NỘI DUNG I
Những việc đã làm và những sáng tạo của cá nhân trong việc thực hiện nội
dung về Đổi mới phương pháp dạy học và Kiểm tra đánh giá học sinh
I. MỞ ĐẦU
1. Vai trò và tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học, và kiểm tra
đánh giá;
Theo quan điểm giáo dục hiện đại, dạy học là một quá trình tương tác (GV –
HS, HS – HS, HS - GV, HS với những người hiểu biết hơn…), Việc truyền thụ tri
thức một chiều không còn đáp ứng được trước những đòi hỏi của sự phát triển giáo
dục hiện đại. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) để học sinh chủ
động, tích cực, sáng tạo trong học tập là một vấn đề cần thiết và không thể thiếu
được. Bởi, chỉ có đổi mới PPDH, chúng ta mới góp phần khắc phục những biểu
hiện trì trệ nghiêm trọng trong giáo dục hiện nay; chỉ có đổi mới PPDH chúng ta
mới góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo và chỉ có đổi
mới PPDH chúng ta mới tham gia được vào “sân chơi” quốc tế trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục và tiếp cận phương pháp giáo dục mới theo quan điểm giáo
dục hiện đại.
Việc kiểm tra - đánh giá kết quả học tập mang một ý nghĩa vô cùng quan
trọng và có mối liên hệ khăng khít với nhau, trong đó kiểm tra là phương tiện còn
đánh giá là mục đích vì không thế đánh giá mà không dựa vào kiểm tra. Do đó các
phương pháp KT-ĐG cũng là một phương pháp dạy học nhưng chúng được sử
dụng ở giai đoạn giảng dạy khi giáo viên có đầy đủ căn cứ để yêu cầu học sinh báo
cáo sự lĩnh hội tài liệu đã học và đánh giá trình độ lĩnh hội tài liệu của từng em.
Vì những lẽ đó, việc đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá hiện nay không
chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên.
2. Thực tiễn những hạn chế bất cập cần giải quyết về đổi mới phương pháp
dạy học và kiểm tra, đánh giá;
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của giáo dục phổ thông,
hoạt động đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá đã được quan tâm tổ
chức và thu được những kết quả bước đầu. Từ công tác quản lý đến nhận thức thay
đổi của đội ngũ giáo viên, nhiều giáo viên đã vận dụng tốt quy trình đổi mới
phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá, nhiều nhà trường đã quan tâm đầu tư
cơ sở vật chất đảm bảo cho việc áp dụng CNTT vào giảng dạy.
Bên cạnh những kết quả bước đã đạt được, việc đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá ở trường trung học phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế cần phải
khắc phục. Cụ thể:
Một là: Truyền thụ tri thức một chiều vẫn còn là phương pháp dạy học chủ
đạo (của nhiều giáo viên)
Hai là: Tâm lý ngại thay đổi, ngại phải đầu tư các phương pháp, hình thức dạy
học mới, cách soạn bài;
Ba là: Năng lực, kỹ năng sử dụng CNTT vào dạy học còn rất lúng túng (Phần
nhiều là sử dụng kịch bản có sẵn của đồng nghiệp)
Bốn là: Hoạt động kiểm tra, đánh giá ngay trong quá trình học tập còn chưa
thường xuyên, chưa đánh giá đầy đủ và toàn diện
Năm là: Việc tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra đánh giá tại các nhà trường còn chưa thường xuyên, chất lượng các chuyên đề
chưa có tác động tích cực đến thay đổi nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học
và kiểm tra đánh giá của giáo viên;
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không rèn luyện được tính trung thực
trong thi, kiểm tra; nhiều học sinh còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng
tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để gi ải quyết các tình huống thực tiễn
cuộc sống còn hạn chế.
3. Nội dung thực hiện:
Trước thực trạng trên, trong quá trình học tập và thực hiện nhiệm vụ năm
học về đồi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh tôi đã thực
hiện nghiên cứu lý luận về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
đồng thời áp dụng vào thực tiễn giảng dạy trong nhà trường trong năm học 20162017.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá:
Giáo dục được thực hiện trong những hoàn cảnh kinh tế – xã hội cụ thể và
phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Vì thế những yêu cầu của nền
kinh tế – xã hội đối với giáo dục, đối với đội ngũ lao động là những cơ sở quan
trọng cho việc xác định phương hướng phát triển giáo dục. Sự phát triển kinh tếxã hội đặt ra những yêu cầu đối với giáo dục trên nhiều phương diện.
1.1. Lý do phải đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá;
1.1.1. Mục tiêu giáo dục thay đổi; Đổi mới chương trình SGK; Phương tiện phục
vụ giảng dạy thay đổi;
1.1.2. Đối tượng người dạy và người học khác so với trước đây;
1.1.3. Đánh giá hiệu quả của phương pháp đang làm để tìm ra phương pháp hiệu
quả hơn;
1.1.4. Sự phát triển không ngừng của PPDH;
1.1.5. Động lực bên trong :
+ Tri thức nhân loại không ngừng tăng, nhưng số năm học PT có hạn, do đó phải
nâng cao kĩ năng tự học;
+ Áp lực cạnh tranh, sự đòi hỏi về năng lực của người học khi bước vào cuộc sống;
+ Khuyết điểm của ngày hôm nay có thể là sự duy trì quá lâu những ưu điểm của
ngày hôm qua.
1.2. Hội nhập quốc tế:
Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với
những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội nhưng
đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo đội ngũ lao
động. Giáo dục đứng trước một thử thách là tri thức của loài người tăng ngày càng
nhanh nhưng cũng lạc hậu ngày càng nhanh. Mặt khác thị trường lao động luôn đòi
hỏi ngày càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo,
linh hoạt, tính trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, khả năng giải quyết các
vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi. Trong xã hội tri thức, việc phát
triển kinh tế - xã hội dựa vào tri thức. Vì vậy giáo dục đóng vai trò then chốt trong
việc phát triển kinh tế xã hội thông qua việc đào tạo con người, chủ thể sáng tạo và
sử dụng tri thức. Việc gia nhập WTO của Việt Nam trước hết sẽ làm tăng nhu cầu
của thị trường lao động đối với đội ngũ nhân lực có trình độ cao.
1.3 Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp bách trong thời đại ngày
nay.
Hiện nay, đa số học sinh đều có thể vào học hệ cao đẳng hoặc đại học; kể cả
những người đang đi làm trở lại học đại học, cao đẳng với các chuyên ngành nâng
cao ngày càng đông. Do vậy, yêu cầu đào tạo hệ cao đẳng và đại học trên thế giới
đang tăng lên rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trước tình hình đó, ở nhiều
nước trên thế giới, các phương pháp dạy học mới dựa trên quan điểm phát huy tính
tích cực của người học, đề cao vai trò tự học của học trò, kết hợp với sự hướng dẫn
của thầy đang được áp dụng rộng rãi. Sự thay đổi này đã làm thay đổi không chỉ
cách giảng dạy mà còn thay đổi cả việc tổ chức quá trình giáo dục, ứng dụng
những công nghệ dạy học, phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy… do đó, khắc
phục được nhược điểm của các phương pháp cũ, tạo ra một chất lượng mới cho
giáo dục – đào tạo. Ở nước ta, trong quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục
tiêu, chương trình, nội dung giáo dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ.
