Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.04 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VŨ QUANG

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chun ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI 2011


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: Một số vấn đề chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn


6

1.1 Khái niệm, phạm vi, nội dung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

6

1.2 Quy định của pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

15

Chương 2. Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn

32

2.1. Thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

32

2.2. Một số nguyên nhân, hạn chế, hiệu quả việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn

43

2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn

56

KẾT LUẬN

67

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
Biểu đồ số 2.1: Số người bị tạm giữ từ năm 2005 – 2009

32

Biểu đồ số 2.2: Kết quả xử lý người bị tạm giữ từ năm 2005 – 2009

33

Biểu đồ số 2.3: Số người bị tạm giữ theo các hình thức bắt trong 5
năm 2005 – 2009

33

Biểu đồ số 2.4: Số người bị tam giam từ 2005 – 2009


37

Biểu đồ số 2.5: Kết quả xử lý người bị tạm giam 5 năm 2005 – 2009

38

Biểu đồ số 2.6: Tình hình quá hạn tạm giam 5 năm từ 2005 – 2009

42


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. BPNC

Biện pháp ngăn chặn

2. BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3. BLHS

Bộ luật hình sự

4. CQĐT

Cơ quan điều tra

5. THTT


Tiến hành tố tụng

6. TAND

Tòa án nhân dân

7. VKS

Viện kiểm sát

8. VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

9. VKSQS

Viện kiểm sát quân sự


1

LỜI NĨI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự thì các BPNC
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, vì nó giúp cơ quan THTT có điều kiện thuận lợi
để giải quyết vụ án hình sự. Việc áp dụng đúng đắn, chính xác các BPNC đảm
bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự
để phát hiện nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với
người phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vơ tội.
Trong số các cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC, VKSND là cơ quan

có vai trị rất quan trọng, vì VKSND khơng những có quyền áp dụng, phê chuẩn,
thay đổi, huỷ bỏ các BPNC mà còn có chức năng kiểm sát việc áp dụng và tổ
chức thực hiện các quyết định áp dụng BPNC của các cơ quan có liên quan. Cho
nên, việc thực hiện tốt chức năng của VKSND nói chung, cũng như trong việc
áp dụng các BPNC nói riêng có vai trũ quan trọng trong hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật những năm gần đây cho thấy những quy
định của BLTTHS nói chung cũng như quy định về các BPNC vẫn cịn nhiều bất
cập, thậm chí mâu thuẫn, nhất là những quy định liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Bên cạnh đó có những nguyên nhân khác
như vấn đề con người (cả về số lượng và chất lượng, trình độ nhận thức, phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp), sự yếu kém về cơ sở vật chất cũng phần nào ảnh
hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong
việc áp dụng BPNC.
Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập Quốc tế và nâng cao hiệu
quả của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng, Đảng
và Nhà Nước ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết trong đó có nội dung về vấn đề
chức năng của VKSND. Theo quy định tại điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi, bổ sung thì VKSND thực hiện đồng thời hai chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Cho đến nay, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu: “Nghiên cứu chuyển
VKS thành Viện Công tố”, đây là điều được thảo luận trên nhiều diễn đàn khoa
học song trước mắt VKS vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời hai chức năng: thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có nội dung về
vai trò, trách nhiệm của VKS trong việc áp dụng BPNC [11].


2


Nghị quyết 08/-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết 08/-NQ/TW) chỉ rõ:
“VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt,
giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ,
tạm giam thì kiên quyết khơng phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện
và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc
thẩm quyền phê chuẩn của mình” [10].
Trước yêu cầu về cải cách tư pháp nêu trên, địi hỏi phải nghiên cứu một
cách tồn diện, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong
việc áp dụng các BPNC. Đó chính là lý do để tác giả chọn đề tài: “Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện Đảng và Nhà Nước ta chủ trương cải cách tư pháp, vấn
đề chức năng của VKSND nói chung cũng như chức năng của VKSND trong
việc áp dụng các BPNC đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn và nhiều tác giả khác ở cả
phương diện lý luận và thực tiễn. Có thể chia các cơng trình nghiên cứu theo các
nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo đã xuất
bản, như: “Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp
luật” của thạc sĩ Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Chính trị Quốc
gia (1993); “Các BPNC và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng” của Thạc sĩ
Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Công an nhân dân, 1993; “Tạm giữ, tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Thanh Bình (bảo
vệ năm 2007); “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của
Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005; “Biện pháp ngăn chặn

khám xét và kê biên tài sản trong tố tụng hình sự” của Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ,
Nxb Tư pháp, 2004; “Các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự
Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”- Luận án Tiến sĩ của tác giả
Nguyễn Văn Điệp (bảo vệ năm 2006); “Vai trò của VKS trong việc áp dụng biện
pháp tạm giam” Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Duy Trường.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về nội dung, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn,


3

và một số vấn đề chung liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của VKSND
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; những hạn chế trong quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và hướng hồn thiện.
Nhóm thứ hai: Các bài viết đang trên các tạp chí khoa học như: “Những
điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 5/2004) của tác giả Uông Quang Huy; “Thủ tục áp dụng BPNC
trong giai đoạn truy tố” (Tạp chí Kiểm sát số 5/2004) của Thạc sĩ Nguyễn
Nông; “Một số vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự”
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2005); “Một số vấn đề về biện pháp bảo
lĩnh quy định trong BLTTHS năm 2003” (Tạp chí kiểm sát số 15/2004) của Tiến
sĩ Trần Quang Tiệp; “Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh” (Tạp chí Luật Học số
01/2009) của Thạc sĩ Bùi Kiên Điện...
Những bài viết nêu trên nghiên cứu về từng biện pháp ngăn chặn cụ thể
theo quy định của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003, phân tích về từng
biện pháp ngăn chặn và hiệu quả việc áp dụng trong thực tiễn, hướng sửa đổi bổ
sung để hoàn thiện.
Nhóm thứ ba: Các tài liệu, giáo trình giảng dạy của các trường đại học,
Viện nghiên cứu như cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam năm 2003”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, 2004; Giáo trình Luật tố

