Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN BDTX THPT NĂM HOC 20172018( CÓ CẢ LIÊN HỆ CHUẨN) GỒM MODUL 9, MODUL 12, MODUL 29,36

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.94 KB, 21 trang )

SỞ GD&ĐT BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT VIỆT YÊN SỐ 2

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2017 - 2018

Nội dung 1: Nghiên cứu, học tập chỉ thị về đường lối, chính sách phát triển giáo dục,
việc học tập chính trị đầu năm học.
Họ và tên giáo viên:
Điểm chấm: …………………………………
Dạy môn: Vật lí Tổ: Vật lí- Công nghệ
(Bằng chữ: …………………………………..)
Họ tên giám khảo:
1. ……………………………………………..
2. …………………………………………….
Câu hỏi 1: Thầy (cô) hãy cho biết mục tiêu cụ thể theo nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương?
Câu hỏi 2: Thầy (cô) hãy cho biết nhiệm vụ và giải pháp về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo theo nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương?
Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao giáo dục toàn diện trong nhà trường THPT Việt Yên
số 2?
BÀI LÀM

Câu hỏi 1: Mục tiêu cụ thể theo nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hành
Trung ương:
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình
thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và
miễn học phí trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục
mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.


- Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng
lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ,
tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo,
tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai
đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông
nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận
nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập
giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ
thông và tương đương.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách
nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào
tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật
công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát
triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới
các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển
nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa
dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu
cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
- Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn,
vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên
môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề;
bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức
học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa.


- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài,
có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng

người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê
hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.

Câu hỏi 2: Nhiệm vụ và giải pháp về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương:
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục
và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo
và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao
nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách
nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em
mình.
Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng
thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công
cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học,
trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có
đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục-đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực
hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ
giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa
phương để xây dựng nhà trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự
báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt
hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện
tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo

hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục tiêu,
chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó
là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ
giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức,
trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và
ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng
nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng
của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và
truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương
trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng


lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết hợp chăm
sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu phát triển thể lực
và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo

đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số
môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo
khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc
thiểu số và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng,
tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với
từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng
phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng
bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí
tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng
kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người
dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của
xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm
áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực
học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở
kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và
cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả
học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo
hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề
nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng
lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở
giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ

sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính
sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở
giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm
tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ
sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình
giáo dục cộng đồng.
Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng
lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các
cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học
là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và
là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập
suốt đời và xây dựng xã hội học tập


Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng
sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi
mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát
triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy
hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống nhất tên gọi các
trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên
thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu
khoa học. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng
dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một
số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu
vực và thế giới.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở

tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư.
Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi
dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân
người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh
giá năng lực người học.
5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất
lượng
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và trách
nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý
nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách
nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung và chất lượng
giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam. Phát huy
vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý
nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản lý nhân
sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; chú trọng
quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, đào
tạo.
Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào tạo. Thực hiện
cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà giáo tham gia đánh giá
cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam;
quản lý học sinh, sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước và
theo hiệp định nhà nước.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò

của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai,
minh bạch.
6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập
quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới


tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học
có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản
lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường sư phạm,
trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở
đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có
phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách
nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực,
đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý
đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết
đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành
chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp

vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm
bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ
hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ... Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong
nước.
Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nhất là các
trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các viện nghiên cứu.
7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã
hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho
các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng,
phát triển các cơ sở giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành
mục tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập
đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.
Đối với giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp, Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng
một số trường đại học, ngành đào tạo trọng điểm, trường đại học sư phạm. Thực hiện cơ chế
đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại
hình dịch vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ sở đào tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với
chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các hoạt động liên
danh, liên kết đào tạo, sử dụng nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích
luỹ tái đầu tư.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học;
khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học,
người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các ngành đào tạo có khả năng xã
hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số
và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với

người học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ
đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh,


sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng,
khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng
đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo.
Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo.
Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi
tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào
tạo.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để có mặt
bằng xây dựng trường. Từng bước hiện đại h óa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng
công nghệ thông tin. Bảo đảm đến năm 2020 số học sinh mỗi lớp không vượt quá quy định của
từng cấp học.
Phân định rõ ngân sách chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học với ngân sách chi cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc hệ thống
chính trị và các lực lượng vũ trang. Giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh
phí.
8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc
biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao
năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục. Triển khai chương
trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu,
giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học
cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành,

trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại
học. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh
nghiệp khoa học và công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ
sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cho
các cơ sở giáo dục đại học. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển
khai công nghệ với các trường đại học công lập.
Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số trường đại
học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc tế, đủ năng lực hợp tác
và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu thế giới.
9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo
Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện
cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.
Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên các
ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên
cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo
với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.
Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công
nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế.
Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt
Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam.


Từ những nghiên cứu học tập của bản thân và kinh nghiệm giảng dạy cụ thể tại
trường THPT Việt Yên số 2. Tôi xin đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao giáo dục toàn

diện trong nhà trường THPT Việt Yên số 2 như sau:
Một là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ban Chi ủy Chi bộ, sự quản lý của BGH(Ban
giám hiệu) nhà trường cụ thể là:
- Đối với Chi ủy Chi bộ ra nghị quyết lãnh đạo hàng tháng, giao nhiệm vụ cho đảng viên, đồng
thời kiểm tra giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Chú trọng công tác phát triển
Đảng, thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức cho cán bộ đảng viên,
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong các Chi bộ trường
học.
- Đối với BGH cần tăng cường công tác quản lý trong mọi lĩnh vực. Xây dựng kế hoạch chỉ
đạo sát với nhiệm vụ năm của ngành và tình hình thực tế địa phương. Xây dựng tập thể nhà
trường thành khối đoàn kết thống nhất cao. Phát động và tổng kết nghiêm túc các phong trào
thi đua các cuộc vận động như phong trào thi đua xây dựng trường học thân thiện học sinh tích
cực, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi thầy cô giáo là
tấm gương tự học và sáng tạo. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong phong trào hội giảng, hội
thi giáo viên giỏi, và các hội thi khác, nhiệm vụ này đã được trường THPT Việt yên số 2 làm
khá tốt khi phối hợp giữa công đoàn và nhà trường trong những ngày 20/11, 08/3 và 26/3.
Chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều hình thức, từ cán bộ quản lí đến tổ
trưởng, khối trưởng chuyên môn và giáo viên như tổ chức các chuyên đề, hội thảo, hội thi, dự
giờ góp ý kiến.
Tăng cường mối quan hệ: Gia đình – Nhà trường – Xã hội, làm cho mối quan hệ thực sự
có ý nghĩa, có tác dụng thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tham mưu tốt với cấp uỷ chính quyền địa phương để làm tốt công tác “Xã hội hoá giáo
dục”, Tham mưu đề xuất đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trường học trang bị đầy đủ trang ,
thiết bị, đồ dùng dạy học, sách giáo khoa, sách tham khảo đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dạy và
học của giáo viên và học sinh, nhằm đáp ứng điều kiện phát triển của giáo dục nói chung và xã
hội nói riêng đến năm 2020.
Chú trọng xây dựng các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trong nhà trường nhằm hỗ trợ tích
cực cho các hoạt động của nhà trường nói riêng của địa phương nói chung góp phần hoàn
thành các nhiệm vụ Chính trị của địa phương.
Hai là: Đối với giáo viên là vai trò quyết định của chất lượng giáo dục toàn diện. Theo tôi,

giáo viên cần có chuyên môn vững, phải năng động sáng tạo trong công tác tổ chức, quản lý,
chỉ đạo và điều hành mọi hoạt động của học sinh.
- Phải nắm vững vai trò chủ đạo của Thầy, hướng tốt vào vai trò chủ động, sáng tạo tiếp thu
kiến thức mới của học sinh trong từng tiết dạy.
- Tích cực nghiên cứu chuyên môn, dự giờ thăm lớp đồng nghiệp không ngừng học hỏi để
nâng cao tay nghề.
- Thực hiện tốt ngày giờ công lao động và quy chế chuyên môn, nghiên cứu kỹ bài trước khi
lên lớp. Bài soạn chi tiết rõ ràng, nội dung kiến thức phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh.
Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, thiết bị dạy học phù hợp với từng tiết dạy.
- Trong giảng dạy chú trọng đến 3 đối tượng học sinh, rèn kĩ năng làm bài cũng như hướng dẫn
học sinh học bài đạt hiệu quả.