Tuy nhiên, những thay đổi về phương pháp còn quá ít, quá chậm. Phương pháp
đang được sử dụng phổ biến trong các trường đại học chủ yếu là thuyết giảng có
tính chất áp đặt của thầy, coi nhẹ hoạt động tích cực, chủ động của trò. Sự chậm trễ
đổi mới phương pháp dạy học ở đại học là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu
giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo “người lao động tự chủ năng động, sáng
tạo”. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TƯ 2, Khóa VIII, BCH Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh,
nhất là sinh viên đại học. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và
rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên” (Văn kiện Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị
Quốc gia 1997. tr41).
1.4. Quan điểm dạy học lấy người làm trung tâm là cơ sở để đổi mới phương
pháp dạy học
Một xu hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học đại học là đổi mới theo
quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Quan điểm này có cơ sở lý luận
từ việc nhận thức quá trình dạy học là quá trình có hai chủ thể: Thầy và trò. Cả hai
chủ thể này đều chủ động, tích cực, bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức,
thầy thì hoạt động truyền đạt tri thức, còn trò thì hoạt động chiếm lĩnh tri thức và
biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn… Đây là quan điểm dạy học được đa số các nước có nền giáo dục tiên
tiến quan tâm. Xin nhấn mạnh rằng, hoạt động của thầy và hoạt động của trò đều là
hoạt động có ý thức, dưới sự chỉ huy của ý thức để đạt mục tiêu của mình. Vì vậy,
kết quả nhận thức của họ trong các quá trình nhận thức, trước khi đạt đến mức
chuyển hóa được thành phương pháp, là công cụ cho họ thực hiện mục đích của
mình. Do vậy, bàn về phương pháp dạy học chúng ta phải bàn đến cả phương pháp
dạy của thầy và phương pháp học của trò. Sự phù hợp của hai phương pháp này sẽ
cho chúng ta hiệu quả thực sự của việc dạy học. Bài viết này tập trung vào phương
pháp của thầy - một trong hai chủ thể của quá trình dạy học tích cực.
Ta có thể so sánh để thấy được sự khác nhau của hai quan điểm giáo dục:
Quan điểm dạy học lấy thầy
Quan điểm dạy học lấy người học làm trung
làm trung tâm
tâm
1. Thầy truyền đạt tri thức 1. Thầy định hướng nghiên cứu và tài liệu nghiên
cứu
2. Thầy độc thoại phát vấn.
2. Trò tự mình tìm ra tri thức bằng hành động tự
học là chủ yếu
3. Thầy áp đặt những kiến thức 3. Đối thoại giữa trò với trò; giữa trò vời thầy (trò
có sẵn.
đưa ra câu hỏi )
4. Trò học thuộc lòng.
4. Cùng với thầy khẳng định kiến thức lĩnh hội
được. Hình thành các phương pháp học, tư duy và
giải quyết các vấn đề cụ thể.
5. Thầy độc quyền đánh giá 5. Tự đánh giá, tự điều chỉnh, để thầy cho điểm.
cho điểm.
Sự khác nhau căn bản của 2 quan điểm dạy học dẫn đến sự khác nhau trong
việc xác định các phương pháp cụ thể cho từng môn học, bài học, từng phần, từng
đối tượng học sinh….
Thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học làm
trung tâm thì hoạt động của thầy và trò tương ứng như sau:
- Người học khai phá tri thức, tự nghiên cứu - Thầy chỉ hướng dẫn và cung cấp
thông tin.
- Người học tự trả lời các thắc mắc do chính mình đặt ra, tự kiểm tra mình Thầy là trọng tài.
- Người học tự hành động, tự kiểm tra, tự điều chỉnh - Thầy làm cố vấn
Để thực hiện được quá trình dạy học theo quan điểm lấy người học làm trung
tâm người thầy giáo phải làm gì?
- Vai trò người thầy trong quá trình dạy học theo quan điểm lấy người học là
trung tâm không thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn, người thầy vẫn là “linh
hồn” của giờ học sinh động và sáng tạo. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn,
cung cấp thông tin, trọng tài, cố vấn… người thầy phải hiểu biết sâu sắc những
kiến thức cơ bản của môn học mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn
kiến thức của mình thường xuyên và có định hướng rõ ràng qua tài liệu, sách
báo…
Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy luật của quá trình dạy học để
có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng
của mình nhất.
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi
mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó,
muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết là bản thân mỗi giáo
viên phải ý thức được để chủ động từ bỏ các phương pháp dạy học truyền thống đã
thành thói quen và chuyển hẳn sang các phương pháp mớ.
1.5. Vấn đề về đổi mới kiểm tra đánh giá:
Kiểm tra là quá trình thu thập thông tin làm cơ sở cho đánh giá. Đánh giá
kết quả học tập là quá trình thu thập xử lý thông tin về trình độ, khả năng người
học thực hiện. Đo lường kết quả học tập là quá trình đối chiếu các thông tin thu
được với tiêu chuẩn hoặc tiêu chí. Việc đo lường mang tính phức tạp, có một số
đặc trưng như định tính và định lượng, trực tiếp và gián tiếp.
Đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ là động lực thúc đẩy các quá trình khác như
đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức tổ chức hoạt động dạy học; Nếu
thực hiện được việc kiểm tra đánh giá hướng vào đánh giá quá trình, giúp phát
triển năng lực người học, thì lúc đó quá trình dạy học trở nên tích cực hơn rất
nhiều. Quá trình đó sẽ nhắm đến mục tiêu xa hơn, đó là nuôi dưỡng hứng thú, tạo
sự tự giác trong học tập và quan trọng hơn là gieo vào lòng học sinh sự tự tin.
2. Thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá hiện nay;
2.1: Thuận lợi và những thành công;
Phần lớn cán bộ giáo viên đều được tập huấn về đổi mới phương pháp dạy
học và kiểm tra đánh theo các chương trình tập huấn của ngành;
Giáo viên có nhận thức đúng đắn về sự đổi mới về chương trình học mới, có
năng lực chuyên môn tốt, tâm huyết với nghề dạy học có tinh thần trách nghiệm
trong nhiệm vụ được giao
Có được sự chỉ đạo kịp thời ....
Phụ huynh học sinh ủng hộ...
Học sinh có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin học tập bổ ích...Mạnh
dạn trong tiếp cận mô hình trường học mới.
2.2: Tồn tại hạn chế;
Còn bộ phận nhiều giáo viên chưa đồng thuận theo quan điểm đổi mới
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, cũng như chưa có những định hướng,
giám sát chặt chẽ của các cấp quản lý nên thực hiện đổi mới chưa đồng bộ, chưa
thực sự tạo phong trào.