tụng hình sự của các trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật trường Đại học xã
hội và nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện an ninh, Học viện Cảnh sát,
trường Đào tạo và Bồi dưỡng Nghiệp vụ kiểm sát, Học viện Tư pháp. Các tài
liệu này chủ yếu phân tích nội dung các quy định của BLTTHS trong đó có vấn
đề về BPNC và vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong việc áp
dụng các BPNC.
Tuy nhiên những cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết, tài
liệu, giáo trình nêu trên chủ yếu đề cập đến từng BPNC cụ thể hoặc nghiên cứu
về BPNC với nội dung về thẩm quyền, điều kiện, căn cứ, đối tượng áp dụng
BPNC trong đó có nội dung khái quát về chức năng của VKSND, song chưa có
đề tài, cơng trình nghiên cứu riêng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong việc áp dụng BPNC. Chính vì vậy tơi mạnh dạn chọn đề tài:
“Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu chi tiết hơn về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các BPNC
theo quy định của BLTTHS hiện hành, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khắc
phục những thiếu sót, hạn chế trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật,


4

nâng cao hiệu quả của việc áp dụng BPNC, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và
hội nhập Quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu
sau:
- Lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong
việc áp dụng BPNC
- Các quy định của BLTTHS sự liên quan đến chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng BPNC.
- Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các BPNC theo quy định của
BLTTHS.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong việc áp dụng BPNC và thực tiễn áp dụng những quy định này từ
năm 2005 đến năm 2009. Luận văn không nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS quân sự cũng như một số vấn đề khác có liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận của Triết học
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà Nước và pháp luật; đồng thời sử
dụng phương pháp phân tích, so sánh, thống kê dựa trên các quy phạm pháp luật
hiện hành, các tài liệu, sách báo, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học của
các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự để hồn thành luận văn có chất lượng.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn
đề lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp
dụng BPNC và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong việc áp dụng BPNC, đồng thời đưa ra một số giải pháp khác nhằm nâng
cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Xác định rõ khái niệm, nội dung, phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong việc áp dụng BPNC.



5

- Nghiên cứu làm rõ những quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng BPNC
và những hạn chế, bất cập trong những quy định này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng BPNC để
xác định những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện và tìm ra nguyên nhân của
nó để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng BPNC.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Điểm mới của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các BPNC, trong
điều kiện Đảng và Nhà Nước chủ trương cải cách tư pháp, sửa đổi Hiến pháp,
Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS trong đó có nội dung về mơ hình, chức năng
của VKSND. Đây là hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, tác giả hy vọng thông
qua việc đánh giá những quy định của Luật tổ chức VKSND, BLTTHS năm
2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các
BPNC ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và trong việc kiểm sát thực hiện chế
độ đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như việc đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị áp dụng các BPNC khác, trên cơ sở đó đưa ra một số
kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện
chức năng của VKSND trong việc áp dụng các BPNC.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn bao gồm 2 chương và 5 mục.


6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN

1.1. Khái niệm, phạm vi, nội dung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1.1.1. Khái niệm, phạm vi, nội dung chức năng thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1.1.1.1. Khái niệm chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002, Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật.Viện kiểm sát nhân dân Tối cao thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa
phương mình [21]. Tuy nhiên thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” lần đầu tiên
được quy định trong Hiếp pháp năm 1980 khi quy định về chức năng của
VKSND. Mặc dù đến nay trong nghiên cứu khoa học còn nhiều quan điểm, nhận
thức khác nhau về quyền công tố và thực hành quyền công tố, song cơ bản đều
cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà Nước thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà Nước,
được Nhà Nước giao cho một cơ quan thực hiện để phát hiện tội phạm và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở nước ta, quyền công tố được
Nhà Nước giao cho VKS. Thực hành quyền công tố là chức năng đặc thù của
VKS, thể hiện ở việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội trong giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự
[27].

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội phạm,
ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, CQĐT các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt đồng điều tra (gọi chung là CQĐT), VKS
và Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm
quyền theo quy định của BLTTHS có thể áp dụng các BPNC: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo


7

đảm. Chủ thể có quyền áp dụng các BPNC tố tụng hình sự bao gồm các cơ quan:
CQĐT, VKS và Tịa án. Trong đó CQĐT áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ đối
với người chưa bị khởi tố bị can. Các BPNC tiếp theo do cả CQĐT, VKS, Tòa
án áp dụng đối với bị can, bị cáo và người bị kết án.
Việc áp dụng kịp thời, đúng đắn, chính xác các BPNC có vai trị quan trọng
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ngược lại, việc
lạm dụng các BPNC để thay thế hoạt động điều tra, bắt, tạm giữ, tạm giam oan,
sai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp bảo vệ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 khẳng định trong giai đoạn điều
tra, truy tố việc bắt người phải do VKS quyết định hoặc phê chuẩn; trong giai
đoạn xét xử, quyền này thuộc về Tòa án các cấp [15].
Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định CQĐT có có thẩm quyền giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Khi tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong quá trình điều tra vụ án hình
sự, CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được áp dụng một trong các BPNC sau: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Hoạt động áp dụng
các BPNC tuy không trực tiếp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm

tội, song nó phục vụ đắc lực và đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự,
việc khơng áp dụng BPNC kịp thời, phù hợp dẫn đến việc người phạm tội bỏ
trốn, cản trở các hoạt động tố tụng hình sự sẽ khơng xử lý được tội phạm và
người phạm tội; ngược lại, áp dụng BPNC khơng có căn cứ, đối với người
khơng có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm hoặc khi không cần
thiết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của cơng dân. Vì vậy khi
CQĐT quyết định áp dụng các BPNC phải thông báo kịp thời cho VKS, VKS có
trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, tài liệu xác định: Hành vi của người bị áp dụng
BPNC có dấu hiệu của tội phạm hay khơng, có đủ căn cứ và có thực sự cần thiết
áp dụng BPNC đối với người đó hay khơng? Nếu xét thấy đã đảm bảo các điều
kiện này thì VKS có nhiệm vụ phê chuẩn các quyết định áp dụng các BPNC do
CQĐT đề nghị. Ngược lại, VKS có nhiệm vụ và quyền ra quyết định không phê
chuẩn. Trong trường hợp xét thấy việc CQĐT không áp dụng BPNC hoặc các
BPNC đang áp dụng là không đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự,
VKS có quyền u cầu CQĐT ra quyết định áp dụng BPNC hoặc trực tiếp ra
quyết định áp dụng các BPNC. Trong quá trình điều tra, nếu kết quả điều tra xác
định có căn cứ cho rằng hành vi của người đang bị áp dụng BPNC không cấu
thành tội phạm hoặc có đủ điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự thì VKS ra