Đối với Giáo viên chủ nhiệm:
- Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm bám sát nhiệm vụ năm học nhà trường, với tình hình của lớp.
- Chỉ đạo tốt các hoạt động của lớp.
- Phát hiện học sinh có nguy cơ bỏ học, và vận động kịp thời học sinh bỏ học trở lại lớp lớp.
- Làm tốt công tác giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho các em.
- Kết hợp với gia đình và Xã hội giáo dục đạo đức cho các em bằng nhiều biện pháp.
- Làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong từng phong trào, chủ điểm hàng tháng của các
lớp.
Ba là: Đối với gia đình học sinh đây là nhân tố giữ vai trò quyết định đồng thời với nhà
trường về sự phát triển toàn diện của học sinh. Gia đình phải hết sức quan tâm chăm lo cho các
em như ăn, mặc, học hành.Kiểm soát hành vi, tinh thần thái độ học tập và quản lý tốt các em
thời gian ở nhà, tạo mọi điều kiện để các em có thể học tập tốt. Đồng thời, thường xuyên giữ
mối liên hệ với nhà trường để nắm bắt tình hình học tập cũng như ý thức tu dưỡng đạo đức của
con em qua nhiều kênh thông tin như gặp trực tiếp thầy cô trao đổi, qua điện thoại, qua sổ liên
lạc. Tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh học sinh do nhà trường tổ chức để nắm bắt tình
hình sức khỏe, học tập và tu dưỡng đạo đức của các em.



SỞ GD&ĐT BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT VIỆT YÊN SỐ 2

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2017 - 2018

Nội dung 2: Bồi dưỡng việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa, kiến thức giáo dục
tại địa phương cụ thể theo từng năm học.
Họ và tên giáo viên:
Điểm chấm: …………………………………
Dạy môn: Vật lí Tổ: Vật lí- Công nghệ
(Bằng chữ: …………………………………..)
Họ tên giám khảo:
1. ……………………………………………..
2. …………………………………………….
Câu hỏi: Theo công văn số 757/SGDĐT-GDTrH ngày 30 tháng 8 năm 2017 về việc hướng dẫn
nhiệm vụ Giáo dục trung học năm học 2017 – 2018, việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh
giá thực hiện như thế nào? Liên hệ việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá với bộ môn
thầy (cô) đang dạy ở trường THPT Việt Yên số 2?
BÀI LÀM

Theo công văn số 757/SGDĐT-GDTrH ngày 30 tháng 8 năm 2017 về việc hướng dẫn
nhiệm vụ Giáo dục trung học năm học 2017 – 2018, việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh
giá thực hiện như sau:
- Tiếp tục đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất
của học sinh. Chú trọng đánh giá trong quá trình dạy học: đánh giá trên lớp; đánh giá bằng hồ
sơ; đánh giá bằng nhận xét; tăng cường hình thức đánh giá thông qua sản phẩm dự án; đánh giá
qua bài thuyết trình (bài viết, bài trình chiếu, video clip,…), giáo viên có thể sử dụng các hình

thức đánh giá nói trên thay cho các bài kiểm tra hiện hành. Kết hợp kết quả đánh giá trong quá
trình giáo dục và đánh giá tổng kết cuối kỳ, cuối năm học. Các hình thức kiểm tra, đánh giá
hướng tới phát triển năng lực của học sinh; đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học
tập, động viên sự cố gắng, tạo hứng thú trong quá trình học tập.
- Chỉ đạo và tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy chế ở tất cả các khâu ra đề, coi, chấm và
nhận xét, đánh giá học sinh trong việc thi và kiểm tra; đảm bảo thực chất, khách quan, trung thực,
công bằng, đúng năng lực và sự tiến bộ của học sinh. Thực hiện nghiêm túc việc xây dựng ngân
hàng đề thi, kiểm tra theo ma trận; kết hợp một cách hợp lý, phù hợp giữa hình thức trắc nghiệm
tự luận với trắc nghiệm khách quan, giữa kiểm tra lý thuyết và kiểm tra thực hành trong các bài
kiểm tra. Tiếp tục nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức liên môn vào thực tiễn, đối với các môn
khoa học xã hội và nhân văn cần tăng cường ra các câu hỏi mở; gắn với các vấn đề thời sự, quê
hương, đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội. Khi chấm bài kiểm tra, ngoài việc cho điểm phải có phần nhận xét, hướng dẫn, sửa sai, động
viên sự cố gắng, tiến bộ của học sinh. Đối với học sinh có kết quả bài kiểm tra định kì không
phù hợp với những nhận xét trong quá trình học tập, giáo viên cần tìm hiểu rõ nguyên nhân,
nếu thấy cần thiết và hợp lí thì có thể cho học sinh kiểm tra lại.
- Đối với môn Tiếng Anh, triển khai đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực học sinh theo Công văn số 5333/GDTrH-BGDĐT ngày 29/9/2014 của Bộ GD&ĐT và
Công văn số 1173/SGDĐT-GDTrH ngày 20/10/2014 của Sở GD&ĐT Bắc Giang. Đưa việc kiểm
tra kỹ năng nghe là kỹ năng bắt buộc trong các bài kiểm tra định kỳ, kiểm tra học kỳ. Triển khai
nghiêm túc việc kiểm tra kỹ năng nói trong bài thi học kỳ với học sinh lớp 10, lớp 11. Tổ chức
đánh giá năng lực đầu ra bậc 3 đối với học sinh lớp 12 tham gia chương trình tiếng Anh thí điểm
theo Công văn số 3333/BGDĐT-GDTrH ngày 07/7/2016 về việc sử dụng định dạng đề thi đánh
giá năng lực tiếng Anh dành cho học sinh phổ thông của Bộ GD&ĐT.
- Tăng cường ra câu hỏi, bài tập kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực để bổ sung
cho thư viện câu hỏi của trường. Các phòng GD&ĐT, các trường học tăng cường xây dựng
nguồn học liệu mở (thư viện học liệu) về câu hỏi, bài tập, đề thi, kế hoạch bài học, tài liệu tham