Giáo viên ngại thay đổi, ngại phải đầu tư về các phương thức dạy học tích
cực, với phương pháp dạy học truyền thống đã trở thành như thói quen, chưa nhận
thức đúng về tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy dọc và kiểm tra đánh
giá đãn đến rất mơ hồ và không vượt qua được rào cản của lối dạy học truyền
thống.
Trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động dạy học còn thiếu, phòng học,
phòng học bộ môn, máy chiếu, thiết bị thực hành chưa đáp ứng được yêu cầu về
đổi mới;
Còn quá coi trọng việc đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng kiến thức
nâng cao, hàn lâm, không tạo được cơ hội để học sinh tự khám phá tri thức mới...
Biểu hiện cụ thể qua phương pháp kiểm tra còn nghèo nàn, thiếu tính thực tiễn và
sáng tạo, chú trọng mục tiêu dạy chữ, Kiểm tra đánh giá mang tính áp đặt không
linh hoạt.
2.3. Nguyên nhân
Công tác tuyên truyền,
Áp lực từ các cuộc thi HSG
Thời gian và khung chương trình
3. Các giải pháp
3.1. Với đổi mới phương pháp dạy học:
Ngoài việc cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống (Thuyết trình,
đàm thoại...), việc phối hợp hiệu quả các phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học,
phương pháp đặc thù bộ môn... Đó là những phương pháp đang thực hiện và cũng
phát huy khá tốt. Tuy nhiên phương pháp: "Dạy học theo tình huống" hay theo
"Định hướng hành động" và sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học, áp dụng tốt vai trò
của CNTT trong dạy học chúng ta cũng cần quan tâm sử dụng. Với ba giả pháp
trên tôi xin được phân tích cụ thể và thực tiễn áp dụng trong giảng dạy nhà trường;
3.1.1. Vận dụng dạy học theo tình huống:
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học
được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống
và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo
điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội
của việc học tập.
Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến
nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà
trường, các môn học được phân theo các môn khoa học chuyên môn, còn cuộc
sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ
đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn
khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp, liên môn.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình
của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống
điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.
Ví dụ: giải phương trình tích ta đặt ra tình huống có vấn đề:
Để giải một phương trình ta phải giải nhiều phương trình .Sao thế nhỉ?
Ví dụ : Giải phương trình : ( 2x – 3 ) ( x + 1 ) = 0 ( I )
Phương pháp giải
Tính chất nêu trên của phép nhân có thể viết
ab = 0 ⇔ a = 0 hoặc b = 0 ( với a ; b là các số )
Đối với phương trình ta cũng có : ( 2x – 3 ) ( x + 1 ) = 0
⇔ 2x – 3 = 0
Hoặc
x+1=0
Do đó để giải phương trình ( I ) ta phải giải hai phương trình
1/ 2x – 3 = 0 ⇔ 2 x = 3 ⇔ x = 1,5
2/ x + 1 = 0 ⇔ x = - 1
Vậy phương trình đã cho có hai nghiệm : x = 1,5 và x = - 1
Và ta viết tập hợp nghiệm của phương trình là : S = { 1,5; −1}
Giải phương trình như trên được gọi là giải phương trình tích
Từ vd giải cụ thể giáo viên đưa ra phương pháp tổng quát hóa như sau
GV? : Để giải phương trình tích : A(x 1 ) . A(x 1 ) . …………….A(x n ) = 0 ( II )
thì ta cần giải những phương trình nào ?
HS: Để giải phương trình ( II ) ta cần giải các phương trình sau
A( x 1 ) = 0
(1)
A( x 2 ) = 0
(2)
……………………..
A ( xn ) = 0
(n)
Nghiệm của các phương trình ( 1 ) ; ( 2 ) …….( n ) là nghiệm của phương trình ( II
)
Với các giá trị của x thỏa mãn điều của phương trình ( II )
Ví dụ:(bài kiểm tra 15 phút môn toán 8 –bài tập tình huống như sau)
Đố.TRUNG bảo NGHĨA háy nghĩ trong đầu một số tự nhiên tùy ý.sau đó nghĩa
thêm 5 vào số ấy,nhân tổng nhận được với 2, được bao nhiêu đem trừ đi 10,tiếp tục
nhân hiệu tìm được với 3 rồi cộng thêm 66, cuối cùng chia kết quả cho6.Chẳng hạn
,nếu nghĩa nghĩ đén số 7 thì quá trình tính toán sẽ là:(7+5=12)
Mà 12.2=24 mà 24-10=14 mà 14.3=42 mà 42+66=108 mà 108:6=18
TRUNG chỉ cấn biết kết quả cuối cùng số 18 là đoán ngay được số nghĩa đã nghĩ
là số nào.
NGHĨA thử mấy lần, TRUNG đều đoán đúng>NGHĩa phục tài TRUNG lắm.
Đố em tìm ra bí quyết của TRUNG đấy?
I/ Phương pháp Hình thàng các kĩ năng cho học sinh:
a)Hình thành cho học sinh kĩ năng tóm tắt và vẽ hình cho bài toán:
Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài
toán gọn lại, đặc biệt phải sử dụng các kí hiệu để viết:
Ví dụ:
Phần nội dung của bài toán:
Nên viết theo kí hiệu:
Đoạn thẳng AB bằng đoạn thẳng AC
AB=AC
Cho M là trung điểm của cạnh BC
MB = MC
Cho AH vuông góc với BC
AH ⊥ BC
A1 = A2
Cho AD là phân giác góc A
……………
………….
Chính vì thế mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn.
Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà
nhắc lại được đề của bài toán.
A
Ngoài việc tóm tắt bài toán, công việc quyết định
giải được bài toán hay không là việc vẽ được hình của bài
toán một cách khoa học và chính xác:
E
D
Ví dụ :Vẽ hình,viết giả thiết và kết luận :
I
Cho ∆ ABC có AB=AC , Aˆ =600.CE là tia phân giác của
B
C
góc C BD là tia phân giác của góc BBD và CE cắt nhau ở
I E thuộc AB ,D thuộc AC .Chứng minh ID=IE
∆ABC , Aˆ = 60 0 ,AB=AC
BD là pân giác góc B: ABˆ D = DBˆ C
GT
CE là pân giác góc C: ACˆ E = ECˆ B
CE ∩ BD = I
KL
Chứng minh rằng ID = IE
Giáo viên cần chỉ thật tỉ mỉ về phương pháp vẽ hình từng bài vì đôi lúc
học sinh yếu quên đi các định nghĩa tính chất đã học nên không thể dựng hình
được chính vì vậy học sinh không thể vẽ hình được:
Chẳng hạn : Vẽ tia phân giác góc B, góc C , cắt AC tại D, cắt AB tại E , hai tia này
cắt nhau tại I như thế nào? Giáo viên cần yêu cầu học sinh nhắc lại tia phân giác
của một góc là gì? Nêu từng bước vẽ?
b)Hình thành kĩ năng phân tích bài toán và khả năng trình bày một bài toán:
*Hình thành kĩ năng phân tích bài toán
Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải
bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu
hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
- Cái này biết chưa?
