006; Pháp lệnh Đo lường năm 1999; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
17
năm 2007; Luật Công nghệ thông tin năm 2006 (có nội dung liên quan đến hoạt động
thương mại điện tử); Pháp lệnh Thú y năm 2004; Pháp lệnh Giá năm 2002; Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Luật sư năm 2006, v.v. và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
Đứng trước thực tế quyền và lợi ích hợp pháp của NTD bị xâm phạm một
cách nghiêm trọng, trước đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường, ngày
17/11/2010 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật
Bảo vệ quyền lợi NTD. Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Luật Bảo vệ
quyền lợi NTD sẽ là một đạo luật quan trọng có giá trị pháp lý cao trong hệ thống
pháp luật BVNTD. Nó sẽ là văn bản xương sống quy định trực tiếp các vấn đề quan
trọng để NTD dựa vào đó có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình. Luật này được xây
dựng xuất phát từ quan điểm coi NTD là trung tâm, có vị trí yếu thế trong quan hệ
với thương nhân. Bên cạnh Luật Bảo vệ quyền lợi NTD còn có rất nhiều văn bản liên
quan đến việc BVNTD. Chính vì vậy, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD không quy định
lại trong từng lĩnh vực cụ thể mà tiếp cận theo hướng chỉ quy định những vấn đề
mới, đặc thù chưa có văn bản hiện hành nào điều chỉnh để bảo vệ vị trí yếu thế của
NTD trong các quan hệ xã hội như: Hợp đồng theo mẫu, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, vấn đề bảo hành, việc thu hồi hàng hóa có
khuyết tật… và đặc biệt là tập trung thiết kế các cơ chế để NTD có thể tự bảo vệ
mình. Việc ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi NTD trong thời điểm hiện nay thực sự là
dấu mốc quan trọng trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, để làm tốt
công tác bảo vệ quyền lợi NTD cần có sự nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước,
cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và
của chính NTD. Hay nói cách khác, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội
thì việc thực thi Luật Bảo vệ quyền lợi NTD trong thời gian tới mới thực sự có hiệu
quả và bảo vệ được quyền lợi của NTD cũng như lợi ích chung của toàn xã hội.
1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
Trong môi trường kinh doanh lành mạnh, có trật tự, NTD còn có vai trò là
người trọng tài công minh, khách quan nhất khi đánh giá về chất lượng các sản phẩm
của thương nhân. Mấu chốt của kinh tế thị trường là nhu cầu và quyền lựa chọn của
NTD. Sức tiêu thụ và sở thích của NTD là trọng tâm hướng tới của thị trường, là
18
thước đo trung thực về hình thức, kiểu dáng và chất lượng của sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ. NTD có quyền lựa chọn những sản phẩm tốt nhất, phù hợp với yêu cầu của
họ. Do đó, để bảo vệ lợi ích của NTD, pháp luật còn có nhiệm vụ đảm bảo để tất cả
các loại thị trường luôn có tính cạnh tranh lành mạnh. Chỉ có như vậy mới bảo đảm
để các nhà sản xuất và NTD không thể lợi dụng ưu thế của mình trên thị trường và
lạm dụng lẫn nhau, giúp Nhà nước thực hiện hiệu quả chính sách bảo vệ lợi ích nhà
sản xuất và NTD (Điều 28 Hiến pháp 1992).
Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ và NTD luôn gắn
bó mật thiết và tác động lẫn nhau. Pháp luật quy định và bảo hộ quyền của NTD
trong việc lựa chọn sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quyền được thông tin trung thực về
chất lượng, giá cả, được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu dùng. Đồng thời
pháp luật cũng nghiêm cấm các chủ thể sản xuất kinh doanh có những hành vi gian
lận, sản xuất hàng giả, hàng nhái, những sản phẩm có thể gây nguy hại trực tiếp đến
tính mạng, sức khỏe con người, các hành vi lừa dối NTD, có những thông tin, quảng
cáo thiếu chính xác, sai sự thật về hàng hóa, dịch vụ gây phương hại đến lợi ích NTD
và lợi ích xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng yêu cầu bản thân NTD phải có trách
nhiệm tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi mua bán, sử dụng các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. NTD cần đề cao trách nhiệm trong việc phát hiện,
tố cáo các hành vi gian lận về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa,
giá cả và những hành vi lừa dối khác của các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đã và có thể gây phương hại cho bản thân mình và cộng đồng.
BVNTD là vấn đề bức thiết, vì thế ngay trong Hiến pháp 1992 đã nêu rõ, Nhà
nước có chính sách bảo vệ quyền lợi của NTD. Điều 623 Bộ luật Dân sự quy định về
bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi NTD. Pháp lệnh BVNTD 1999 và mới đây
là Luật Bảo vệ quyền lợi NTD là những công cụ pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ
quyền lợi NTD, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời đại mới. Các văn bản pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD nhằm tạo
ra một hành lang pháp lý cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD;
bảo vệ sự ổn định và cải thiện đời sống nhân dân bằng cách định ra trách nhiệm của
Nhà nước, của chính quyền địa phương và của thương nhân; định ra các biện pháp
đồng bộ để bảo vệ và đề cao quyền lợi của NTD. Việc thực hiện pháp luật BVNTD
19
còn góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát
triển kinh tế.
Pháp luật BVNTD có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NTD; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi
NTD. Việc Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định việc bảo vệ quyền lợi
NTD không những làm cho quyền lợi NTD được bảo vệ tốt hơn mà còn giúp lành
mạnh hóa các mối quan hệ trong xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đồng thời
cũng là duy trì và bồi dưỡng cho một động lực quan trọng về kinh tế. Nền kinh tế thị
trường càng phát triển thì vấn đề NTD và BVNTD càng cần đề ra một cách nghiêm
túc và cấp thiết.
Vai trò của pháp luật BVNTD được thể hiện ở những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, ghi nhận hệ thống các quyền của NTD. Hiện tại, theo Hướng dẫn
của Liên hợp quốc về BVNTD (năm 1985), NTD có 8 quyền cơ bản sau: (1) Quyền
được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; (2) Quyền được an toàn; (3) Quyền được
thông tin; (4) Quyền được lựa chọn; (5) Quyền được lắng nghe; (6) Quyền được
khiếu nại và bồi thường; (7) Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; (8) Quyền
được có môi trường sống lành mạnh và bền vững [38].
Tám quyền kể trên được coi là hệ thống quyền năng xương sống của NTD cần
được bảo vệ trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, cần được ghi nhận đầy đủ
trong pháp luật BVNTD của quốc gia.
Thứ hai, quy định cơ chế đảm bảo các quyền năng của NTD được tôn trọng
trên thực tế. Pháp luật BVNTD quy định trình tự, thủ tục thực hiện các quyền năng
của NTD, cách ứng xử của nhà sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ trong việc giải
quyết các yêu cầu của NTD, cách ứng xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
trường hợp phát hiện các vi phạm pháp luật về BVNTD, trình tự, thủ tục khởi kiện,
bảo vệ quyền lợi NTD, các biện pháp chế tài áp dụng cho các chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật về BVNTD (bao gồm chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài hình
sự v.v.).
Thứ ba, quy định các giải pháp pháp lý giúp NTD phòng ngừa và khắc phục
các vấn đề thường gặp phải trong quá trình tham gia giao dịch trên thị trường và