khảo có chất lượng đưa lên trang web của Bộ (tại địa chỉ ). Chỉ đạo

cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn trên trang
"Trường học kết nối" về xây dựng các chuyên đề dạy học tích hợp, liên môn; đổi mới phương
pháp, hình thức dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Tại tổ Vật lí công nghệ trường THPT Việt Yên số 2 đã thực hiện việc kiểm tra
đánh giá đã đảm bảo các yêu cầu cơ bản như:
1. Đảm bảo tính khách quan, chính xác
Phản ánh chính xác kết quả như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu đề
ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá.
2. Đảm bảo tính toàn diện
Đầy đủ các khía cạnh, các mặt cần đánh giá theo yêu cầu và mục đích.
3. Đảm bảo tính hệ thống
Tiến hành liên tục và đều đặn theo kế hoạch nhất định, đánh giá thường xuyên,
có hệ thống sẽ thu được những thông tin đầy đủ, rõ ràng và tạo cơ sở để đánh giá một cách
toàn diện.
4. Đảm bảo tính công khai và tính phát triển
Đánh giá được tiến hành công khai, kết quả được công bố kịp thời, tạo ra động
lực để thúc đẩy đối tượng được đánh giá mong muốn vươn lên, có tác dụng thúc đẩy các mặt
tốt, hạn chế mặt xấu.
5. Đảm bảo tính công bằng
Đảm bảo rằng những học sinh thực hiện các hoạt động học tập với cùng một mức độ và
thể hiện cùng một nỗ lực sẽ nhận được kết quả đánh giá như nhau.
6. Xây dựng ma trận đề và xây dựng đề theo đúng hướng dẫn của Bộ Giáo dục
đào tạo.
Tuy nhiên khi tiến hành vẫn còn có một số đề ra không phù hợp đối tượng , quá khó nên
kết quả không phản ánh đúng quá trình học tập của các em. Cần có tình thống nhất và đồng bộ
hơn nữa khi đổi mới hình thức này.


SỞ GD&ĐT BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT VIỆT YÊN SỐ 2


BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2017 - 2018

Nội dung 3: Các môđun do giáo viên tự chọn.
Họ và tên giáo viên:
Điểm chấm: ………………………………….
Dạy môn: Vật lí Tổ: Vật lí- Công nghệ
(Bằng chữ: …………………………………..)
Họ tên giám khảo:
1. ……………………………………………..
2. …………………………………………….
Câu 1. (Mô-đun 9) Phát triển nghề nghiệp của giáo viên là gì? Liên hệ việc phát triển

nghề nghiệp của giáo viên tại trường THPT Việt Yên số 2?
Câu 2. (Mô-đun 12) Căng thẳng tâm lí và stress trong học tập là gì? Nêu bản chất, nguồn
gốc của stress trong quá trình học tập ở học sinh? Là một giáo viên THPT, thầy cô làm
gì để giúp học sinh ứng phó được stress trong quá trình học tập ở học sinh?
Câu 3. (Mô-đun 29) Vai trò của việc tổ chức các hoạt động giáo dục là gì? Thầy cô hãy Xây
dựng các hoạt động giáo dục trong trường THPT thông qua một buổi sinh hoạt lớp?
Câu 4. (Mô-đun 36) Phân tích tại sao phải định hướng giá trị cho HS? Liên hệ việc thầy (cô)
đã làm để định hướng giá trị cho học sinh?
BÀI LÀM

Câu 1: Phát triển nghề nghiệp của giáo viên bao gồm phát triển năng lực của giáo viên
về chuyên môn và năng lực nghiệp vụ của nghề (nghiệp vụ sư phạm). Năng lực nghiệp
vụ sư phạm của giáo viên lại được xác định bởi năng lực thực hiện các vai trò của giáo
viên trong quá trình lao động nghề nghiệp của mình. Bản thân các vai trò của giáo viên
gắn liền với đó là các chức năng của họ.

Nhà trường hiện đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo viên, theo
đó, người giáo viên phải đảm nhận thêm những vai trò mới. Vai trò người hướng dẫn, tư
vấn và chăm sóc tâm lí mà người giáo viên trong nhà trường hiện đại phải đảm nhận là
một minh hoạ.
Theo logic trên, nội dung phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên rất phong
phú, bao gồm cả việc mở rộng, đổi mới tri thức khoa học liên quan đến giảng dạy môn
học do giáo viên giảng dạy đến mở rộng, phát triển, đổi mới tri thức, kĩ năng thực hiện
các hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường
Thực tiễn dạy học đã khẳng định: Những phương pháp giảng dạy tốt sẽ có ảnh
hưởng tích cực đến việc học sinh học cái gì và học như thế nào. Học cách dạy và làm
việc để trở thành một giáo viên giỏi (gặt hái được những thành tựu cao trong lao động
nghề nghiệp) là cả một quá trình lâu dài. Kết quả của quá trình này như thế nào phụ
thuộc vào mức độ tích cực của mọi giáo viên trong việc phát triển những kiến thức nghề
nghiệp cũng như các giá trị và quan điểm đạo đức nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó,
việc giám sát và hỗ trợ của các chuyên gia hoặc đồng nghiệp có kinh nghiệm để mỗi
giáo viên phát triển được các kĩ năng nghề nghiệp đóng vai trò không kém phần quan
trọng.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình mang tính tất yếu và lâu dài đổi
với mọi giáo viên. Tất yếu bởi dạy học và giáo dục là những quá trình thay đổi và gắn
liền với sự sáng tạo của mỗi giáo viên. Lâu dài bởi phát triển nghề nghiệp giáo viên bắt


đầu từ sự chuẩn bị khởi đầu ở cơ sở đào tạo nghề và tiếp tục trong quá trình lao động
nghề nghiệp của giáo viên tại cơ sở giáo dục cho đến khi về hưu.
Về bản chất, đó là quá trình gia tăng sự thích ứng trong lao động nghề nghiệp của
người giáo viên. Mức độ thích ứng nghề của cá nhân diễn ra dưới sự tác động của nhiều
yếu tố, tuy nhiên những yếu tố liên quan đến cá nhân và nghề nghiệp có vai trò quan
trọng hơn cả. Đây cũng là lí do khiến cho mọi giáo viên cần phát triển nghề nghiệp của
mình một cách liên tục, mỗi trường học phải coi việc phát triển nghề nghiệp liên tục cho
đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ quan trọng.

Quan sát các giáo viên trẻ trong lao động nghề nghiệp, có thể nhận thấy những
hạn chế nhất định của họ so với những yêu cầu của dạy học, giáo dục trong nhà trường.
Điều này không chỉ là sự cánh báo về một khoảng cách đã có giữa đào tạo giáo viên
(công việc của các trường sư phạm) với thực tiến lao động nghề nghiệp tại các cơ sở
giáo dục mà còn là những gợi ý về những vấn đề liên quan đến phát triển nghề nghiệp
liên tục của giáo viên.
Một cách diễn đạt khác, chức năng phát triển của phát triển nghề nghiệp giáo viên
là quá trình làm cho các năng lực nghề nghiệp của giáo viên ngày càng được nâng cao,
giúp giáo viên có thể thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình ở những tình huống
khác nhau (các tình huống phi chuẩn) mà vẫn đảm bảo kết quả.
Có thể xem xét quá trình hình thành kĩ năng như một minh hoạ cho chức năng
phát triển của phát triển nghề nghiệp giáo viên. Mọi kĩ năng mà cá nhân có được đều
trải qua các giai đoạn cụ thể, từ giai đoạn hình thành, củng cổ đến giai đoạn thuần thục
(đôi khi có tính chất của tự động hoá). Ở giai đoạn hình thành phải từ những tình huống
mẫu, bằng sự luyện tập của mình, cá nhân sẽ hình thành kĩ năng xác định. Sang giai
đoạn củng cố, cá nhân có thể thực hiện được kĩ năng ở tình huống đã có những thay đổi
ít nhiều so với tình huống mẫu. Trong những tình huống biến đổi, hoặc những tình
huống hoàn toàn khác biệt với tình huống mẫu, cá nhân vẫn có thể đạt đuợc mục tiêu
của hoạt động. Đây là giai đoạn cá nhân đã có kĩ năng ở mức độ phát triển cao.Chức
năng đổi mới của phát triển nghề nghiệp giáo viên chỉ quá trình tạo ra những thay đổi
theo chiều hướng tích cực trong năng lực nghề nghiệp của giáo viên.
Thay đổi là thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Dựa vào
thuộc tính này, con người có thể chủ động tạo ra sự thay đổi cho sự vật, hiện tượng.
Những thuật ngữ như cải tiến, đổi mới, cách mạng... dùng để chỉ sự thay đổi đuợc con
người thực hiện một cách có chủ định.
Đổi mới năng lực nghề nghiệp của giáo viên là quá trình phúc tạp, là kết quả của sự thay
đổi trong nhận thức, hành động và khắc phục những rào cản của hành vi, thói quen
trong dạy học, giáo dục của giáo viên.
Kinh nghiệm nghề nghiệp là tài sản của mọi giáo viên, tuy nhiên đôi khi kinh
nghiệm này lại trở thành rào cản đối với những đổi mới mang tính hệ thổng hoặc đổi