- Còn cái này thì sao?
- Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài
kĩ hơn, tự các em giải được bài toán
.
3.1.2. Vận dụng dạy học định hướng hành động:
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt
động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học
tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành
động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là
một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định
hướng hành động có ý nghĩa quan trong cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết
hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành
động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức
hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản
phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và
quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh,
dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình
huống và dạy học định hướng hành động.
3.2 Về đổi mới kiểm tra đánh giá:
Theo tôi, để nâng cao hiệu quả và đổi mới KTĐG HS theo hướng tiếp cận
năng lực HS cần vận dụng những giải pháp sau:
Cần có những nghiên cứu sâu về lí luận và thực tiễn KTĐG, nghiên cứu và
vận dụng một cách sáng tạo các thành tựu KTĐG mới nhất của thế giới vào Việt
Nam. Hiện nay, Bộ GD&ĐT phối hợp với doanh nghiệp công nghệ thông tin xây
dựng các hệ thống tổ chức 2 cuộc thi trên phạm vi toàn quốc, đó là: thi giải Toán
qua mạng (Violympic) và thi tiếng Anh qua mạng (IOE). Đây là kinh nghiệm tốt
để tiến tới xây dựng các công cụ đánh giá quốc gia như SCAT, SAT…
Việc đổi mới cách KTĐG HS phổ thông hiện nay là một việc làm có tính
cấp bách. Trong ĐG hạnh kiểm, cần xem xét đến học lực, nhưng quan trọng là ý
thức, động cơ, thái độ học tập chứ không phải xếp loại học lực. Ngành GD cần xây
dựng tiêu chuẩn về đạo đức một cách cụ thể, chú trọng đến phát triển năng lực cá
nhân và tôn trọng nhân cách của HS; quy định lời nhận xét của GV chủ nhiệm đối
với HS phải đầy đủ, toàn diện chứ không chỉ là những cụm từ chung chung như
“Có cố gắng”, “Chăm ngoan, học giỏi”...
Đánh giá mức độ tiến bộ về nhân cách của HS gắn liền với việc xây dựng
tiêu chí và phương pháp ĐG phù hợp với từng cấp học, từng độ tuổi; như vậy, cần
xác định chuẩn của người Việt Nam ở thế kỉ XXI.
Trong KTĐG ở nhà trường, cần sử dụng nhiều phương pháp ĐG khác nhau
(thi viết, vấn đáp, trắc nghiệm, quan sát, làm thí nghiệm, trình bày dự án…). Đặc
biệt là chuyển từ ĐG chú trọng đến kiến thức HS nắm được sang ĐG quá trình,
cách thức HS nắm được kiến thức đó như thế nào, chú trọng đến kĩ năng cơ bản,
năng lực cá nhân. KTĐG cần quan tâm đến 4 yếu tố:
Một là: Phát triển toàn diện HS: KTĐG phải thể hiện ở các mặt đức, trí, thể,
mĩ, tình cảm và xã hội;
Hai là: Cá biệt hóa GD: KTĐG chú trọng đến sự phân hóa HS, đến việc phát
hiện năng lực của từng cá nhân;
Ba là: Dân chủ hóa GD: KTĐG phải đảm bảo công khai, công bằng, dựa
vào mục tiêu đặt ra từ đầu, tôn trọng sự tự ĐG của HS;
Bốn là: Ứng dụng hóa GD: KTĐG nhằm hướng đến năng lực thực tiễn của
HS, đề KT không chú trọng đến kiến thức lí thuyết, hàn lâm mà chú trọng đến việc
vận dụng các kiến thức đã học vào đời sống, những kiến thức hữu ích cho cuộc
sống và việc học tập của các em.
Nhà trường chịu trách nhiệm chính trong công tác KTĐG nhưng không phải
là Ban giám hiệu mà chính là GV và HS. Do xác định GV có trách nhiệm cao
trong công tác KTĐG, nên cần thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ lí luận
và phương pháp KTĐG cho đội ngũ GV và cán bộ quản lí GD.
4. Hiệu quả khi áp dụng:
Kế thừa và phát huy tốt những phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá
truyền thống, phối hợp hiệu quả các phương pháp trong thực tiễn giảng dạy và
mạnh dạn vận dụng thay đổi những hình thức giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh
giá. Trong năm học qua bản thân tôi đã thu được kết quả đáng kể trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục nói chung. Kết quả cụ thể nhận được là:
Học sinh đã trở nên quen thuộc với hình thức học tập mới, thực hiện hiệu
quả các nhiệm vụ học tập, trao đổi, thảo luận học tập mạnh dạn và tự tin hơn;
Ngôn ngữ bộ môn ngày càng hoàn thiện, biểu hiện qua trao đổi với thầy với
bạn và trình bày trong bài kiểm tra;
Học sinh chủ động hơn trong việc tìm hiểu bài học, chủ động trong tự học,
trợ giúp bạn cùng nhóm hiệu quả;
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Những vấn đề đạt được;
Qua bài thu hoạch về nội dung đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá học sinh, việc đã thực tiễn áp dụng vào giảng dạy bản thân đã góp phần
vào giải quyết đạt hiệu quả một số nội dung trong đổi mới giảng dạy, kiểm tra,
đánh giá. Ngoài việc vận dụng tốt những ưu thế của các phương pháp dạy học
truyền thống tôi đã mạnh dạn đổi mới hiệu quả các hình thức, phương pháp mới
vào giảng dạy, đổi mới được các nội dung kiểm tra, đánh giá, nhằm phát huy tính
chủ động, sáng tạo cho học sinh;
2. Một số khó khăn, hạn chế;
Việc đổi mới chưa có tính đồng bộ của nhiều bộ môn nên việc hình thành
cho học sinh thói quen với hình thức dạy học mới đòi hỏi mất nhiều thới gian;
Đối tượng học sinh có chất lượng không đồng đều, còn bộ phận học sinh
chưa có ý thức tự học, ỷ lại, không tích cực trong hoạt động nhóm;
Tư tưởng của nhiều bộ phận giáo viên đang xem đây là phương pháp thử
nghiệm, chưa có lòng tin vào định hướng đổi mới nên đầu tư mang tính nhất thời
không thường xuyên (Chỉ áp dụng khi có chuyên đề hay có kiểm tra của cấp quản
lý)
Việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, năng lực sử dụng và áp dụng CNTT cho
giáo viên chưa đáp ứng đủ yêu cầu, việc kiểm tra sử dụng thiết bị hỗ trợ giảng dạy
mới chỉ mang tính quan sát chung, chưa sâu sát trong chất lượng sử dụng.