8

quyết định hủy bỏ các BPNC đang áp dụng. Trong giai đoạn truy tố, VKS có
quyền tự mình áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các BPNC đối với người phạm tội.
Quyền áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC trong giai đoạn xét xử thuộc về Tòa
án. Như vậy VKSND thực hành quyền công tố trong việc áp dụng BPNC là hoạt
động sử dụng các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc
áp dụng các BPNC có căn cứ, đúng pháp luật, đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho
việc xử lý tội phạm và người phạm tội.
1.1.1.2. Phạm vi, nội dung chức năng thực hành quyền công tố của Viện

kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Nghiên cứu các khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố thấy
rằng, về cơ bản phạm vi thực hành quyền công tố đồng nhất với phạm vi quyền
công tố, đó là từ khi có tội phạm xảy ra đến khi bản án có hiệu lực pháp luật,
khơng bị kháng nghị, hoặc vụ án bị đình chỉ. Do đó về mặt ngun tắc, có tội
phạm xảy ra là địi hỏi quyền cơng tố phải được thực hiện. Song để có cơ sở
phát động quyền cơng tố, phải có giai đoạn thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm
như tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, tiến hành một số hoạt động
trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, bắt và khám xét khẩn
cấp, tạm giữ, lấy lời khai của người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại.
Như vậy pháp luật tố tụng hình sự đã cho phép thực hành quyền công tố sớm
một bước để tạo điều kiện chủ động và phát hiện có hiệu quả mọi hành vi phạm
tội. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp quyền công tố đều kéo dài đến khi
bản án có hiệu lực pháp luật, mà nó có thể kết thúc ở giai đoạn sớm hơn khi vụ
án bị đình chỉ theo quy định tại Điều 105, 107 BLTTHS, Điều 25, 69 Bộ luật
hình sự .
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, sau khi nhận được tin báo, tố giác
về tội phạm, khi có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS, CQĐT có
quyền ra lệnh bắt khẩn cấp đối với người bị nghi thực hiện tội phạm và có trách
nhiệm báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến
việc bắt khẩn cấp để VKS quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Trong trường hợp ra quyết định tạm giữ, cơ quan đã ra quyết định tạm
giữ phải gửi quyết định tạm giữ cho VKS cùng cấp. VKS có quyền hủy bỏ quyết
định tạm giữ nếu xét thấy việc tạm giữ khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết.
Trong trường hợp đã hết thời hạn tạm giữ, nếu xét thấy cần thiết phải tiếp tục
tạm giữ, cơ quan đã quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, việc gia hạn tạm
giữ phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, nếu không đủ căn cứ
khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Như vậy VKS thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố trong việc áp dụng BPNC từ thời điểm



9

rất sớm, đó là khi CQĐT ra lệnh bắt khẩn cấp đối với người bị nghi thực hiện tội
phạm, thời điểm này có thể đồng nhất với thời điểm xẩy ra tội phạm và có thể
trước khi hành vi phạm tội được thực hiện, đó là các trường hợp bắt khẩn cấp
đối với người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng. Trong các trường hợp VKS ra quyết định không phê chuẩn bắt khẩn cấp
do xét thấy hành vi của người bị bắt khẩn cấp không cấu thành tội phạm, VKS
hủy bỏ quyết định tạm giữ do khơng có căn cứ, khơng cần thiết, hoặc VKS
không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ do xét thấy khơng đủ căn cứ khởi
tố bị can thì cơ quan đã ra lệnh bắt khẩn cấp, quyết định tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị bắt, tạm giữ. Đối với các bị can đang bị áp dụng các BPNC
mà được đình chỉ ở giai đoạn điều tra thì CQĐT ra quyết định hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn không do VKS áp dụng, phê chuẩn, VKS ra quyết định hủy bỏ
các BPNC do VKS áp dụng, phê chuẩn trong nếu vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn điều tra, truy tố. Sau khi VKS có quyết định truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử thì thẩm quyền áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC
thuộc về Tòa án. Thời điểm kết thúc việc áp dụng các BPNC cũng chính là thời
điểm VKS hoàn thành việc thực hiện chức năng thực hành quyền cơng tố trong
việc áp dụng các BPNC.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả cho rằng, phạm vi thực hành quyền
công tố trong việc áp dụng các BPNC bắt đầu từ khi người bị nghi thực hiện tội
phạm bị bắt, tạm giữ, tạm giam đến khi các BPNC bị hủy bỏ hoặc VKS truy tố bị
can ra trước Tòa án để xét xử. Nội dung của thực hành quyền công tố trong việc
áp dụng các BPNC là việc VKS ra quyết định áp dụng các BPNC; quyết định
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định áp dụng của CQĐT và các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
1.1.2. Khái niệm, nội dung, phạm vi chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