mới đối với từng phương diện năng lực nghề nghiệp của họ. Trong trường hợp này,
người giáo viên cần thay đổi chính những kinh nghiệm của họ. chẳng hạn, để đổi mới
phương pháp dạy học, giáo viên phải đổi mới tư duy về dạy học và tổ chức dạy học (xác
lập quan điểm/những quan điểm mới về dạy học và tổ chức dạy học), đổi mới trong
thiết kế các mô hình/chiến lược dạy học và tiếp đến là đổi mới trong thực thi từng
phương pháp dạy học cụ thể.
Các chương trình nhằm mục đích phát triển nghề nghiệp cho giáo viên:
(i) Phát triển các kĩ năng sống;
(iì) Trở thành người có năng lực đối với các kĩ năng cơ bản của nghề dạy học;


(iii) Phát huy tính linh hoạt của người giảng dạy; Có chuyên môn giảng dạy;
Đóng góp vào sự phát triển nghề nghiệp của đồng nghiệp;
(iv) Thực hiện vai trò lãnh đạo và tham gia vào việc ra quyết định.
Các quan niệm về tiêu chí định hướng của chương trình phát triển nghề nghiệp
giáo viên nêu trên cho thấy, phát triển nghề nghiệp giáo viên có thể được thực hiện một
cách có chủ định hoặc không chủ định. Không ít những trường hợp, nhiều hoạt động
được thực hiện liên quan đến giáo viên (hoặc được thực hiện bởi giáo viên) nhưng
không có chú ý thực hiện các tiêu chí của phát triển nghề nghiệp giáo viên. Tuy nhiên,
nếu các hoạt động đó được định hướng từ trước bởi mục đích phát triển nghề nghiệp
giáo viên thì hiệu quả của các hoạt động đó sẽ cao hơn rất nhiều. Nói cách khác, cần
thiết phải quan tâm đến những cơ hội mà ở đó giáo viên có thể phát triển nghề nghiệp
của bản thân. Các cơ hội phát triển nghề nghiệp có thể được tạo ra cùng lúc bởi các giáo
viên và những người hỗ trợ, hoặc bởi cách lựa chọn tập trung vào một nhiệm vụ mới mà
giáo viên hứng thú với việc thực hiện nó (ví dụ, học tập một lí thuyết dạy học mới hay
thực hành một kĩ năng dạy học hoặc giáo dục mà giáo viên muốn có sự thay đổi). Đây
chính là những gợi ý trực tiếp cho sự hình thành các mô hình phát triển nghề nghiệp
giáo viên.
Bản thân tôi nhận thấy phát triển nghề nghiệp của giáo viên tại trường THPT Việt Yên
số 2 đã và đang làm thông qua các hoạt động sau:

Một là : Khai thác, sử dụng mạng “Trường học kết nối” của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bắt đầu từ năm học 2013-2014 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng trang web chuyên
biệt về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên qua mạng với tên gọi là “Trường học kết nối” tại địa chỉ
website . Mục đích của trang web này là :
Tổ chức và quản lí các hoạt động đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên qua mạng;
hỗ trợ và theo dõi hoạt động sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn trong các trường phổ thông,
trung tâm giáo dục thường xuyên (sau đây gọi chung là trường phổ thông) về đổi mới
chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá;
tạo môi trường chia sẻ, thảo luận, hỗ trợ lẫn nhau giữa các trường phổ thông trên phạm vi
toàn quốc; tổ chức các hoạt động học tập và hỗ trợ hoạt động trải nghiệm sáng tạo của
học sinh qua mạng;
Quá trình tập huấn, bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn của giáo viên qua mạng
được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm hỗ trợ trực tiếp quá trình dạy học của giáo
viên theo tinh thần “bồi dưỡng tại công việc”.
Hoạt động học tập, bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn của giáo viên, học sinh qua
mạng phải được tổ chức và quản lí chặt chẽ từ Bộ Giáo dục và Đào tạo – Sở Giáo dục và
Đào tạo Bắc giang– Nhà trường THPT Việt yên số 2– Tổ/nhóm chuyên môn – Giáo viên
– Học sinh trên nguyên tắc quản lí được chất lượng và hiệu quả tập huấn, bồi dưỡng đến
từng giáo viên, học sinh.
Hiện nay, về cơ bản các giáo viên đều có thể sử dụng tài khoản của mạng “Trường học kết
nối” () để cùng sinh hoạt chuyên môn cũng như tổ chức dạy học.
Sau khi đăng nhập vào lớp học với tài khoản của học viên, người học có thể theo dõi thông tin
và tương tác với khóa học theo các nhóm chức năng sau:
- Nhận thông báo, tin tức về khóa học;
- Tham gia học tập;
- Tự làm và nộp các bài tập trắc nghiệm liên quan;
- Làm và nộp bài thi cuối khóa ở dạng viết luận;
- Tham gia thảo luận, góp ý trên diễn đàn.
Để việc khai thác, sử dụng trang mạng này tại chỗ (tại chính trường phổ thông nơi giáo
viên giảng dạy) có hiệu quả và thiết thực trong phát triển nghề nghiệp giáo viên nói chung và



giáo viên trẻ thì Ban giám hiệu trường phổ thông cần có kế hoạch chi tiết chung cho toàn
trường và cho từng tổ bộ môn, từng giáo viên về thời gian, hình thức, nội dung khai thác và
đánh giá; các hoạt động chủ yếu, nhiệm vụ của tổ/nhóm, của từng cá nhân… Ban giám hiệu
nên cử một phó hiệu trưởng phụ trách, có kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện, động
viên, khích lệ giáo viên khai thác, sử dụng, chia sẻ… các kiến thức, bài học thu được từ trang
web này.
Hai là : Xây dựng chương trình bồi dưỡng mở và liên tục cập nhật, gắn với nhu cầu
thực tế của giáo viên
Trong việc xây dựng chương trình bồi
dưỡng để giáo viên có thể học liên tục trong quá trình lao động nghề nghiệp của họ có
những nguyên lý cơ bản có thể tóm tắt như sau:
Đảm bảo tính liên tục của đào tạo/ bồi dưỡng và kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ được cập nhật;
Kế hoạch và phương pháp giáo dục, dạy học
đáp ứng nhu cầu đổi mới của ngành giáo dục để giáo viên có thể thích ứng được với mọi
sự thay đổi và tiến bộtrong nghề nghiệp của họ;
Phát huy tối đa mọi phương tiện, thoát khỏi giới hạn của
các hình thức bồi dưỡng truyền thống cũng như sự hạn hẹp về hình thức tổ chức;
Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên, nhà trường và các bên có liên quan.
Nội dung bồi dưỡng giáo viên phải có tính ứng dụng thực tế, xuất phát từ đề xuất của
người học chứ không phải được xác định trước, bị áp đặt từ trên xuống của các cấp quản lý,
khiến cho công tác bồi dưỡng mang tính hình thức, bắt buộc và kém hiệu quả. Bên cạnh đó,
chương trình bồi dưỡng phải giúp người học có nhiều cơ hội thực hành và vận dụng tốt những
kiến thức đã học vào thực tế giảng dạy, giúp cho việc dạy và học đạt chất lượng cao hơn.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với giáo viên trẻ nếu họ được tiếp cận với những nội dung
bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu thực tế và giải quyết các khó khăn về chuyên môn, nghiệp vụ mà
họ gặp phải. Các nghiên cứu về những khó khăn mà giáo viên trẻ gặp phải trong những năm
đầu đứng lớp ở trường phổ thông cho thấy nổi lên là những vấn đề liên quan đến quản lí lớp

