Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán việt nam và một số bài học kinh nghiệm cho địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán campuchia trong tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.77 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LIM HOKCHIV

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CAMPUCHIA TRONG TƯƠNG LAI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN VÀ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA SỞ GIAO DỊCH

1

6

CHỨNG KHOÁN
1. Một số vấn đề lý luận về sở giao dịch chứng khoán



6

1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán và khái niệm sở giao dịch chứng
khoán

6

1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán

6

1.1.2. Khái niệm sở giao dịch chứng khoán

8

1.2. Đặc điểm của sở giao dịch chứng khoán

12

1.3. Vai trò của sở giao dịch chứng khoán

17

2. Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán

20

2.1. Khái niệm về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán


20

2.2. Đặc điểm về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán

21

CHƯƠNG II CHƯƠNG 2: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

25

1. Về vị trí pháp lý và thẩm quyền của sở giao dịch chứng khoán ở Việt
Nam

25

2. Về hoạt động của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam

29

2.1. Hoạt động niêm yết

29

2.2. Hoạt động giao dịch chứng khoán

37

2.3. Hoạt động công bố thông tin của sở giao dịch chứng khoán


42

2.4. Hoạt động giám sát thị trường

42

3. Quyền và nghĩa vụ của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam

43

3.1. Quyền của Sở giao dịch chứng khoán

43

3.2. Nghĩa vụ của Sở giao dịch chứng khoán

45

4. Những điểm hạn chế chủ yếu trong pháp luật điều chỉnh tổ chức và
hoạt động của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam

46


5. Thực trạng hoạt động của sở giao dịch chứng khoán của Việt Nam

52

5.1. Hoạt động quản lý, điều hành thị trường


53

5.2. Hoạt động quản lý niêm yết

54

5.3. Hoạt động quản lý thành viên

54

5.4. Hoạt động quản lý giao dịch

55

5.5. Hoạt động công bố thông tin thị trường

56

CHƯƠNG III CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆC XÂY
DỰNG QUY CHẾ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CỦA CAMPUCHIA
1. Sự cần thiết phải thành lập sở giao dịch chứng khoán ở Campuchia

57
57

2. Vị trí pháp lý tương lai của sở giao dịch chứng khoán Campuchia

60


3. Quyền và nghĩa vụ của sở giao dịch chứng khoán tương lai của
Campuchia

64

3.1. Quyền của sở giao dịch chứng khoán Campuchia tương lai

65

3.2. Nghĩa vụ của sở giao dịch chứng khoán Campuchia tương lai

66

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của khoa học công nghệ đã
mang lại cho Việt Nam những cơ hội mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống như: kinh tế, xã hội, khoa
học, giáo dục, văn hoá… đòi hỏi phải có các loại hình hoạt động kinh

doanh mới đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của con người, vì vậy trung
tâm giao dịch chứng khoán và sau này là sở giao dịch chứng khoán đã được
thành lập ở Việt Nam, và hiện tượng tương tự đã diễn ra ở Campuchia.
Mặc dù thị trường chứng khoán mới ra đời ở cả hai quốc gia nhưng
đã có những sự biến chuyển nhất định. Năm 2000, Việt Nam thành lập
trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên, trong khi đó ở Campuchia, mãi
đến năm 2007 thị trường chứng khoán đầu tiên mới được thành lập và năm
2009 mới bắt đầu bước vào hoạt động. Vì vậy, thị trường chứng khoán của
Campuchia, còn gặp phải nhiều vướng mắc về môi trường pháp lý nói
chung cũng như trong thực tiễn hoạt động. Do thị trường chứng khoán là
một trong những thị trường thu hút được rất nhiều vốn đầu tư và nó cũng là
một thị trường có rất nhiều biến động nên cần có một hành lang pháp lý đủ
mạnh để nó có thể đi vào hoạt động ổn định, tránh gây những biến động
lớn, ảnh hưởng tới toàn bộ nên kinh tế-xã hội. Vì thế, nghiên cứu về địa vị
pháp lý của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và một số bài học kinh
nghiệm cho địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán Campuchia trong
tương lai là cần thiết nhằm học hỏi, tiếp thu, củng cố thêm những kinh
nghiệm từ Việt Nam một đất nước có sở giao dịch chứng khoán đã hình
thành và đang từng bước phát triển.
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thị trường chứng khoán
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về địa vị pháp lý của sở giao dịch