3. Bài học kinh nghiệm:
Trước những thành công, và những tòn tại cần tháo gỡ trong giai đoạn tới về
đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá, qua những năm thực tiễn áp
dụng của bản thân tôi thiết nghĩ. Để có thể thành công trong đổi mới phương pháp
giảng dạy và kiểm tra đánh giá, nhằm đáp ứng được những đòi hỏi về nguồn nhân
lực trong giai đoạn phát triển hiện nay, trước hết mỗi giáo viên đứng lớp cần:
Nhận thức đầy đủ, và có lý luận sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá, nhận thức đúng về bối cảnh hội nhập quốc tế của nước nhà,
mạnh dạn thay đổi và phát ưu điểm của các phương pháp giảng dạy truyền thống;
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân, đặc biệt là cha, mẹ học sinh để
nhân dân hiểu và có nhận thức tích cực về đổi mới giáo dục.
Phối kết hợp tốt với các tổ chức Đoàn, Đội TNTP tổ chức để học sinh được
trải nghiệm thực tiễn, nghiên cứu khoa học nhằm phát triển toàn diện kỹ năng sống
cho học sinh;
Kiên trì, không chán nản trước những ảnh hưởng chưa tích cực của phương
pháp mới để có được những giải pháp tháo gỡ tối ưu. Có như vậy mới dần hình
thành những kỹ năng nghiệp vụ giảng dạy mới tích cực.
4. Đề xuất - Kiến nghị:
Đổi mới PPDH và KTĐG HS là những khâu rất quan trọng trong quá trình
dạy và học. Khoa học về PPDH và KTĐG của thế giới đã có bước phát triển mạnh
mẽ cả về lí luận lẫn thực tiễn, trong khi ở Việt Nam, ngành GD chỉ mới quan tâm
đến vấn đề này trong những năm gần đây. PPDH và KTĐG không chỉ là công cụ
cho quản lí chất lượng GD của các cấp quản lí và của GV mà còn là quyền lợi,
niềm vui và cơ hội cho người học. Đổi mới KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực
HS là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng GD nói chung và đáp ứng yêu
cầu đổi mới chương trình GDPT nói riêng. Một số nội dung trình bày trên tuy chưa
được đầy đủ, nhưng có thể góp phần giúp GV và cán bộ quản lí trường học cải tiến
khâu đổi mới PPDH và KTĐG, tạo tác động tích cực cho việc dạy và học, đồng
thời thúc đẩy việc đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học. Để
thực hiện hiệu quả công tác này tôi đề xuất một số nội dung;
Các cấp quản lý giáo dục cần quan tâm sâu sát hơn trong công tác đỏi mới
PPDH và KTĐG học sinh trong các nhà trường, có kế hoạch tập huấn nghiệp vụ
sớm, cử cán bộ giáo viên tâm huyết, có năng lực học tập tiếp thu để chia sẻ kinh
nghiệm cho đồng nghiệp;
Tổ chức nhiều các hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong nhà trường, các
cuộc thi do Bộ GD tổ chức (Toán, tiếng anh, Vật lý qua mạng)...
Hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị đảm bảo
phục vụ đủ trong giảng dạy;
Cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá giờ dạy theo định hướng đổi mới, tổ chức
các giờ dạy mẫu nhằm thống nhất các định hướng chung về PPDH và KTĐG cho
cán bộ, giáo viên trong huyện nhà;
NỘI DUNG 3
MODULE 3: GIÁO DỤC HỌC SINH THCS CÁ BIỆT
I. MỞ ĐẦU
1. Vị trí, vai trò trong việc giáo dục học sinh THCS cá biệt.
- Giáo dục đạo đức học sinh đặc biệt giáo dục học sinh cá biệt có vị trí hàng
đầu trong toàn bộ công tác giáo dục ở nhà trường. Do vậy, giáo dục học sinh cá
biệt giữ vị trí then chốt trong nhà trường. Công tác giáo dục đạo đức tốt sẽ là cơ sở
để nâng cao chất lượng giáo dục và giáo dục toàn diện cho học sinh. Qua tìm hiểu,
học tập module 3 “Giáo dục học sinh THCS cá biệt” bản thân tôi đã và đang vận
dụng một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt vào việc giáo dục học sinh cá
biệt lớp tôi chủ nhiệm.
2. Thực tiễn vấn đề giáo dục học sinh THCS cá biệt.
- Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi khủng hoảng trong sự phát triển tâm lí ,
chính vì vậy so với học sinh ở bậc tiểu học, lứa tuổi này dễ xuất hiện học sinh khó
giáo dục. Mâu thuẫn trong chính sự phát triển tâm lí ở lứa tuổi này cùng với thiếu
sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời của người lớn do thiếu hiểu biết đặc điểm và những khó
khăn của các em mà một số em đã không vượt qua được giai đoạn này một cách
tích cực, hình thành những thái độ, hành vi không phù hợp.
3. Vấn đề viết trong bài thu hoạch.
- Những học sinh có thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy,
truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người
học sinh, hoặc thiếu văn hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, đồng
thời không có động cơ học nên kết quả học tập yếu, kém…được lặp đi lặp lại
thường xuyên và trở thành hệ thống được coi là cá biệt. Trong bài thu hoạch này
tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm mong góp một phần nhỏ bé của mình
trong việc giáo dục học sinh cá biệt góp phần nâng cao hơn nữa thực chất chất
lượng giáo dục hiện nay.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sơ li luận.
- Ở lứa tuổi các em, lứa tuổi đang có sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý,
việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự hiểu biết
tương ứng cộng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn nhận
được sự tư vấn kịp thời của cha mẹ khi ở trong trang thái thiếu cân bằng ấy, có em
không được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại được quá chiều chuộng... Từ sự
khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt trong học sinh và chính một bộ
phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên trong qua trình giảng
dạy trên lớp.
- Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác
nhau làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu
hiện khác nhau như vậy. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn
hay nói cách khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta,
không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả
cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất
định chúng ta sẽ thành công.
2. Thực trạng:
2.1. Thuận lợi:
- Đa số học sinh ở gần trường, thuộc địa phương. Hầu hết các em có tính kỉ
luật cao, lễ phép với thầy cô giáo, biết vâng lời cha mẹ, tích cực tham gia phong
trào do đoàn, đội, nhà trường tổ chức.
- Được cha mẹ đầu tư thời gian, quan tâm đến việc học hành của con cái.
- Cha mẹ học sinh thường xuyên liên lạc với giáo viên để nắm bắt tình hình
học tập, rèn luyện của con em mình.
2.2. Hạn chế:
- Bên cạnh những học sinh có tính kỉ luật cao, vẫn còn có những học sinh cá
biệt chưa có ý thức trong học tập cũng như rèn luyện đạo đức như: Vô lễ với thầy
cô giáo, đánh bạn, trốn học đi chơi games online, nói tục, ăn cắp vặt…Thực trạng
đó là do nguyên nhân.