học. Đó là: Giải quyết các tình huống sư phạm; xử lí các vấn đề về kỉ luật học sinh; bao quát
lớp; phân bổ và quản lí thời gian, thu hút sự tham gia của học sinh vào giờ học . Chính vì vậy,
các nội dung bồi dưỡng giáo viên tại trường THPT Việt Yên số 2 nhằm giúp cho giáo viên trẻ
nhanh chóng hòa nhập với môi trường nhà trường và đáp ứng các yêu cầu về dạy học – giáo
dục học sinh.
Ba là: Đa dạng hóa các hình thức học tập phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo
viên trẻ tại chỗ thông qua mạng internet
Ưu thế nổi bật của giáo viên trẻ là khả năng sử dụng công nghệ thông tin và tiếp cận, sử
dụng các mạng xã hội để trao đổi thông tin liên lạc với nhau như email, facebook, twitter… Vì
thế, các hình thức học qua mạng thông tin trực tuyến cần đa dạng: có thể là những mạng trực
tuyến do các cơ quan quản lí thiết kế và xây dựng chung ở cấp độ quốc gia và địa phương ví dụ
như mạng “Trường học kết nối”, có thể là những hộp thư điện tử, website của trường hoặc sử
dụng các trang mạng xã hội như facebook, twitter, email nhóm, các trang mạng xã hội và một
số phương tiện công nghệ truyền thông khác.
Nhà trường tạo điều kiện để giáo viên có thể sử dụng website của trường để tạo diễn
đàn cho giáo viên trong trường chia sẻ những kinh nghiệm hay trong dạy học – giáo dục hoặc
tải các bài viết theo chuyên đề của các tác giả có uy tín, các nhà nghiên cứu về giáo dục…;
hoặc xây dựng chung một hộp thư điện tử cho các giáo viên trong toàn trường hoặc theo tổ
chuyên môn, hoặc riêng cho giáo viên trẻ với Ban giám hiệu… nhằm khuyến khích, tạo điều
kiện để họ trao đổi, chia sẻ trực tiếp những vấn đề mà họ đang gặp khó khăn, những sáng kiến
hay, những ý tưởng mới, những sưu tầm họ thu thập được bằng hình ảnh (video) hoặc những
bài viết.
Câu 2: Căng thẳng tâm lí và stress trong học tập:


- Stress trong học tập là tổng hòa một quá trình những biến đổi đáp ứng của cả hai mặt:
phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí. Nó gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ
khác nhau tạo nên sự biến đổi cả về năng lượng sinh lí và cả năng lượng tâm lí nhận thức của
học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở bản thân học sinh cả về sinh lí và về tâm lí. Nó có tác
dụng củng cố, phát triển khả năng giải quyết vấn đề của học sinh, giúp học sinh thích ứng tốt

nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức của
học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ sự cân bằng tâm – sinh lí của học sinh, có thể
dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các em khó hoặc không thể dối mặt, giải
quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.
Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh
- Chúng ta biết stress kì sự phản ứng của cơ thể trước các tác nhân bên ngoài.Trong học
tập, học sinh chịu rất nhiều tác động áp lực, không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học
mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ giảng dạy của giáo viên. Những điều đó tạo nên
stress ở các em. Đó là những biến đổi tâm lí của học sinh khi các em giải quyết những vấn đề
trong học tập. Cụ thể hơn đó là những biến đổi trong quá trình nhận thức của các em. Điều này
có nghĩa là stress trong học tập ở học sinh chỉ là một quá trình, nó chỉ xuất hiện khi các nhiệm
vụ học tập trở thành tình huống có vấn đề của mình. Stress trong học tập là tổng hòa một quá
trình những biến đổi đáp ứng của cả hai mặt: Phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí, nó
bao gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ khác nhau tạo nên sự biến đổi cả về năng
lượng sinh lí và cả năng lượng tâm lí nhận thức của học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở
bản thân học sinh cả về tâm lí và sinh lí nó có tác dụng củng cố phát triển khả năng giải quyết
vấn đề của học sinh, giúp học sinh thích ứng tốt nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những
vấn đề, những mâu thuẩn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ
sự cân bằng tâm lí của học sinh, có thể dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các
em khó hoặc không thể đối mặt giải quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.Bản
chất của stress: stress là nhịp sống luôn luôn có mặt ở bất kì thời điểm nào trong sự tồn tại của
chúng ta. Một tác động bất kì tới một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải lúc
nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau:
stress bình thường khỏe mạnh(eustress), stress độc hại hay gọi là stress tiêu cực(dystress). Với
bản chất của stress, mỗi chúng ta cần cố gắng tự điều chỉnh và có thể giúp mọi người tìm ra
nguồn gốc và có hướng khắc phục stress một cách phù hợp hơn.
Nguồn gốc gây ra stress.
- Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà nghiên cứu khoa học cho rằng stress
có tính chất tích tụ, trường diễn ngấm dần nên nó xuất hiện cần phải kiểm soát và giải tỏa
chúng. Nếu không những tác động nhỏ nhặt hàng ngày sẽ được dồn nén và khi bùng phát nó sẽ

gây ra những tác hại không nhỏ.
+Nguồn gốc từ môi trường bên ngoài: Nguồn gốc từ cuộc sống gia đình: Những tác
nhân gây ra stress từ phía gia đình thường gặp nhất trong những tác nhân gây ra stress. Đó là
những vấn đề có liên quan đến yếu tố kinh tế và tình cảm, những kì vọng của những người
trong gia đình đối với mỗi thành viên. Những yếu tố này thường phối hợp với nhau tác động
mạnh mẽ đến cuộc sống, sinh hoạt, nhận thức, tình cảm và hành vi của các thành viên trong
cuộc sống gia đình cũng như hoạt động ngoài xã hội.
Thời hạn của công việc phải hoàn thành, các vấn đề tài chính, áp lực công việc, môi trường
làm việc không thuận lợi, thay đổi về thời gian làm việc,…hay do sự mất mát của người thân,
mâu thuẫn trong gia đình, quan hệ bạn bè không tốt, …
- Nguồn gốc từ môi trường xã hội: Đó là những yếu tố liên quan đến môi trường sống
học tập và làm việc và những mối quan hệ ứng xử xã hội, tâm lí xã hội, trong đó có chủ thể
trong hoạt động.
- Nguồn gốc từ môi trường tự nhiên là những yếu tố như khí hậu, thời tiết, cảnh quan,
tiếng ồn, giao thông, ô nhiễm môi trường…