1.1.2.1. Khái niệm chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc ỏp
dụng cỏc biện pháp ngăn chặn
Ở nước ta, Cơ quan tư pháp luôn được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ
bao gồm là Tòa án mà còn bao gồm CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ thực hiện một số hoạt động điều tra, VKS và cơ quan thi hành án. Các cơ
quan tư pháp hình sự ở Việt Nam là các cơ quan được thành lập, tổ chức theo
những trình tự, thủ tục luật định, trực tiếp và chịu trách nhiệm tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự, nhằm giải quyết các vụ án hình sự và thi hành các bản án,
quyết định hình sự của Tịa án. Hoạt động tư pháp chỉ bao gồm những hoạt động
do các cơ quan tư pháp tiến hành, mang tính quyền lực Nhà nước, liên quan trực


10

tiếp đến việc giải quyết các vụ án, chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng và
nhằm giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan, bảo vệ công lý, pháp
chế [5], [6], [7], [14], [27].
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khơng phải tất cả các cơ quan tư
pháp đều có thẩm quyền áp dụng các BPNC mà pháp luật tố tụng hình sự chỉ
giao quyền áp dụng các BPNC cho CQĐT, VKS và Tịa án. Tuy nhiên các cơ
quan có này khơng có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quyết định áp
dụng các BPNC, trách nhiệm này thuộc về nhà tạm giữ, trại tạm giam. Các cơ
quan này không trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các vụ án hình sự nhưng
có mối quan hệ mật thiết và được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quyết
định áp dụng các BPNC, hoạt động tạm giữ, tạm giam cũng mang tính quyền lực
Nhà Nước, chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự, nhằm phục vụ cho
việc giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan THTT nên cũng là các hoạt động
tư pháp. Như vậy hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các BPNC là hoạt động
diễn ra trong quá trình quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC của
CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, của VKS, Tòa án và hoạt động tổ chức thực hiện các quyết định áp dụng các
BPNC của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến các
quyền cơ bản của công dân, vì vậy cần có quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát
nhằm phát hiện kịp thời và khắc phục những vi phạm trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn. VKS là cơ quan được Nhà nước giao thực hiện chức năng này.
Khi các cơ quan tư pháp áp dụng các biện pháp ngăn chặn, kiểm sát các hoạt
động tư pháp nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định, tổ chức thực hiện các biện
pháp ngăn chặn được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Bản chất của kiểm
sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp của các chủ thể bị kiểm sát
nên đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động áp dụng
biện pháp ngăn chặn là hành vi xử sự của các cơ quan tư pháp và các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động tư pháp. Kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong việc áp dụng các BPNC chức năng hiến định của VKS nhằm kiểm
tra tính hợp pháp và phát hiện, yêu cầu khắc phục vi phạm khi CQĐT, các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án, các
trại tạm giam, nhà tạm giữ ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định áp
dụng các BPNC
1.1.2.1. Nội dung, phạm vi chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn


11

Căn cứ để VKS kiểm sát các hoạt động tư pháp chính là các quy định của
Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản
pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, xem xét, đánh giá tính hợp pháp của các
quyết định áp dụng các BPNC. VKS có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp do
pháp luật quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp và
cán bộ tư pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn từ khi có quyết định

áp dụng biện pháp ngăn chặn đến khi những quyền cơ bản của công dân là
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn được phục hồi. Phạm vi của kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các BPNC bắt đầu từ khi các cơ quan
THTT ra quyết định áp dụng các BPNC và kết thúc khi người bị áp dụng BPNC
có quyết định thi hành án hình sự, hoặc họ được hủy bỏ BPNC khi vụ án bị đình
chỉ, được trả tự do vì khơng phạm tội.
Khi phát hiện vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn, VKS có nhiệm vụ và quyền phát hành văn bản yêu cầu các
cơ quan đó khắc phục vi phạm như có biện pháp sửa chữa, thay thế các văn bản,
quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo đúng thẩm quyền, trình tự,
thủ tục; khôi phục các quyền lợi của người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng, bảo vệ. Nội dung của kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong việc áp dụng BPNC là những quyền năng pháp lý của
VKS được pháp luật quy định bao gồm quyền phát hiện vi phạm pháp luật, yêu
cầu các cơ quan tư pháp khắc phục và xử lý vi phạm pháp luật trong việc áp
dụng các BPNC thông qua việc phát hành yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với
CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, Tòa án, Giám thị trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ. Các cơ quan tư pháp
có trách nhiệm thực hiện những yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKS.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức
năng độc lập của VKSND nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực
tiễn hoạt động kiểm sát, VKS các cấp luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc
quan điểm đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội được phát hiện đều phải được xử lý theo pháp luật, đồng thời phải đảm bảo
hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà Nước. Trong việc áp dụng BPNC, VKSND thực hiện chức
năng, nhiệm vụ nhằm đảm bảo ngăn chặn kịp thời việc thực hiện tội phạm, ngăn

chặn việc người phạm tội bỏ trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi


12

hành án đồng thời đảm bảo việc áp dụng BPNC của CQĐT, TAND đúng các
quy định của BLTTHS, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm
giam không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ. Điều đó được thể
hiện ở các nội dung sau:
- Khi phát hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT áp
dụng các BPNC bắt, tạm giữ, lúc này quyền công tố được phát động thể hiện ở
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm
giữ của CQĐT, đồng thời VKS cũng tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của CQĐT trong việc bắt, tạm giữ như kiểm sát về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục ra lệnh, quyết định và việc tổ chức thực hiện, kiểm sát việc thực hiện
chế độ đối với người bị bắt, tạm giữ, kiểm sát hoạt động lấy lời khai của người
bị tạm giữ.
- Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, CQĐT ra lệnh tạm giam, hoặc lệnh
bắt bị can để tạm giam, VKS có nhiệm vụ kiểm tra tính có căn cứ để quyết định
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm
giam của CQĐT đồng thời có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát tính hợp pháp của
lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam đó.
- Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, khi kiểm sát việc thực hiện chế
độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, nếu phát hiện việc tạm giữ, tạm giam
khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết, VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm
giữ, lệnh tạm giam và yêu cầu CQĐT ra quyết định trả tự do. Đồng thời trong
giai đoạn kiểm sát điều tra, VKS có quyền yêu cầu CQĐT ra lệnh bắt bị can để
tạm giam hoặc trực tiếp ra lệnh bắt bị can để tạm giam và yêu cầu CQĐT thực
hiện.
- Trong giai đoạn truy tố, VKS kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định