2

chứng khoán của Việt Nam và một số bài học kinh nghiệm cho địa vị pháp
lý của sở giao dịch chứng khoán Campuchia trong tương lai. Vì vậy em xin
chọn đề tài này nhằm nghiên cứu về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng
khoán ở Việt Nam và tìm ra những bài học kinh nghiệm cho địa vị pháp lý
của sở giao dịch chứng khoán Campuchia trong tương lai nhằm hoàn thiện

các quy định còn chưa chặt chẽ, bổ sung những quy định thiếu vắng; nhằm
xây dựng những quy định pháp luật phù hợp, thúc đẩy thị trường chứng
khoán của Campuchia phát triển ổn định, bền vững.
Lý do cho việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh địa vị pháp lí của sở
giao dịch chứng khoán Việt Nam chứ không phải lựa chọn nghiên cứu
mảng pháp luật đó của một nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản vì Việt Nam
và Campuchia là hai quốc gia Đông-Nam Á, có nhiều điểm tương đồng về
lịch sử, văn hóa và nền tảng Kinh tế-Xã hội… Kinh nghiệm điều chỉnh
bằng pháp luật Việt Nam đối với sở giao dịch chứng khoán, vì vậy, sẽ có
khả năng cao trong việc áp dụng vào Campuchia.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có một số bài viết, công trình khoa học
nghiên cứu xung quanh những vấn đề pháp lí về sở giao dịch chứng khoán
ở Việt Nam và về thị trường chứng khoán ở Campuchia, tiêu biểu như:
+ Ở Việt Nam:
- Một là bài “ bàn về địa vị pháp lý của thị trường giao dịch chứng
khoán tập trung ở Việt Nam”-TS. Nguyễn Thị Ánh Vân, tạp chí Luật học
số 2 năm 2006.
Bài viết này chỉ ra rằng việc duy trì một thị trường giao dịch tập
trung (thị trường giao dịch chứng khoán hoặc sở giao dịch chứng khoán)
thuộc sở hữu nhà nước và là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ủy ban chứng
khoán nhà nước sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của thị trường chứng
khoán Việt Nam. Tuy nhiên bài viết này được viết trước khi luật chứng


3

khoán 2006 ra đời. Vì vậy, vấn đề địa vị pháp lí của thị trường giao dịch
chứng khoán tập trung theo luật chứng khoán mới củaViệt Nam văn bản
như chưa được nghiên cứu.

- Hai là bài “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thị trường giao dịch
chứng khoán ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Kiều Giang, tạp chí Luật học số 8
năm 2006
Bài viết này có một mục nói về “địa vị pháp lý của sở giao dịch
chúng khoán và thị trường giao dịch chứng khoán” nhưng mới chỉ dừng lại
ở việc phân tích địa vị pháp lí của các tổ chức trên theo quy định của Luật
chứng khoán 2006, khi đó vừa mới được ban hành. Bài viết chưa đi sâu
bình luận về cái hay và cái dở của các quy định Luật chứng khoán về địa vị
pháp lí của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung.
+ Ở Campuchia như:
- “Sự hình thành của thị trường chứng khoán Campuchia, kết quả đã
đạt được và vấn đề đang đối mặt”. Bài viết do Th.S Hash Veasna.
- “Bối cảnh chung để thị trường chứng khoán có thể hình thành và
một số vấn đề cần giải quyết khi thành lập thị trường chứng khoán
Campuchia”- Th.S Hash Veasna.
Cả hai bài viết trên trong quá trình hình thành thị trường chứng
khoán Campuchia, đều có pháp luật quy định chung về thị trường chứng
khoán tập trung năm 2007 đã được áp dụng, trong đó có các quy định về
trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc sở giao dịch chứng khoán do Chính
Phủ ban hành và việc duy trì thị trường này thuộc quyền sở hữu của nhà
nước, nhưng chưa có pháp luật nào chỉ rõ về địa vị pháp lí của sở giao dịch
chứng khoán của Campuchia, vì vậy, vấn đề này rất cần phải nghiên cứu
thêm.