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan:
- Chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được trách nhiệm,
bổn phận của bản thân:
Học sinh chưa nhận thức được: Học để làm gì? Vì cái gì mà học? hoặc chưa
biết hài hòa giữa quyền và bổn phận trách nhiệm của mọi con người trong cuộc
sống, do được giáo dục chưa đầy đủ hoặc chưa đúng cách, hoặc bản thân thiếu tự
giác chấp nhận những bổn phận, trách nhiệm của mình bên cạnh việc được hưởng
thụ các quyền lợi trong gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, các em đến trường,
đi học như là ý muốn của gia đình, cha mẹ, mà không nhận thức được đi học là cơ
hội để thành công và hạnh phúc sau này, cho nên các em này thiếu tự giác, thậm
chí thiếu trách nhiệm với việc học tập và tu dưỡng.
- Một số em có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống:
Học sinh quan niệm chưa hợp lí về giá trị của con người và cuộc sống. Các
em này không tin rằng sự học sẽ đem lại cho con người giá trị và cuộc sống có
chất lượng.
-Chán nản:
Nhiều học sinh cảm thấy chán nản về năng lực của mình, mất dần hứng thú,
động cơ học tập, hoạt động. Học sinh tin rằng mình không thể “khá" lên đuợc,
đánh giá thấp về bản thân mình, không vượt qua được khó khăn, kém tự tin.
Phương pháp học tập không hiệu quả cũng có thể là nguyên nhân gây chán nản và
mất động cơ học tập.
- Rối loạn hành vi xã hội của học sinh cá biệt:
+ Dửng dưng trước tình cảm của người xung quanh.
+ Coi thường các chuẩn mực cũng như các nghĩa vụ xã hội.
+ Hung tợn, có thể dùng vũ lực.
+ Không cỏ khả năng cảm nhận tội lỗi và không thể rút ra những bài học có
ích từ kinh nghiệm sống.
+ Biện hộ cho những hành động đi ngược lại chuẩn mực xã hội của mình.
Đối với việc hạn chế các hành vi bạo lực ở học sinh, ngoài việc dạy tri thức
thì sự quan tâm của giáo viên đến đời sống tinh thần của học sinh, hiểu đặc điểm
tâm lí và tôn trọng cá tính của các em là rất quan trọng. Nhiều học sinh do bị điểm
kém, cô giáo mắng ngay trên lớp khiến các em thấy xấu hổ với bạn bè, bị tổn
thuơng nghiêm trọng. Nhiều thầy cô dùng hình thức trừng phạt học sinh như là
biện pháp giáo dục nhằm mục đích để học sinh vâng lời.
Các nhà giáo dục học và tâm lí học thế giới đã đúc kết: lứa tuổi THCS là tư
duy hai bước: ghi nhận và phân tích đúng sai, các em đã phát triển tốt hơn về tư
duy suy luận, cá tính bộc lộ rõ hơn, cùng với xu hướng tự khẳng định mình ngày
càng nõ nét. Do đó, lúc này quá trình giáo dục thành công chính là làm sao để các
em tự giáo dục, tự nhận thức và rút ra bài học cho bản thân, vì vậy trước hết cần để
học sinh phải tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.
2.2.2. Nguyên nhân khách quan:
- Ảnh hưởng của nhóm bạn: Một số học sinh kết bạn và đi chơi với các
thanh thiếu niên hư hỏng ở bên ngoài nhà trường cộng với sự tác động của những
tiêu cực xã hội.
- Ảnh hưởng của gia đình: Nhiều bậc cha mẹ hoặc phải lo làm ăn do kinh
tế còn khó khăn hoặc mải lo làm giàu mà vô tình quên đi việc giáo dục đạo đức
cho con, đẩy hết trách nhiệm về phía nhà trường. Một số gia đình phụ huynh có
điều kiện nhưng lại nuông chiều con quá mức.
- Ảnh hưởng của môi trường sống, các quan hệ xã hội khác: Sự phát
triển của mạng Internet về nông thôn, nhiều điểm chat, chơi game online mọc lên ở
lân cận trường học.
3. Giải pháp.
3.1. Thu thập thông tin về học sinh cá biệt:
- Tổ chức cho học sinh biết về những điều có ý nghĩa đối với bản thân và
cuộc sống theo quan niệm các em.
Bước1: Phát cho mỗi giáo viên tờ giấy yêu cầu đặt mình vào vị trí là học sinh, suy
nghĩ để trả lời các câu hỏi.
Bước2: Tổ chức cho học sinh xung phong chia sẻ với mọi người trong lớp
Bước3: Kết luận
- Thông qua tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng tự nhận thức bản thân,
giáo viên có thể nắm được những thông tin cơ bản về cá tính của từng học sinh để
giúp giáo viên tiếp cận cá nhân phù hợp.
- Quá trình suy ngẫm để trả lời câu hỏi trên đã giúp học sinh nhận ra những
điểm mạnh cần phát huy, những điểm yếu cần khắc phục...
- Kết quả tự nhận thức của học sinh nên lưu vào hồ sơ cá nhân để giáo viên
theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ giúp đỡ các em tiến bộ.
- Sắm vai trò chuyện với học sinh cá biệt ngoài giờ học.
Bước1: Chia lớp thành các nhóm từ 5 đến 8 người. Mỗi nhóm đọc những thông tin
cơ bản và phân công hai người sắm vai: một là học sinh cá biệt và một là giáo
viên.
Bước2: Thực hành trò chuyện với học sinh cá biệt
3.2. Hướng phối hợp xử lí, lưu trữ, khai thác thông tin về từng học sinh cá
biệt:
- Cách thức xử lý: phân tích các thông tin thu được theo hướng kết hợp, đối
chiếu, so sánh thông tin thu được từ các nguồn khác nhau, trên cơ sở đó phân tích,
đánh giá để giữ lại những thông tin được kiểm chứng từ nhiều nguồn, sau đó tổng
hợp, khái quát hoá để có thể có những nhận định cơ bản về học sinh đó.
- Cách lưu giữ kết quả đánh giá để lập hồ sơ từng học sinh cá biệt
- Hướng khai thác thông tin về học sinh.
3.3. Tìm hiểu cách thức giáo dục học sinh cá biệt:
- Giáo viên cần phải tiếp cận cá nhân và xây dựng quan hệ tin cậy, tôn
trọng, thân thiện với học sinh cá biệt.
+ Thể hiện sự hiểu biết, thông cảm và chấp nhận.
+ Tập trung vào điểm mạnh của trẻ.
+ Tìm điểm tích cực và nhìn nhận tình huống theo cách khác tích cực hơn.
+ Tập trung vào những điểm cố gắng, tiến bộ của trẻ.
Học simh cần cảm thấy được khích lệ để có tự tin và có động cơ hoạt động. giáo
viên chủ nhiệm tiếp cận tích cực thì sẽ khơi dậy được nhu cầu muốn khẳng định
khả năng và giá trị của bản thân, muốn hoàn thiện nhân cách.
Muốn thay đổi hành vi của học sinh một cách hiệu quả, giáo viên cần có sự
hợp tác của học sinh, do đó giáo viên cần chủ động tiếp xúc với học sinh để nắm
bắt về điều kiện và hoàn cảnh, tâm tư, sức khỏe... của học sinh; động viên, an ủi
giúp cho các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc ốm đau, bệnh tật cố gắng
yên tâm học tập và biết vượt khó, vươn lên.