+ Nguồn gốc bản thân: Yếu tố sức khỏe: Những rối loạn bệnh lí mới xã hội, những bệnh
lí ở giai đoạn cuối hoặc những bệnh lí mãn tính. Các vấn đề về thể chất: Thay đổi cơ thể,
không đủ chất dinh dưỡng, ốm đau, bệnh tật…Đôi khi, cách chúng ta suy nghĩ hay phiên giải
những điều đã hoặc sẽ xảy ra đem đến cho chính mình rất nhiều căng thẳng.
- Yếu tố tâm lí: Đó là thái độ thích nghi của các thuộc tính tâm lí bao gồm năng lực ý
chí, tình cảm, nhu cầu, thái độ nhận thức, kinh nghiệm của chủ thể. Ngoài ra có thể là những
yếu tố có liên quan đến vô thức (giấc mộng, linh cảm…)hoặc những dồn nén từ thời thơ ấu,
trong quá khứ.
- Stress sinh thái: Rối loạn chu kì nhịp sinh học; rối loạn nhịp ăn ngủ; stress do chấn
thương và bệnh tật; stress do tiếng ồn và các tác động vật lí, sinh hóa.
- Stress tâm lí-xã hội: Được hình thành trong các mối quan hệ và ứng xử xã hội, đây là
những yếu tố quan trọng gây nên những biến đổi, thậm chí là rối loạn trong đời sống tâm lí. Sự
thất vọng, điều này có thể do nguyên nhân từ phía khách quan hoặc do chủ quan, thất vọng bao

gồm cả khủng hoảng lòng tin, sự hụt hẫng…Sự quá tải là trạng thái mà số lượng kích thích
vượt quá khả năng ứng xử của chủ thể hay sự thiếu tải do những kích thích tác động đơn điệu,
tẻ nhạt, buồn chán, không tương xứng với khả năng của chủ thể.
Nguyên nhân của stress trong học tập của học sinh:
*Các yếu tố khách quan-môi trường tâm lí-xã hội: Bên cạnh những điều kiện thuận lợi
thì môi trường xã hội cũng có thể mang đến nhiều bất lợi cho sự hình thành và phát triển nhân
cách như: những tệ nạn tràn lan trong xã hội, nó tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Điều này
có ảnh hưởng không nhỏ tới việc định hướng giá trị nhân cách, lối sống, quan hệ và học tập
của các em học sinh. Tất cả những biến động của thời đại đang liên tục tác động mạnh mẽ tới
mọi tầng lớp trong xã hội trong đó có cả học sinh, buộc họ phải đấu tranh để lựa chọn các động
cơ mà thích ứng. Bản thân học sinh trong tương lai sẽ là nguồn nhân lực cho xã hội, họ đang
cố gắng học tập, trau dồi tri thức, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày một cao.
Những yếu tố đó của môi trường, của thời đại đều có ảnh hưởng đến stress trong học tập của
học sinh.
* Các yếu tố chủ quan:
- Về mặt sinh lí: Bị mắc những chứng bệnh đau đầu, đau lưng khi ngồi vào bàn học, sức
khỏe yếu…
- Về mặt tâm lí:
+ Nhận thức của học sinh trước các tình huống học tập: Vốn hiểu biết đã có mâu thuẫn
với nhiệm vụ học tập mới, khó trong khi trình độ nhận thức còn hạn chế, bất lực với khả năng
học tập của mình…
+ Thái độ của học sinh trước các nhiệm vụ của môn học đề ra: Thấy mình không có khả
năng học, không hứng thú với môn học, không tìm ra được phương pháp học tập thích hợp…
+ Cách thức đáp ứng của học sinh trước các nhiệm vụ học tập: Đứng trước một bài toán
khó, cách ghi nhớ và vận dung trí nhớ khi đứng trước một vấn đề, cách đương đầu và giải
quyết với một nhiệm vụ học tập hay một vấn đề của cuộc sống, cách bố trí thời gian trong học
tập, thi cử và nghỉ ngơi, ít dành thời gian cho việc giải trí, vui chơi…

Là một giáo viên THPT, Tôi xin đề xuất một số biện pháp để giúp học sinh ứng
phó được stress trong quá trình học tập ở học sinh gồm:

Một là : Đối với học sinh


- Thể dục, thể thao hay vận động.
- Cười thoải mái, thư giãn: nghe nhạc, đọc sách, xem phim…
- Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lí.
- Ngủ đủ giấc,ngủ sâu, ngủ đúng giờ.
- Sự chia sẻ, hỗ trợ từ người thân, bạn bè.
- Sắp xếp thời gian hợp lí, có kĩ năng lập kế hoạch.
- Rèn luyện tư duy tích cực…
Hai là : Đối với nhà trường
Để giảm stress cho học sinh, nhà trường nên thường xuyên tổ chức các hoạt động tập
thể, tổ chức thảo luận dân chủ để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và nội dung của các phong trào thi
đua, sau đó sẽ lựa chọn các hoạt đông cụ thể phù hợp với sở thích hứng thú, năng lực, nhu cầu
tâm lí của học sinh.
Các hoạt động kích thích cho học sinh cơ hội tìm kiếm, phát hiện tri thức, hình thành
những kĩ năng phù hợp, những cảm xúa tích cực, kĩ năng sống cần thiết.
Nhà trường cần sáng tạo nhiều hình thức tuyên truyền, vận động các phong trào thi
đua, đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học. tham gia các phong trào sẽ giúp các em hình
thành tự tin, giảm stress đáng kể.

Câu 3. (Mô-đun 29) Vai trò của việc tổ chức các hoạt động giáo dục là gì? Thầy cô hãy Xây
dựng các hoạt động giáo dục trong trường THPT thông qua một buổi sinh hoạt lớp?
a. Vai trò của việc tổ chức các hoạt động giáo dục
Thông qua các hoạt động giáo dục giúp học sinh củng cố, bổ sung và mở rộng thêm tri thức
đã học, phát triển óc thẩm mỹ, tăng cường thể chất, nhận thức và xã hội, ý thức công dân, tình
yêu quê hương, đất nước. Giáo dục thái độ tích cực, tinh thần đoàn kết, ý thức chủ động và
mạnh dạn trong các hoạt động tập thể. Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự quản hoạt động
ngoài giờ lên lớp, góp phần giáo dục tính tích cực của người công dân tương lai.
b. Xây dựng các hoạt động giáo dục trong trường THPT thông qua một buổi sinh hoạt

lớp. Tại trường THPT Việt Yên số 2 tôi đã xây dựng hoạt động giáo dục thông qua giờ
sinh hoạt lớp gồm những nội dung sau:
Một là : Công tác chuẩn bị
Công việc đầu tiên là công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh.Theo đó, giáo viên
cần thu thập thông tin; rà soát nhiệm vụ giáo dục của tháng, của tuần theo chủ đề; nắm bắt tình
hình hoạt động và học tập của toàn lớp trong tuần thông qua các nguồn: Sổ đầu bài, thầy cô bộ
môn và cán bộ lớp.
Giáo viên cần nắm và phân loại các thông tin trong giờ học và ngoài giờ học: Tiến bộ,
sa sút, yếu có cố gắng, thiếu tập trung… và việc thực hiện nội quy của tập thể lớp cũng như cá
nhân học sinh trong lớp.
Đồng thời, trao đổi, định hướng trước với cán bộ lớp về nhiệm vụ của tiết sinh hoạt
chuẩn bị thực hiện và kế hoạch tuần tiếp theo (dựa trên chủ đề hoạt động và các công tác đột
xuất của nhà trường và ban thi đua Đoàn trường).
Về phía học sinh, các tổ trưởng theo dõi thi đua của từng thành viên và cả tổ trong tuần
làm căn cứ xếp loại thi đua từng thành viên. Cờ đỏ báo cáo tình hình thực hiện nền nếp.
Hai là : Tổng kết và đánh giá hoạt động trong tuần


Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giờ học sinh thực hiện phê và tự phê, tự đánh giá các hoạt
động của cá nhân và tập thể trong suốt tuần học.Giáo viên chủ nhiệm tiếp tục nắm bắt tình
hình lớp qua đó bổ sung thêm thông tin về sự tiến bộ hoặc sa sút của mỗi học sinh trong lớp để
động viên hay uốn nắn kịp thời.
Người điều khiển lớp là lớp trưởng. Theo trình tự, các tổ trưởng báo cáo kết quả theo
dõi thi đua của từng thành viên và cả tổ trong tuần làm căn cứ xếp loại thi đua từng thành viên;
thư ký lớp tổng kết hoạt động học tập của lớp thông qua biên bản sinh hoạt lớp.
Lớp trưởng cho các bạn đóng góp ý kiến về các hoạt động của lớp: Phản ánh đúng sai
của quá trình theo dõi của các tổ; những trường hợp sai phạm chưa được báo cáo, các cá nhân
cần tuyên dương.
Cuối cùng, lớp trưởng tổng kết. Nội dung tổng kết cần nêu rõ những mặt nổi bật và
những khiếm khuyết của tập thể, cá nhân trong lớp. Cuối cùng, đề xuất tuyên dương cá nhân

điển hình của lớp cũng như đề xuất phê bình cá nhân vi phạm với giáo viên chủ nhiệm.
Ba là : Xây dựng kế hoạch tuần học tiếp theo
Ở nội dung này, dựa trên sự định hướng trước của giáo viên chủ nhiệm, nhiệm vụ đặt ra
của nhà trường và đoàn trường, mục tiêu thi đua rèn luyện, lớp trưởng phác thảo kế hoạch thực
hiện bao gồm: Nhiệm vụ phải thực hiện, mục tiêu phân đấu đạt. Tập thể lớp trao đổi và đi đến
phương án thực hiện.
Hiệu quả của mỗi tuần phụ thuộc phần lớn vào kế hoạch đặt ra của tuần trước đó. Kết
thúc hoạt động này, lớp trưởng mời giáo viên chủ nhiệm cho ý kiến.
Bốn là : Giáo viên chủ nhiệm góp ý, nhận xét, đánh giá
Giáo viên chủ nhiệm cần đánh giá góp ý phương pháp làm việc của cán bộ lớp, uốn nắn
điều chỉnh để rèn luyện kỷ năng tự quản cho lớp;Cần phát hiện và tuyên dương, động viên kịp
thời các học sinh đã có sự cố gắng phấn đấu trong tuần;
Phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá nhân sai phạm, chây lười, lơ là trong
học tập và thiếu tính thần trách nhiệm với tập thể. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng
học sinh cá biệt.
Cũng rất quan trọng là thưởng, phạt công minh đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút
và ràng buộc học sinh. Tiếp tục rút kinh nghiệm với những kết quả đạt được đồng thời góp ý
bổ sung kế hoạch hoạt động theo định hướng giáo dục đã có.
Năm là : Hoạt động ngoài giờ lên lớp
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết sinh hoạt, ngoài thái độ nhẹ nhàng, theo cô
Hạnh, giáo viên chủ nhiệm cần định hướng cho lớp có những tiết mục văn nghệ thư giãn như:
Hát, kể chuyện vui, tấu hài, những trò chơi nhỏ.
Cũng có thể tổ chức tặng quà sinh nhật cho học sinh có ngày sinh thuộc tháng hoặc tuần
đang sinh hoạt, đan xen hợp lý, linh hoạt giữa các hoạt động.
Tổ chức hoạt động này, giáo viên có thể linh hoạt lựa chọn các phương pháp tích cực
như: Phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp diễn đàn; phương pháp đóng vai; phương
pháp giải quyết vấn đề; phương pháp tổ chức các hoạt động giao lưu; phương pháp giao nhiệm
vụ; phương pháp tình huống, phương pháp trò chơi... Đồng thời, sử dụng các kỹ thuật day học
tích cực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của từng chủ điểm.



Khi sử dụng các phương pháp trên, chú ý đến nội dung hoạt đông cụ thể của từng chủ điểm,
phù hợp với tâm lý, lứa tuổi học sinh THPT.
Sáu là : Thông báo với đại diện phụ huynh về những hoạt động của lớp để phối hợp
giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh hoạt động
Trong các tháng có các phong trào thi đua quan trọng như chào mừng 8/3, 26/3, 20/10,
20/11, giáo viên chủ nhiệm có thể thông báo hoặc mời dự họp.Nhờ đó, phụ huynh nắm được
các phong trào thi đua của lớp, của trường, từ đó, đôn đốc con em tích cực tham gia.
Tuy nhiên, muốn làm được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải nhiệt tình, năng động, ý
thức được tầm quan trọng của tiết sinh hoạt. Hình thức và nội dung tiết sinh hoạt cuối tuần
phong phú và đa dạng; tùy từng trường, từng địa phương có thể triển khai linh hoạt hơn để phù
hợp với đặc điểm của học sinh trường mình, góp phần giáo dục toàn diện.

Câu 4. Khái niệm định hướng giá trị được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Dưới đây là một số hướng tiếp cận phổ biến:
* Hướng thứ nhất được sử dụng trong Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết xem xét
định hướng giá trị như là cơ sở của các đánh giá của chủ thể đối với thực tại. Theo đó, “Định
hướng giá trị" là:
- Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ giúp chủ thể đánh giá thực tại xung quanh và
định hướng trong thực tại đó.
- Phương pháp phân loại các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá
trị hình thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục đích, tư
tưởng, chính kiến, ham muốn... của nhân cách. Trong cấu trúc hoạt động của con người, định
hướng giá trị gắn liền các đặc điểm nhận thức và ý chí của nhân cách. Hệ thống định hướng
giá trị tạo thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong của các mối quan hệ
giữa cá nhân với thực tại.
* Hướng thứ hai xem xét định hướng giá trị với tư cách là một thành tố trong co cấu
nhân cách là cái điều chỉnh hành vi của con người, cho rằng: “Định hướng giá trị là một trong
những biến đổi rõ nét của đặc trưng xu hướng nhân cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động
của con người. Nó mang đậm nét tính xã hội - lịch sử chung của cộng đồng, nét riêng của

từng dân tộc, những nét đặc thù của nhóm xã hội, nhóm lứa tuổi, giới nghề nghiệp, tôn giáo,
địa phương khác nhau" .
* Hướng thứ ba tiếp cận định hướng giá trị như là thái độ của cá nhân: “Định hướng
giá trị là thái độ lựa chọn của con người đối với các giá trị vật chất và tinh thần; là một hệ
thống tâm thế, niềm tin, sở thích được biểu hiện trong hành vi của con người. Đó cũng là năng
lực của ý thức, nhận thức và đánh giá các hoạt động và các sản phẩm xã hội khác nhau".
* Hướng thứ tư “Định hướng giá trị - định hướng của một cá nhân hay một nhóm xã
hội tới hệ thống các giá trị này hay giá trị khác, trong đó các hiện tượng vật chất và tinh thần,
xuất hiện với tư cách giá trị, có khả năng thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của họ".
* Hướng thứ năm tìếp cận giá trị theo quan hệ hai chiều giữa tính khách quan và chủ
quan của giá trị đại diện cho hướng tiếp cận này là H. Rickert (1S63 - 1936). Ông cho rằng:
“Các giá trị là những lí tưởng, những thực tại lí tưởng có ảnh hường điều khiển và chuẩn hoá
hành vi của con người."
Định hướng giá trị có thể xem là động lực thúc đẩy con người hướng tới những giá trị.
Việc cá nhân hướng vào những giá trị này hay những giá trị khác tạo nên định hướng giá trị
của họ. Mỗi cá nhân hành xử với các chuẩn mực xã hội là những định hướng giá trị của họ. Cụ
thể là cá nhân tiến hành lựa chọn các giá trị, chuẩn bị tâm thế, niềm tin để hiện thực hoá các
giá trị của họ bằng những hành vi cụ thể. Định hương giá trị không chỉ là quá trình nhận thức
mà còn là quá trình hành động, điều chỉnh hành vi theo giá trị. Như vậy, định hướng giá trị bao