4

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng
khoán Việt Nam và một số bài học kinh nghiệm của Sở giao dịch chứng

khoán Campuchia trong tương lai.
Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu cả vấn đề thực tiễn thi hành pháp
luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán ở
Việt Nam và Campuchia, và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của thị trường chứng khoán tập trung của hai nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
Ngoài ra đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phối kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu vừa có tính truyền thống, vừa có tính hiện
đại như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, thống kê, phương pháp quy
nạp, phương pháp diễn giải… Việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu nhằm giải quyết các nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: luận văn nghiên cứu về địa vị pháp lý của sở
giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
trên cơ sở đó sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm cho mảng pháp luật
tương ứng của Campuchia trong tương lai, từ đó tìm ra những vấn đề còn
tồn tại và đề xuất các kiến nghị phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật về sở
giao dịch chứng khoán nhằm góp phần phát triển thị trường chứng khoán ở
Campuchia một cách có hệ thống và hoạt động có hiệu quả.

Nhiệm vụ nghiên cứu:


5

- Làm rõ các khái niệm: Thị trường chứng khoán, sở giao dịch
chứng khoán, địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán.

- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện
hành về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật Việt
Nam và Campuchia.
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của sở giao
dịch chứng khoán Campuchia trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của Việt
Nam.
6. Cơ cấu của bản luận văn gồm ba chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về sở giao dịch chứng khoán và về
địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán
Chương 2: Địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng quy chế
pháp lý điều chỉnh địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán của
Campuchia


6

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
VÀ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
1. Một số vấn đề lý luận về sở giao dịch chứng khoán
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán và khái niệm sở giao
dịch chứng khoán
1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể có thể phân chia thành hai
nhóm: (1) những chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi, cần tìm kênh đầu tư để
kiếm lời; và (2) những chủ thể cần vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh
doanh.
Trong những ngày đầu của sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ,
ngân hàng đã ra đời với vai trò huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời

nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế
thông qua hình thức tín dụng. Nói cách khác, ngân hàng là một cầu nối
giữa chủ thể có vốn nhàn rỗi và chủ thể cần vốn để đáp ứng nhu cầu kinh
doanh trong xã hội; ngân hàng đã thiết lập nên một kênh dẫn vốn qua đó,
các chủ thể cần vốn cho kinh doanh có thể mua quyền sử dụng vốn đó
trong một khoảng thời gian xác định để thoả mãn nhu cầu kinh doanh của
mình. Trong kênh dẫn vốn này, ngân hàng đóng vai trò là trung gian, làm
cầu nối giữa cung và cầu về vốn, vì vậy có thể coi đây là kênh dẫn vốn gián
tiếp.
Khi sản xuất và lưu thông hàng hóa đã phát triển ở mức độ cao hơn,
hoàn thiện hơn, một kênh dẫn vốn khác đã xuất hiện - thị trường chứng
khoán - giúp những người có vốn dư thừa dễ dàng gặp được người cần vốn
trong nền kinh tế. Để có vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, chủ thể
cần vốn phát hành các giấy tờ có giá ra công chúng để kêu gọi công chúng
đầu tư bỏ vốn đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Trong kênh dẫn vốn này, bên có