áp dụng BPNC đã áp dụng, nếu việc áp dụng các BPNC là có căn cứ và cần thiết
thì VKS tiếp tục quyết định áp dụng, ngược lại VKS có quyền hủy bỏ, thay thế
các BPNC.
- Khi vụ án bị đình chỉ trong giai đoạn điều tra, đồng thời với việc kiểm
tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của quyết định đình chỉ, VKS phải ra quyết
định hủy bỏ các BPNC đã áp dụng nếu các BPNC đó do VKS áp dụng, phê
chuẩn.
- Trong giai đoạn xét xử, Tòa án có quyền độc lập áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các BPNC nên VKS khơng có chức năng thực hành quyền cơng tố trong việc
áp dụng các BPNC của Tịa án, tuy nhiên VKS có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát
tính hợp pháp của các quyết định áp dụng BPNC của Tồ án, nếu phát hiện có vi
phạm thì u cầu khắc phục.


13

Tóm lại, thực hành quyền cơng tố trong việc áp dụng các BPNC là những
quyền năng do VKS trực tiếp quyết định như phê chuẩn, không phê chuẩn,
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC của CQĐT; còn kiểm sát các
hoạt động tư pháp là những biện pháp VKS không trực tiếp ra quyết định, mà
qua công tác kiểm sát, nếu phát hiện hoạt động áp dụng các BPNC của CQĐT,
Tòa án, hoạt động tổ chức thực hiện các quyết định áp dụng các BPNC của nhà
tạm giữ, trại tạm giam có vi phạm thì VKS kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các
cơ quan này khắc phục.
Giữa hoạt động hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp
trong việc áp dụng BPNC và có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, có
tác dụng hỗ trợ cho nhau và song song tồn tại từ khi có hoạt động bắt, tạm giữ,
tạm giam đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị tạm giam có quyết định
thi hành án hoặc khi người bị tạm giữ, tạm giam được trả tự do. Hoạt động thực
hành quyền cơng tố có mục đích đảm bảo tính có căn cứ trong việc áp dụng các

BPNC cịn hoạt động kiểm sát tư pháp có mục đích đảm bảo các hoạt động áp
dụng BPNC được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật
quy định. Mục đích chung của hoạt động thực hành quyền cơng tố và kiểm sát tư
pháp trong việc áp dụng các BPNC là nhằm đảm bảo mọi tội phạm đều phải
được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật có hiệu quả là điều
kiện đảm bảo thực hành quyền công tố đúng đắn, chính xác, khách quan và
ngược lại.
1.1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn
Lý luận Mac-Lênin về Nhà Nước và Pháp luật đã khẳng định: Chức năng
của Nhà Nước là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà Nước được thể
hiện dưới những hình thức pháp lý cơ bản là hoạt động lập pháp, hoạt động chấp
hành pháp luật và hoạt động bảo vệ pháp luật. Chức năng của Nhà Nước có mối
liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhiệm vụ của Nhà Nước và được thực hiện bởi bộ
máy Nhà Nước. Các yếu tố hợp thành bộ máy Nhà Nước là các cơ quan Nhà
Nước. Các cơ quan Nhà Nước rất đa dạng nhưng thông thường gồm 3 loại: Cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Mỗi Cơ quan Nhà Nước
đều có thẩm quyền do Nhà Nước quy định, đó là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà Nhà Nước trao cho để thực hiện chức năng và nhiệm vụ. Tuy nhiên
thẩm quyền của các cơ quan Nhà Nước có những giới hạn về không gian, thời
gian và đối tượng tác động. Mỗi cơ quan Nhà Nước chỉ hoạt động trong phạm vi
thẩm quyền của mình và trong phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và


14

chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Cơ quan Nhà Nước có quyền đồng thời
có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền đó. Như vậy: Nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan Nhà Nước là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà Nước

trao cho các cơ quan Nhà Nước và được quy định bởi pháp luật, nhằm nhân
danh Nhà Nước giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa Nhà Nước với công
dân.
Theo quy định tại điều 126 Hiến pháp năm 1992, cùng với TAND,
VKSND là cơ quan Nhà Nước có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
của Nhà Nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân. Để thực hiện nhiệm vụ trên, VKSND được Nhà Nước giao
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đối với mỗi chức năng, VKSND lại có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
Trong việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm vụ đảm bảo mọi trường hợp bắt,
tạm giữ, tạm giam đều phải có căn cứ, đúng pháp luật, khơng oan, sai, q hạn,
nhằm phục vụ có hiệu quả cho xử lý tội phạm và người phạm tội; bảo đảm chế
độ của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đúng các quy định của pháp
luật. Để thực hiện nhiệm vụ trên, VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp
luật quy định để đảm bảo việc áp dụng BPNC có căn cứ và cần thiết đồng thời
phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC. Khi thực
hành quyền công tố trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, VKS có nhiệm
vụ và quyền ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật; huỷ bỏ các quyết định trái
pháp luật của cơ quan điều tra. Khi kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, VKS có nhiệm vụ và quyền kiểm sát các hoạt áp
dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT, Tòa án; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi
phạm pháp luật, cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra
viên và yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; trực tiếp kiểm sát tại nhà
tạm giữ, trại tạm giam; kiểm tra hồ sơ, tài liệu của trại tạm giam, nhà tạm giữ;
gặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam giam; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố
cáo về việc tạm giữ, tạm giam; yêu cầu trại tạm giam, nhà tạm giữ thơng báo

tình hình tạm giữ, tạm giam, trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi
phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; kháng nghị yêu cầu đình chỉ việc
thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm
giữ, tạm giam, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi


15

phạm pháp luật. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Như vậy nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong việc áp dụng các BPNC là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà
Nước trao trao cho VKSND, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật, thơng qua đó VKSND được quyền nhân danh Nhà Nước thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
việc áp dụng các BPNC.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn
Nghị quyết 08-NQ/TW xác định trách nhiệm pháp lý của VKSND trong
việc áp dụng các BPNC là tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm
bảo đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên
quyết khơng phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời
các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. VKS các cấp chịu trách nhiệm về những
oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn
của mình [10].
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Bộ Chính trị nêu Nghị quyết
08-NQ/TW, ngày 13/9/2002 Viện trưởng VKSND Tối cao ban hành Chỉ thị số
09/2002/CT-VKSTC xác định: VKSND các cấp phải có biện pháp cụ thể để
nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam để phấn đấu không để xảy ra và giải quyết kịp thời các

trường hợp trả tự do do không phạm tội. Phải có biện pháp quản lý và nắm chắc
các trường hợp trả tự do do khơng phạm tội, đồng thời, có trách nhiệm chỉ đạo
giải quyết, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân và chịu trách
nhiệm trước Viện trưởng VKSND Tối cao về việc này... VKS cấp trên cần tăng
cường kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn đối với VKS cấp dưới trong việc quản lý các
trường hợp trả tự do do không phạm tội...”[48].
Theo quy định của pháp luật, VKSND có chức năng thực hành quyền
cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự, VKSND là cơ
quan THTT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên là người THTT. VKS
thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo hoạt động áp dụng các BPNC của
CQĐT có căn cứ, đúng pháp luật, khơng xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam
oan, sai hoặc khơng cần thiết nhằm phục vụ có hiệu quả cho việc điều tra, truy
tố người phạm tội ra trước Tòa án. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc áp dụng các BPNC nhằm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan
và người THTT, áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc


16

vi phạm pháp luật của những cơ quan và cá nhân này. Ở giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, VKSND có trách nhiệm thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc áp dụng các BPNC của CQĐT và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thể hiện qua việc VKS
là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất quyết định như quyết định
việc phê chuẩn, không phê chuẩn các lệnh, quyết định áp dụng các BPNC của
CQĐT; quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC trong giai đoạn
điều tra, truy tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, VKS thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng các BPNC của Tòa án
nhằm đảm bảo việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC của Tịa án tn thủ
đúng quy định về trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức và tính có căn cứ; kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện quyết
định áp dụng các BPNC nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị áp dụng các BPNC được tơn trọng và bảo vệ.
Mặc dù VKS có hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp, song như đã phân tích ở trên hai chức năng này có mối quan hệ
mật thiết với nhau, chỉ mang tính độc lập tương đối. BLTTHS khơng có quy
định cụ thể từng chức năng của VKS trong việc áp dụng các BPNC, các quy
định của BLTTHS về BPNC chỉ quy định căn cứ, nội dung, thẩm quyền, trình
tự, thủ tục áp dụng BPNC mà không quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể nào của VKS thuộc về chức năng thực hành quyền công tố hay chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chính vì vậy việc nghiên cứu về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được
tiến hành trên cơ sở các quy định của BLTTHS về từng biện pháp ngăn chặn mà
không nghiên cứu độc lập từng chức năng của VKS.
1.2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc bắt tạm giam bị can, bị cáo và
tạm giam
Việc bắt bị bị can, bị cáo để tạm giam và tạm giam có điểm chung về đối
tượng áp dụng là người đã bị khởi tố (bị can) hoặc đã có quyết định đưa vụ án ra
xét xử (bị cáo). Điểm khác biệt là: Trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì
trước khi thực hiện lệnh, bị can, bị cáo vẫn ở ngoài xã hội và cần thiết phải bắt
họ để áp dụng BPNC tạm giam, còn trong trường hợp CQĐT ra lệnh tạm giam
và đề nghị VKS phê chuẩn áp dụng đối với người đang bị tạm giữ, VKS phê
chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT được thực hiện cùng với việc phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can. Như vậy đối với cả hai trường hợp này VKS chỉ phê chuẩn
lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, lệnh tạm giam của CQĐT khi hồ sơ đề nghị


17

phê chuẩn phải đảm bảo một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 88

BLTTHS. Điều 80 BLTTHS không quy định căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm
giam nhưng cần xác định căn cứ tạm giam được quy định tại khoản 1 điều 88
BLTTHS. Trong giai đoạn truy tố, xét xử, VKS và Tịa án có quyền độc lập ra
lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam khi xét thấy có đủ căn cứ và cần thiết. Đối
với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, VKS, Tịa án khơng ra lệnh bắt bị can, bị
cáo để tạm giam mà ra lệnh tạm giam. Khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định
những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam, đó cũng là những trường
hợp không áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Quy định này
nhằm hạn chế việc áp dụng BPNC tạm giam đối với bị can, bị cáo trong một số
trường hợp cụ thể, vì vậy trong trường hợp bị can, bị cáo là phụ nữ thì VKS
khơng phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam nếu có tài liệu thể
hiện bị can, bị cáo đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi;
đối với người già là người từ đủ 60 tuổi trở lên và ở trong tình trạng sức khỏe
yếu, suy kiệt; người bị bệnh nặng là người mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư
giai đoạn cuối, AIDS giai đoạn cuối. Quy định hạn chế việc áp dụng BPNC tạm
giam không áp dụng trong trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh
truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu khơng tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Khi kiểm sát hoạt
động tư pháp trong việc trong việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam và tạm giam,
VKS phải kiểm tra hồ sơ, tài liệu nhằm đảm bảo đúng quy định về thẩm quyền,
nội dung, thủ tục bắt và tạm giam quy định tại Điều 80, 84 và khoản 4 điều 88
BLTTHS. Nếu chưa đầy đủ thì VKS phải u cầu CQĐT, Tịa án khắc phục kịp
thời.
1.2.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp
Khác với trường hợp bắt người có sự phê chuẩn trước của VKS, lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp khơng cần có sự phê chuẩn trước của VKS,
nhưng trong mọi trường hợp, sau khi đã bắt, người ra lệnh bắt phải báo ngay cho

VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp
để xét phê chuẩn. Trong trường hợp CQĐT trả tự do cho người bị bắt ngay trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi đã dẫn giải người bị bắt về đến trụ sở, thì CQĐT vẫn
phải thông báo ngay việc bắt khẩn cấp cho VKS biết. Khác với việc bắt người
trong trường hợp phạm tội quả tang, trước khi bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, CQĐT phải kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu làm căn cứ của việc bắt


18

khẩn cấp. Để đảm bảo việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp được thận
trọng, chính xác, tránh bị lạm dụng, bảo đảm các quyền và lợi ích của người bị
bắt, BLTTHS quy định VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc bắt khẩn cấp. Vì vậy
khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp
của CQĐT và của những người có thẩm quyền, VKS phải nghiên cứu hồ sơ,
kiểm tra căn cứ bắt khẩn cấp đối với từng trường hợp cụ thể, đó là: Về mặt hình
thức, các tài liệu liên quan kèm theo văn bản đề nghị phê chuẩn việc bắt người
trong trường hợp khẩn cấp phải đảm bảo đầy đủ tài liệu gồm: Văn bản đề nghị
VKS phê chuẩn việc bắt khẩn cấp; lệnh bắt khẩn cấp; biên bản bắt người trong
trường hợp bắt khẩn cấp; tin báo, tố giác về tội phạm; kiến nghị khởi tố của cơ
quan Nhà Nước; các tài liệu làm căn cứ cho việc bắt khẩn cấp; tài liệu về nhân
thân người bị bắt; lời khai của người bị bắt khẩn cấp (nếu có) [28]. Các tài liệu
đó phải đảm bảo về mặt hình thức của một văn bản pháp lý như: Văn bản đề
nghị phải do Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng CQĐT ký; lệnh bắt khẩn cấp phải
thể hiện đầy đủ các yêu cầu trong mẫu lệnh; biên bản bắt khẩn cấp phải đảm bảo
đầy đủ các yêu cầu của một văn bản tố tụng, có sự tham gia, chứng kiến của
chính quyền địa phương, người láng giềng, chữ ký của họ và của người bị bắt
khẩn cấp; nếu việc bắt người không thực hiện tại nơi ở của họ và khơng có
người thân chứng kiến thì hồ sơ phải có tài liệu thể hiện việc CQĐT đã báo ngay
cho đại diện gia đình người bị bắt biết. Trong trường hợp người bị bắt có đồ vật,

tài liệu thì CQĐT phải quản lý theo đúng quy định tại Điều 75 và khoản 2 điều
84 BLTTHS. Về mặt nội dung, hồ sơ đề nghị phê chuẩn việc bắt người trong
trường hợp khẩn cấp phải có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh có ít nhất một
trong ba điều kiện quy định tại khoản 1 điều 81 BLTTHS [51], [53].
Trường hợp bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 81
BLTTHS, thì trong hồ sơ phải có tài liệu chứng minh các căn cứ cho rằng, người
đó đang tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những
điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng. Đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng thì VKS phải từ chối phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của
CQĐT. Đối với trường hợp bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
81 BLTTHS, thì trong hồ sơ đề nghị phê chuẩn phải có tài liệu phản ánh hai
điều kiện: Một là, người bị hại, người làm chứng hoặc đồng phạm khác có mặt ở
nơi xảy ra tội phạm đã chính mắt trơng thấy người đã thực hiện tội phạm, nay
gặp lại và xác nhận đây đúng là người đã thực hiện tội phạm. Hai là, có tài liệu,
chứng cứ thực tế khẳng định người đã thực hiện tội phạm này đang trốn hoặc có
thể trốn và cần ngăn chặn ngay việc bỏ trốn của người đó[53].


19

Trong trường hợp có nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ của
việc bắt khẩn cấp, lý do bắt khẩn cấp không rõ ràng hoặc người bị bắt khơng
nhận tội; người bị bắt là người nước ngồi, có chức sắc trong tơn giáo, trong dân
tộc thiểu số hoặc có địa vị cao trong xã hội… thì Kiểm sát viên được phân công
cần trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi đề xuất lãnh đạo VKS quyết định
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp. Trước khi gặp, hỏi người bị
bắt khẩn cấp, Kiểm sát viên phải thông báo để CQĐT tạo điều kiện cho Kiểm
sát viên thực hiện nhiệm vụ hoặc để phối hợp trong quá trình gặp, hỏi người bị
bắt. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát viên lập phải được

chuyển cho CQĐT để đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu xét thấy việc bắt khẩn cấp
không đúng quy định của BLTTHS, thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo VKS
không phê chuẩn và ban hành văn bản yêu cầu CQĐT trả tự do ngay cho người
bị bắt. Trường hợp uỷ thác bắt khẩn cấp thì ngay sau khi kết thúc việc bắt khẩn
cấp, CQĐT được uỷ thác phải thông báo ngay cho CQĐT đã uỷ thác đến nhận
người bị bắt và các tài liệu liên quan. Khi đã dẫn giải người bị bắt về đến trụ sở
của mình, CQĐT thụ lý vụ án phải chuyển ngay hồ sơ kèm theo quyết định uỷ
thác việc bắt khẩn cấp cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Khi tiến hành xét
phê chuẩn, ngoài việc kiểm tra các căn cứ bắt khẩn cấp, VKS nơi CQĐT ủy thác
phải kiểm tra việc ủy thác và nhận ủy thác của các CQĐT có đúng và đầy đủ thủ
tục hay khơng [28].
Về thời hạn xét phê chuẩn bắt khẩn cấp, BLTTHS quy định trong thời hạn
12 giờ kể từ khi VKS nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn, VKS phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu phải trực tiếp gặp,
hỏi người bị bắt hoặc trong trường hợp phải xét phê chuẩn nhiều người bị bắt
khẩn cấp cùng một thời điểm hoặc vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời
hạn này cũng khơng được quá 12 giờ. Thời hạn xét phê chuẩn được tính liên tục
kể cả trong và ngoài giờ làm việc nên trong thời hạn 12 giờ, VKS phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn và phải gửi các quyết định đó
cho người ra lệnh bắt.
Về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, khi nghiên
cứu phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT, VKS phải kiểm tra xem người ký
lệnh bắt khẩn cấp có đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 81
BLTTHS hay khơng, nếu chưa đảm bảo thì phải u cầu người có thẩm quyền
khắc phục ngay.
1.2.3. Kiểm sát việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.