- Giúp học sinh biẽt nhận thức đúng về điểm mạnh và điểm yếu của bản
thân.
+ Nhận thức được những giá trị đối với bản thân
+ Tự tin về gía trị và những điểm mạnh của mình để làm điểm tựa cho
những hành vi và ứng xử một cách tích cực
- Giúp học sinh nhận thức được hậu qủa của những hành vi tiêu cực và
tất yếu phải thay đổi thói quen, hành vi cũ.
+ Giáo viên kết hợp với tập thể lớp giúp học sinh dần nhận thức được những
hành động, cản trở sụ phát triển chung.
+ Giáo viên và tập thể học sinh cần hỗ trợ các em trong quá trình thay đổi
hành vi. Đây là quá trình khó khăn đòi hỏi sự kiên trì của học sinh cá biệt và sự
khuyến khích, hỗ trợ của giáo viên, gia đình, bạn bè.
- Giáo viên cần phải quan tâm hổ trợ các em vượt qua những khó khăn
và đáp ứng nhu cầu chính đáng của học sinh cá biệt
Tổ chức cho lớp quan tâm, giúp đỡ học sinh cá biệt khi gặp khó khăn; phụ
đạo bồi dưỡng thêm để các em có được những kiến thức, kĩ năng cơ bản, vận
dụng phưong pháp tự học bộ môn.
Để đáp úng nhu cầu cho học sinh, giáo viên cần lưu ý:
+ Thái độ hành vi của giáo viên để học sinh thấy được an toàn.
+ Thái độ hành vi của giáo viên để học sinh thấy được yêu thương.
+ Thái độ, hành vi của giáo viên để học sinh thấy được hiểu, thông cảm.
+ Thái độ hành vi của giáo viên để học sinh thấy được tôn trọng.
+ Thái độ hành vi của giáo viên để học sinh thấy có giá trị.
- Động viên, khích lệ, tạo động lực cho học sinh cá biệt tạo động lực học
tập và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
+ Trong từng giờ học người giáo viên cần chú ý khai thác những trải nghiệm
của HS trong quá trình kiến tạo tri thức mới, tạo nên sự hấp dẫn của nội dung tri
thúc, quá trình học lập và những phương pháp tìm ra tri thúc, quan tâm truyền cảm
hứng, sự đam mê kích thích hứng thú học hành cho học sinh.
+ Cần làm cho học sinh hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình trước gia
đình và xã hội để tự giác học tập
+ Giáo dục mục đích học tập đứng đắn, học để nâng cao hiểu biết, có
phuơng pháp làm việc khoa học, có chất lượng cuộc sống sau này
+ Cần tôn trọng các em làm cho các em thấy rằng mình có nhiều điểm
mạnh, có giá trị cần phải nổ lực khai thác, phát huy những điểm mạnh đồng thời
khắc phục những điểm yếu và thói quen chua tốt
+ Giúp học sinh nhận thấy mình có giá trị, có khả năng, mọi người yêu quý,
tôn trọng và tin tưởng mình sẽ thay đổi.
+ Việc cổ vũ hay thưởng cho học sinh khi có những hành động tốt, có sự
thay đổi theo chiều hướng tốt được xem là củng cố tích cực.
- Tránh sử dụng củng cố tiêu cực.
Giáo viên cảm thấy căng thẳng và bất lực khi có những học sinh hư, gây rối
trong lớp. Nếu người lớn trừng phạt thì không những không mang lại hiệu quả mà
còn hại cho học sinh, làm học sinh lo âu và hạn chế tiến trình học tập và phát triển
của bản thân.. Muốn thay đổi hành vi của học sinh một cách hiệu quả, người lớn
cần có sự hợp tác của học sinh. Học sinh cần cảm thấy được khích lệ để có tự tin
và động cơ hoạt động.
- Sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả logic.
Mục đích chủ yếu của việc sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả logic dạy cho
học sinh có ý thức trách nhiệm về các hành vi của chính minh, khích lệ học sinh
đưa ra những quyết định có trách nhiệm, do đó cách làm này có thể thay thế cho
trừng phạt
- Lập kế hoạch phát triển cá nhân, khơi dậy hoài bão và ý thức tự giáo
dục của học sinh.
Kế hoạch giáo dục cá nhân sẽ đưa đến tiếp cận đúng đắn, phù hợp trong việc
đánh giá kết quả giáo dục, dạy học học sinh nói chung và những học sinh đặc biệt
nói riêng.Tuy nhiên, xây dựng bản kế hoạch giáo dục cá nhân là việc làm mới và
không ít khó khăn. Để tiến hành giáo dục học sinh có hiệu quả cần phải xây dựng
và thực hiện một cách nghiêm túc, theo các mục tiêu và kế hoạch đã định.
- Áp dụng biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với cả tập thể lớp và
học sinh cá biệt.
+ Tước bỏ hoạt động yêu thích cho đến khi khắc phục được lỗi
+ Tạm dừng việc học tập để học sinh tự kiểm điểm bản thân với mục đích
để giúp học sinh thoát ra khỏi trạng thái căng thẳng không thể kiềm chế bản thân
và tạo điều kiện cho học sinh bình tĩnh trở lại.
+ Yêu cầu viết báo cáo hàng ngày với mục đích là để học sinh nhận biết
được những lỗi thường xuyên mắc phải và tạo cho các em cơ hội điều chỉnh.
- Thiết lập mối quan hệ thân thiện, gần gũi, chặt chẽ giữa giáo
viên với cha mẹ học sinh thường xuyên.
Làm tốt công tác tư vấn kịp thời về phương pháp giáo dục học sinh cho cha
mẹ học sinh, vận động cha mẹ học sinh cùng tham gia các hoạt động chung của
lớp, của trường để cha mẹ học sinh hiểu thêm về các hoạt động học tập của con em
khi ở trường từ đó phối hợp quản lí giáo dục học sinh hiệu quả.
3.4. Các phương pháp thu thập thông tin khác học sinh cá biệt:
- Quan sát trong quá trình cùng tham gia vào các hoạt động với học sinh.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua nhóm bạn thân.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua gia đình.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua cán bộ lớp,tổ.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua các bạn ngồi xung quanh trong lớp học.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua các giáo viên khác và cán bộ đoàn.
- Tìm hiểu về học sinh thông qua hàng xóm của gia đình.
3.5. Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh cá biệt:
- Đánh giá hành vi không đồng nhất với đánh giá nhân cách
+Nếu học sinh cá biệt thực hiện hành vi không mong đợi nào đó thì giáo
viên chỉ đánh giá hành vi đó, mà không quy kết hành vi đó thành nét nhân cách
của học sinh.