7

vốn nhàn rỗi (nhà đầu tư) và bên cần vốn (chủ thể phát hành) trực tiếp gặp
gỡ và thiết lập quan hệ cung ứng vốn, vì vậy, được coi là kênh dẫn vốn trực
tiếp.
Thị trường chứng khoán hay kênh dẫn vốn trực tiếp, ngoài những ưu
điểm mà kênh dẫn vôn gián tiếp không thể có được, còn tạo điều kiện dễ
dàng cho việc điều hòa vốn trong nền kinh tế quốc dân thông qua việc mua
bán chuyển nhượng chứng khoán (loại chứng chỉ được sử dụng để huy
động trong kênh dẫn vốn trực tiếp) giữa các nhà đầu tư trong nền kinh tế.
Vậy thị trường chứng khoán là gì? Có nhiều cách hiểu về thị trường
chứng khoán khác nhau, nhưng theo cách hiểu thông dụng nhất: Thị trường
chứng khoán là một thị trường mà ở đó người ta mua bán, chuyển nhượng,

trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
Thị trường chứng khoán, nếu căn cứ vào cách thức tổ chức thị
trường, có thể chia thành hai bộ phận: Thị trường chứng khoán có tổ chức
và Thị trường chứng khoán phi tổ chức.
- Hình thái điển hình của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở
giao dịch chứng khoán. Mọi việc mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng
khoán phải tiến hành trên Sở giao dịch và thông qua các thành viên của Sở
giao dịch theo quy chế của Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng
khoán có thể là tổ chức thuộc sở hữu nhà nước, hoặc được tổ chức dưới
hình thức công ty cổ phần hoặc dưới hình thức một hiệp hội và đều có tư
cách pháp nhân. Có thể dẫn ra những Sở giao dịch chứng khoán nổi tiếng
của thế giới như: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock
exchange), LSE (London Stock exchange )v.v…
- Thị trường chứng khoán phi tổ chức là một thị trường không có
hình thái tổ chức hay sàn giao dịch cụ thể; có thể diễn ra tại bất cứ nơi nào
mà ở đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để tiến hành giao dịch
chứng khoán. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ


8

nào đó. Thị trường này thường được gọi là thị trường giao dịch qua quầy
(Over-the-counter market hay OTC market).
Ngày nay, nhờ vào thành quả của cách mạng tin học, hệ thống
INTERNET đã gắn kết các thành viên của thị trường lại với nhau, do đó
việc trao đổi thông tin, tiến hành giao dịch mua, bán chứng khoán giữa các
nhà đầu tư không phải đến tận quầy của các công ty chứng khoán và cũng
không cần đến một sàn giao dịch cụ thể mà có thể tiến hành ngay tại nhà,
thông qua hệ thống máy tính nối mạng. Đây là một hình thái của thị trường
chứng khoán có tổ chức bậc cao mới xuất hiện trong vài thập kỉ qua, được

gọi là thị trường giao dịch trực tuyến (Automated Trading Systems:
ATSs)..
Với sự phát triển phong phú của các hình thái tổ chức của thị trường
chứng khoán từ một nơi chốn cụ thể như sở giao dịch chứng khoán đến các
quầy giao dịch của các trung gian và gần đây là không gian rộng lớn của hệ
thống máy tính nối mạng đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để mở
rộng phạm vi các thành viên của thị trường chứng khoán hiện đại.
1.1.2. Khái niệm sở giao dịch chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường, sự chuyển vốn giữa các chủ thể, các
ngành, các lĩnh vực nhằm đạt được hiệu quả cao nhất của đồng vốn đã trở
thành một nhu cầu tất yếu. Một khi vốn đã được chuyển hóa thành chứng
khoán thì việc chuyển nhượng chúng trở nên dễ dàng hơn nhiều thông qua
các giao dịch trên thị trường thứ cấp. Nghị định của Chính phủ số
144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã có những
quy định cần thiết để đảm bảo cho thị trường này hoạt động an toàn và hiệu
quả. Mặc dù vậy, Nghị định đã không tránh khỏi sự lạc hậu đương nhiên so
với sự phát triển không ngừng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Luật
chứng khoán năm 2006 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Một