20


Theo quy định tại Điều 82 BLTTHS, đối với người phạm tội quả tang
hoặc người đang bị truy nã, thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và tước vũ
khí, hung khí của người bị bắt và giải ngay đến Cơ quan công an, VKS hoặc Ủy
ban nhân dân nơi gần nhất. Cơ quan tiếp nhận người bị bắt phải lập biên bản tiếp
nhận người bị bắt và giải ngay đến CQĐT có thẩm quyền. Vì bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã nên chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS chưa thể hiện rõ trong giai đoạn này. Khi tiếp
nhận người bị bắt tại trụ sở cơ quan, VKS có nhiệm vụ lập biên bản tiếp nhận và
lập biên bản giao người bị bắt cho CQĐT có thẩm quyền.
Để tránh việc lạm dụng bắt quả tang, VKS cần yêu cầu CQĐT củng cố tài
liệu, chứng cứ đảm bảo một trong ba điều kiện là: người bị bắt là người đang
thực hiện hành vi phạm tội, ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện,
đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt.
Đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, VKS phải yêu cầu CQĐT
nhận người bị bắt lấy lời khai, lập danh chỉ bản, chụp ảnh người bị bắt và gửi
ngay thông báo kèm theo danh chỉ bản, ảnh của người đó cho cơ quan đã ra
quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt. Nếu cơ quan ra quyết định truy nã
không thể đến nhận ngay người bị bắt thì CQĐT nhận người bị bắt ra quyết định
tạm giữ và gửi ngay quyết định tạm giữ cho VKS cùng cấp để thực hiện kiểm
sát. Nếu cơ quan đã ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận người bị bắt thì
chậm nhất trước khi hết thời hạn tạm giữ 12 giờ, CQĐT nhận người bị bắt phải
chuyển hồ sơ kèm theo văn bản đề nghị VKS cùng cấp gia hạn tạm giữ. Thời
hạn gia hạn tạm giữ và việc xét phê chuẩn tạm giữ được thực hiện theo quy định
tại khoản 2 Điều 87 của BLTTHS. Sau khi nhận được thông báo kèm theo danh
chỉ bản, ảnh người bị bắt, nếu không thể đến nhận ngay người bị bắt thì cơ quan
đã ra quyết định truy nã phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam kèm
theo quyết định truy nã cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Thời hạn VKS xét
phê chuẩn lệnh tạm giam đối với các trường hợp này không được quá 24 giờ, kể
từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn để cơ quan ra quyết định truy nã kịp thời
gửi lệnh tạm giam kèm theo quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam đó cho CQĐT

nhận người bị bắt. Nếu các nội dung trên chưa đảm bảo, thì VKS phải có văn
bản u cầu CQĐT tiến hành thu thập các tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh
tiếp, như lấy lời khai của người bị bắt, của những người chứng kiến việc bắt,
người tiếp nhận người bị bắt từ Cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban nhân dân
[51], [53].
1.2.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ .


21

Để đảm bảo việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ có căn cứ
và đúng pháp luật, tránh xâm phạm quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân, kịp thời khắc phục các vi phạm trong quá trình áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp tạm giữ của những người có thẩm quyền, Điều 86 BLTTHS
quy định: Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định đó
phải được gửi tới VKS cùng cấp. Do vậy ngay sau khi nhận được quyết định
tạm giữ, VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
+ Kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định tạm giữ đối với
từng trường hợp, bao gồm: Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định tạm giữ (thẩm
quyền của người ra quyết định tạm giữ có đảm bảo đúng quy định tại khoản 1
Điều 81 và khoản 2 điều 86 BLTTHS hay khơng); kiểm tra đối tượng bị tạm giữ
có thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS và có phải là
trường là trường hợp cần thiết để xác minh, quyết định việc khởi tố bị can hoặc để
áp dụng biện pháp tạm giam hay không; kiểm tra thời hạn tạm giữ ghi trong quyết
định có đảm bảo đúng quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS là kể từ khi CQĐT
nhận người bị bắt chứ không phải kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ [51].
+ Kiểm tra thời hạn ra quyết định tạm giữ có đảm bảo trong thời hạn 24
giờ kể từ khi bắt hoặc nhận người bị bắt và thời hạn gửi quyết định tạm giữ cho
VKS có đảm bảo trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ hay
không [51].

Qua kiểm tra, nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ, khơng hợp pháp
hoặc khơng cần thiết, thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu
cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy
định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS. Nếu việc tạm giữ là có căn cứ và cần thiết
nhưng người ra quyết định tạm giữ không đúng thẩm quyền, vi phạm về thời
hạn tạm giữ, thời hạn ra quyết định tạm giữ và thời hạn gửi quyết định tạm giữ
cho VKS, thì VKS ra văn bản yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ có biện
pháp kịp thời khắc phục vi phạm, rút kinh nghiệm…
Để tạo điều kiện và phục vụ cho hoạt động điều tra, xác minh của CQĐT,
đồng thời đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ không bị
pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ, Điều 87 BLTTHS quy định cụ thể
về thời hạn, thẩm quyền, thủ tục gia hạn tạm giữ. Khác với trường hợp ra quyết
định tạm giữ, mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp xét
phê chuẩn trước khi thi hành. Vì vậy khi nhận được hồ sơ đề nghị phê chuẩn gia
hạn tạm giữ, Kiểm sát viên được phân công phải kiểm tra thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ; đối chiếu họ tên, tuổi, địa chỉ…của người bị tạm giữ trong quyết


×