hàm hai nội dung; một là, sự lựa chọn một giá trị hay hệ giá trị của cá nhân hay cộng đồng; hai
là, giáo dục những giá trị cho cộng đồng, cá nhân. Định hướng giá trị có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với gia đình, xã hội và nhà trường.
Phải định hướng giá trị vì:
Giá trị là cái mà con người dựa vào để xác định mục tiêu, phương hướng hoạt động cho
mình. Giá trị là cơ sở để đánh giá thái độ hành vi đứng sai, nên có và không nên có của con
người. Giá trị trở thành cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác định cách thức hành động, điều
chỉnh hành vi của mình trong một lĩnh vực nào đó. Mỗi người đều phải dựa vào các giá trị xã
hội đuợc chấp thuận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp nhất.

Các giá trị làm hình thành động cơ, thái độ, quyết tâm và sức mạnh giúp con người
vượt qua khó khăn, vươn tới mục đích, thúc đẩy hoạt động con người, cho nên “nói đến giá trị
là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị
gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người
nổ lực hành động và nổ lực vươn tới".
Giá trị chính là hệ thống các chuẩn mực, tiêu chuẩn nhằm định hướng cho việc đánh giá
sự phát triển các mặt của đời sống xã hội. Hệ thống giá trị được thể hiện ở hệ chuẩn mực cơ
bản, bao hàm những định chuẩn phổ quát chứa đựng tính quy định, tính thông tin như một
phương tiện giao tiếp chứa các tín hiệu mà thể chế, cộng đồng yêu cầu, đòi hỏi cá nhân phải
chấp nhận tự phát hay tự giác. Hệ chuẩn mực lớn này đan kết nhau định hướng, kiểm tra các
hành vi cá nhân, các nhóm xã hội, xác định các mẫu mực, các mô hình chi phối các mục tiêu,
các giới hạn, các hình thức ứng xử tạo nên diện mạo tương đối ổn định của đời sống văn hoá
xã hội.
Giá trị có tính định hướng, tức là giá trị có vai trò dẫn dắt, điều chỉnh hành vi của con
người. Vì vậy, định hướng giá trị là một yêu cầu tất yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Một điều cần lưu ý là, các giá trị không phải là thứ nhất thành bất biến, khi xem xét giá
trị với tư cách là yếu tố định hướng cho các hoạt động của chủ thể cần thiết phải nhấn mạnh
đến hoàn cánh cụ thể, tính khách quan của giá trị.

Một số giải pháp nâng cao công tác giáo dục, định hướng giá trị cho học sinh hiện
nay. Theo tôi cần thực hiện giúp học sinh nhận ra giá trị sau:
Một là: Giá trị sống cho bản thân :
Yêu thương : Đây là nền tảng cơ bản nhất cho mọi giá trị, không có sự yêu thương thì
không có tình cha mẹ, không có lòng hiếu thảo, không có sự quan tâm đến kẻ khác và cũng
không có lòng yêu nước.
Thế nhưng, yêu thương là sự quan tâm, là sự chấp nhận và tôn trọng chứ không phải là sự
chiều chuộng, là sự bất chấp hay hy sinh mù quáng, và cũng không có sự sùng bái một cá
nhân, một đối tượng hay một chủ thuyết nào. Yêu thương cũng phải có sự chừng mực và có sự
tỉnh táo của lý trí.

Trung thực: Đây là một giá trị đơn giản nhưng rất khó thực hiện, bởi có những yếu tố
dễ dàng tác động để tạo nên sự thiếu trung thực : Chỉ nói một phần sự thực ( trong hoạt động
tuyên truyền, quảng cáo)chỉ nói những sự thực có ích lợi (cho bản thân, gia đình hay cho tập
thể) , chỉ nói những điều được phép nói ( trong hoạt động truyền thông và cả giáo dục!) vì thế,
một nguyên tắc để xây dựng tính trung thực là :
Giữ lời hứa: Vì thế hãy thận trọng khi hứa, và chỉ hứa những gì có thể làm được.
Có sự Tin tưởng : Hãy tin tưởng vào trẻ, không nghi ngờ và nên có suy nghĩ tích cực
cho những lời nói và hành động của học sinh. Học sinh chỉ tin tưởng những người tin tưởng
chúng !


Không gây hại : Hãy nói đúng nhưng điều đó không gây hại cho bản thân và cho người
khác!
Hai là : Giá trị sống hướng đến kẻ khác:
Tôn trọng: Học sinh cần được hướng dẫn để biết tôn trọng người khác, không chỉ là những
người lớn trong gia đình mà còn là những người trong xã hội. Chúng ta dạy học sinh sự tôn
trọng qua những giá trị về tư cách, về cách cư xử mà người lớn đối đãi với các em chứ không
qua địa vị, bằng cấp hay tiền bạc mà họ có. Điều quan trọng là học sinh cần phải được tôn
trọng thì mới có được sự tôn trọng với người khác.
Khoan dung: Người ta thường nghĩ rằng, khoan dung là thái độ của người lớn với học
sinh, kẻ bề trên với người cấp dưới, nhưng chính học sinh cũng phải có lòng khoan dung để
không khinh chê, nhạo báng, coi thường những người nghèo khổ, khó khăn và không xét nét,
phê phán kẻ khác. Học sinh cũng học được lòng khoan dung khi được sống trong một môi
trường giáo dục không có sự áp đặt, trong bầu khí không có sự phê phán.
Ba là : Giá trị sống hướng đến cộng đồng :
Trách nhiệm: Học sinh cần được tập để nhận biết trách nhiệm về mình ngay từ nhỏ, từ
việc có thể chọn lựa, nhưng không được thay đổi quyết định của mình khi đã chọn lựa cho đến
việc không đổ thừa cho người khác hay các yếu tố bên ngoài cho các sai lầm của mình.
Đôi khi trong cách giáo dục của cha mẹ lại vô tình khuyến khích việc đổ lỗi của con cái qua
việc trách phạt không hợp lý khi học sinh nhận lỗi hoặc chính cha mẹ cũng làm gương cho con

trong cách sống vô trách nhiệm của mình
Đoàn kết: Chúng ta thường dạy học sinh đoàn kết bằng khẩu hiệu chứ không bằng các
hoạt động thiết thực, vì thế việc hướng dẫn trẻ biết quan tâm, tôn trọng thông qua các hoạt
động sinh hoạt nhóm từ trong gia đình đến nhà trường là nền tảng cho sự phát triển tính đoàn
kết của học sinh sau này.
Từ các yếu tố trên, cùng với sự phát triển về thể chất và trí tuệ, học sinh sẽ hình thành
những ý thức về giá trị của bản thân, để có đủ nội lực đứng vững trước những tác động xấu từ
bên ngoài.



×