9

trong những tiến bộ quan trọng của luật này là đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc hình thành ở Việt Nam một thị trường thứ cấp, mang dáng dấp một thị
trường hiện đại - sở giao dịch chứng khoán.
Sở giao dịch chứng khoán là thị trường chứng khoán có tổ chức và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật, là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán
chứng khoán (gồm các cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác…)
thông qua các thành viên của sở giao dịch, với giá cả do quan hệ cung cầu

trên thị trường quyết định.
Hiểu một cách khái quát, sở giao dịch chứng khoán là nơi các giao
dịch mua và bán chứng khoán được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật.
Trong khoa học pháp lý, nhìn chung, có thể hiểu giao dịch chứng
khoán theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giao dịch chứng
khoán là bất kỳ giao dịch dân sự nào mà khi giao dịch được thực hiện đều
làm phát sinh việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang
chủ thể khác. Xét dưới gốc độ này, các giao dịch như: bán, cho, tặng, thừa
kế, … đều được coi là giao dịch chứng khoán và pháp luật điều chỉnh các
giao dịch này chính là pháp luật dân sự và pháp luật chứng khoán (với tư
cách là pháp luật chuyên ngành). Theo nghĩa hẹp, giao dịch chứng khoán
chỉ là các giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện giữa các chủ thể
mà trong đó ít nhất một bên phải là chủ thể được phép kinh doanh chứng
khoán. Các giao dịch loại này chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên
ngành là pháp luật chứng khoán. Các nhà làm luật Việt Nam quan niệm
giao dịch chứng khoán theo nghĩa hẹp, tức là chỉ giới hạn trong việc mua,
bán chứng khoán đã phát hành phù hợp với quy định của pháp luật chứng
khoán. Và như vậy, nội hàm của khái niệm thị trường giao dịch chứng
khoán cũng hẹp hơn rất nhiều.
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật chứng khoán 2006
là đã mở rộng hình thức của thị trường giao dịch chứng khoán cho phù hợp


10

với sự phát triển tất yếu của nó. Thị trường giao dịch chứng khoán theo quy
định của luật không chỉ còn bị giới hạn về mặt địa lý, tại một địa điểm nhất
định mà đã được mở rộng hơn trước. Luật đã thừa nhận hình thức trao đổi
thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán cũng là một
trong những hình thức biểu hiện của thị trường giao dịch chứng khoán.

Chính quy định này của luật đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho một thị
trường giao dịch chứng khoán mới mẻ ở Việt Nam - thị trường giao dịch
trực tuyến (ATSs) được hình thành và bước vào hoạt động.
Thị trường giao dịch chứng khoán được tổ chức chặt chẽ theo quy
định của pháp luật chứng khoán để giúp cho việc thực hiện các giao dịch
chứng khoán, một loại hàng hoá đặc thù. Do sự tác động của thị trường
chứng khoán nói chung và của các giao dịch chứng khoán nói riêng đối với
nền kinh tế hết sức nhạy cảm, vì vậy, chỉ có sở giao dịch chứng khoán và
trung tâm giao dịch chứng khoán mới được phép tổ chức thị trường giao
dịch chứng khoán. Ngoài các tổ chức này ra, không có tổ chức nào được
phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán. Như vậy, pháp luật đã phân
biệt khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán với các khái niệm sở giao
dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán.
Về hình thức, sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch
chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán, tức cũng chính là thị
trường giao dịch chứng khoán nhưng được thể hiện dưới hình thái pháp lý
khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất, bản thân sở giao dịch chứng khoán
và trung tâm giao dịch chứng khoán không phải là thị trường giao dịch
chứng khoán mà chỉ là những người đóng vai trò tổ chức thị trường giao
dịch chứng khoán, giám sát và quản lý thị trường để đảm bảo thị trường
hoạt động hiệu quả và đúng pháp luật. Chính vì vậy, ở các nước, hoạt động
tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán được coi là hoạt động chuyên
nghiệp trên thị trường chứng khoán và phải được cơ quan có thẩm quyền