+ Đánh giá đứng không chỉ giúp các em nhìn nhận đứng bản thân với những
điểm mạnh cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục, mà còn tạo động lực cho
học sinh nổ lực rèn luyện tu dưỡng
- Đánh giá sự tiến bộ của chính học sinh cá biệt theo quá trình
+ Đánh giá sự tiến bộ của học sinh so với chính bản thân trong mối quan hệ
với khả năng, sự nổ lực của các em. Đồng thời, cần xác nhận mức độ cụ thể đạt
được kết quả giáo dục của từng em và điều chỉnh quá trình giáo dục để nâng cao
hiệu quả.
- Đánh giá cuối cùng: Khi các em thực sự đã tiến bộ
3.6. Lập danh sách và phân loại học sinh cá biệt :
Ví dụ:
TT
Họ và tên học sinh
1
Bùi Văn A
2
Bùi Văn B
3
Bùi văn C
Đặc điểm về cá tính.
Trốn học đi chơi games, đánh bạn, ăn cắp vặt, vô lễ
với giáo viên…
Trốn học đi chơi games, đánh bạn…
Vô lễ với giáo viên bộ môn
4. Hiệu quả khi áp dụng
- Bài thu hoạch đã được áp dụng cho việc giáo dục học sinh cá biệt ở Trường
trung học cơ sở từ khi học tập module 3 đến nay và đã thu được những hiệu quả
tốt.
- Đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tôi có 03 em trong đối tượng học sinh
cá biệt, điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nội quy cũng như
điểm thi đua của lớp. Sau một thời gian áp dụng biện pháp lớp tôi chủ nhiệm các
em đã dần tham gia tốt các nội quy của lớp của Liên đội.
- Theo thống kê đầu năm có 03 học sinh cá biệt. Bằng tất cả tình thương và
trách nhiệm, tôi đã áp dụng các biện pháp giáo dục học sinh để cảm hoá các em và
đã thu được kết quả sơ bộ như sau:
TT
Họ và tên
học sinh
Đặc điểm về cá
tính, gia đình
Phương pháp
Giáo dục
Kết quả đạt
được
01
BÙI VĂN LÍ
BÙI VĂN NINH
02
03
BÙI TẤT CƯỜNG
Không có cha, mẹ
thường say rượu.
Trốn học đi chơi
games, đánh bạn, ăn
cắp vặt, vô lễ với
giáo viên…
Mẹ bỏ đi, bố đi làm
ăn xa.
Trốn học đi chơi
games, đánh bạn…
Tâm sự, động
viên, giao nhiệm
vụ, kết hợp với
ban giám hiệu,
giáo viên tổng
phụ trách đội.
Tâm sự, thuyết
phục, giao nhiệm
vụ...
Đã tiến bộ:
không bỏ học đi
chơi
games,
không vô lễ với
giáo viên…
Đã tiến bộ rõ
rệt: không trốn
học đi chơi
games, ý thức
học hành chăm
chỉ…
Bố,
mẹ nuông Tâm sự, thường Đã tiến bộ rõ
chiều, mải lo làm ăn xuyên liên lạc với rệt: không có
kinh tế…
gia đình giao thái độ, hành vi
Vô lễ với giáo viên nhiệm vụ…
vô lễ.
bộ môn.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, vất vả nhất
trong các phần việc mà người giáo viên phải đảm nhiệm, đòi hỏi người giáo viên
luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và nỗ lực của chúng
ta sẽ là cái chìa khoá cho các em bước sang một cuộc đời mới với sự nhìn nhận
tích cực về thực tế và có ý thực rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của con người mới xã
hội chủ nghĩa. Bản thân tôi rất ngưỡng mộ lời dạy đầy tính nhân văn của chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại: “Hiền dữ phải đâu trời định sẵn phần nhiều do giáo dục mà
nên” Chúng ta đều hiểu rõ nghề dạy học vô cùng cao qúy vì đó là nghề đào tạo con
người cho đất nước. Tương lai của đất nước phụ thuộc nhiều vào thế hệ trẻ mà
hôm nay chúng ta đang dạy dỗ. Trong quá trình áp dụng biện pháp, ngoài những
kết quả đạt được như đã nêu trên vẫn còn không tránh khỏi những hạn chế trong
khi áp dụng biện pháp.
2. Những hạn chế:
Một số học sinh vẫn theo nếp sống cũ của bản thân, chưa tự giác tích cực,
chưa chủ động phối hợp với giáo viên nên kết quả một số hoạt động chưa cao.
Trong quá trình áp dụng biện pháp tại lớp chủ nhiệm, điều mà tôi nhận thấy
là nhận thức học tập của các em còn chênh lệch giữa đối tượng học sinh. Bên cạnh
đó sự phối hợp ở một số gia đình với giáo viên chưa chặt chẽ đó cũng là yếu điểm
cho giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt.
3. Bài học kinh nghiệm:
-Qua một số biện pháp tích cực trong việc giáo dục học sinh cá biệt tôi rút ra
bài học. Để đạt được kết quả như mong muốn giáo viên cần phải thực hiện những
yêu cầu sau:
+ Nắm chắc sơ yếu, lí lịch học sinh.
+Hiểu rõ tâm sinh lí, tính cách của từng học sinh, có những biện pháp giáo
dục cụ thể, thích hợp.
+ Luôn có sự đổi mới trong các hình thức rèn luyện, giáo dục tạo hứng thú,
mới mẻ đối với học sinh.
+ Thật sự xem mỗi học sinh là một đứa con của mình để từ đó giáo dục bằng
tất cả tình thương yêu và tinh thần trách nhiệm.
+ Với những kinh nghiệm này, tôi thiết nghĩ nó có thể áp dụng với bất kì giáo
viên nào, đối tượng học sinh nào, bởi nó không khó thực hiện mà chỉ cần có lòng
say mê, sự quyết tâm của giáo viên thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
4. Những kiến nghị, đề xuất:
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp chịu trách nhiệm đồng thời là người
tiên phong trong giáo dục đạo đức học sinh cá biệt ở lớp. Để thực hiện tốt vai trò,
chức năng của người giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm rất cần sự hỗ trợ,
hợp tác. Vậy nên:
-Với Ban giám hiệu: Cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ, hỗ
trợ giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh chưa ngoan vi phạm nhiều lần, có nhiều
cuộc trò chuyện, trao đổi riêng với các học sinh cá biệt.
-Với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm nhiều hơn nữa đời sống tình cảm, có
hiểu biết rõ về diễn biến phát triển tâm sinh lý của con em, thường xuyên liên lạc
với nhà trường, nhất là với giáo viên chủ nhiệm.
-Với giáo viên bộ môn và các tổ chức đoàn thể: Tạo cơ hội để các em được
thể hiện mình, được trở nên tốt hơn trước tập thể. Cần động viên, khích lệ kịp thời
các học sinh cá biệt khi thấy các em có sự chuyển biến tích cực.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi tích lũy được qua việc học tập từ
module 3”Giáo dục học sinh THCS cá biệt” vận dụng vào việc giáo duc học sinh
cá biệt ở lớp chủ nhiệm và đã đạt được kết quả khả quan, góp phần vào việc giáo
dục thế hệ trẻ trở thành con người hoàn thiện, có đức, có tài và có ích cho xã hội.