11

cấp phép tương tự các hoạt động chuyên nghiệp khác như môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành…
Hiện nay, các giao dịch chứng khoán theo kiểu “trao tay” được thực

hiện trên thị trường “chợ đen” cũng đã bị loại ra khỏi phạm vi điều chỉnh
của pháp luật chứng khoán. Thị trường chợ đen không được coi là thành tố
của thị trường giao dịch chứng khoán. Hiện nay, trên thực tế các hoạt động
mua, bán chứng khoán bên ngoài thị trường giao dịch chứng khoán diễn ra
thường xuyên và khá phát triển. Nếu hiểu theo nghĩa rộng về giao dịch
chứng khoán như đã phân tích ở trên thì những hoạt động này cũng được
coi là giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, các hoạt
động mua, bán này không chịu sự điều chỉnh của pháp luật chứng khoán
mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Do vậy, khi phát sinh tranh
chấp giữa các chủ thể tiến hành các hoạt động mua, bán này cũng không
được bảo vệ bởi các thiết chế pháp luật và theo cơ chế vốn là đặc trưng của
thị trường chứng khoán.
Các giao dịch chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán do các thành viên của sở/trung tâm thực hiện. Điều
kiện để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm
giao dịch chứng khoán rất khắt khe. Trước hết, thành viên của sở giao dịch
chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán phải là công ty chứng
khoán được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt
động với nghiệp vụ môi giới hoặc tự doanh chứng khoán. Ngoài ra, công ty
chứng khoán phải thỏa mãn những tiêu chuẩn do sở giao dịch chứng khoán
hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán quy định trong điều lệ, quy chế và
được sự chấp thuận của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch
chứng khoán đó để trở thành thành viên. Thành viên của thị trường nào thì
chỉ được phép thực hiện giao dịch ở thị trường đó. Mặc dù vậy, pháp luật
không cấm một công ty chứng khoán có thể trở thành thành viên ở nhiều
thị trường khác nhau. Điều này cũng phù hợp với thông lệ trên thế giới.


12


Sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán là
chủ thể tổ chức hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán. Do vậy,
hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán gắn liền với chức năng,
quyền hạn và nhiệm vụ của hai chủ thể này.
1.2. Đặc điểm của sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán có những đặc điểm sau:
- Một là, sở giao dịch chứng khoán có tính tổ chức cao và chịu sự
kiểm soát trực tiếp, chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động của sở (với tư
cách là thị trường chứng khoán tập trung). Đặc điểm này xuất phát từ thực
tế sở giao dịch chứng khoán là tổ chức thuộc sở hữu của Nhà nước, do
Chính phủ thành lập, chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước
thông qua các cơ quan chuyên ngành của mình. Ở đây, vai trò quản lý nhà
nước đối với thị trường giao dịch tập trung được thể hiện rất rõ. Mô hình tổ
chức này của thị trường giao dịch tập trung xem ra khá thích hợp trong điều
kiện thị trường mới nổi và ở giai đoạn đầu của sự phát triển của thị trưòng
chứng khoán, bởi lẽ khi đó, thị trường chứng khoán rất cần sự hỗ trợ của
nhà nước để phát triển nhanh. Sở giao dịch chứng khoán sẽ hoạt động vì
những mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước đặt ra mà không chỉ vì mục tiêu
lợi nhuận đơn thuần, như vậy sẽ thúc đẩy các hoạt động giao dịch hiệu quả
và với chi phí thấp. Mặt khác, khi sở giao dịch chứng khoán thuộc sở hữu
Nhà nước thì nhà nước có thể sẵn sàng can thiệp vào thị trường tập trung
này nếu nhận thấy thị trường phát triển theo hướng bất lợi của nền kinh tế,
đảm bảo sự ổn định và phát triển đúng hướng của thị trường. Tuy nhiên,
khi thị trường đã phát triển ở mức độ cao thì sự can thiệp quá sâu của nhà
nước vào các hoạt động giao dịch chứng khoán ở mô hình tổ chức thị
trường kiểu này rất có thể sẽ tạo những hiệu ứng tiêu cực đối với thị
trường.


13


- Hai là, sở giao dịch chứng khoán có khả năng đảm bảo an toàn
cao cho quyền lợi của người đầu tư cũng như có khả năng đem lại sự an
toàn cho nền kinh tế và an toàn cho chính bản thân sở giao dịch chứng
khoán.
Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán là pháp
nhân được thành lập theo các quy định của pháp luật để tiến hành các hoạt
động nhằm giúp các giao dịch chứng khoán diễn ra một cách thuận lợi,
nhanh chóng và trong khuôn khổ pháp luật. Sở giao dịch chứng khoán,
trung tâm giao dịch chứng khoán đứng ra tổ chức thị trường giao dịch
chứng khoán. Nói một cách đơn giản, nếu coi thị trường giao dịch chứng
khoán như một cái chợ với hàng hóa là chứng khoán thì sở giao dịch chứng
khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán chính là ban quản lý chợ. Ban
quản lý chợ có trách nhiệm tổ chức chợ, quy định thời điểm họp chợ, mức
thu phí chợ, đưa ra nội quy hoạt động của chợ buộc những người mua kẻ
bán trong chợ tuân thủ…
Tại Việt Nam, chỉ có sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao
dịch chứng khoán mới được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng
khoán. Ngoài sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng
khoán, không tổ chức cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch
chứng khoán (Điều 33 Luật chứng khoán năm 2006). Quy định này hoàn
toàn phù hợp cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, việc quy định như vậy xuất phát từ những lý do sau
đây: Một là, giao dịch chứng khoán là giao dịch đối với loại hàng hóa bậc
cao, có độ rủi ro lớn. Do vậy, chỉ nên cho phép các tổ chức chuyên nghiệp
có đủ những điều kiện cần thiết (về nhân sự, cơ sở vật chất, vốn…) tổ chức
thị trường giao dịch mà thôi. Sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao
dịch chứng khoán chỉ có chức năng duy nhất, mang tính chuyên nghiệp là
tổ chức thị trường giao dịch. Hai là, các giao dịch được thực hiện tại một



14

số ít thị trường sẽ tạo ra sự tập trung và có tính chuyên nghiệp hơn là sự
manh mún, nhỏ lẻ. Ba là, việc chỉ có sở giao dịch chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán sẽ giúp
Ủy ban chứng khoán nhà nước có điều kiện giám sát các giao dịch trên thị
trường phát hiện và kịp thời xử lý các vi phạm tại các thị trường này.
Về mặt thực tiễn, thực tế trong những năm trước đây cho thấy, xuất
phát từ việc ở Việt Nam chưa có thị trường OTC và pháp luật cũ cũng chưa
điều chỉnh nên một số công ty chứng khoán đã tổ chức các sàn giao dịch
cho những chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết. Điều này cũng có mặt
tích cực là tạo sân chơi cho những nhà đầu tư đối với các loại chứng khoán
này, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những yếu tố tiêu cực và dễ dẫn đến rủi
ro cho các nhà đầu tư. Quy định này của Luật nhằm chấm dứt tình trạng
phát triển tự phát nói trên của thị trường và góp phần đưa thị trường chứng
khoán Việt Nam đi vào nền nếp.
- Ba là, sở giao dịch chứng khoán luôn có sự tham gia đắc lực và
không thể thiếu của các tổ chức là trung gian hỗ trợ thị trường chứng khoán
hoạt động gồm các công ty chứng khoán tham gia vào thị trường với tư
cách thành viên của thị trường.
Trung gian là một trong những nguyên tắc căn bản trong hoạt động
tại thị trường giao dịch chứng khoán. Theo nguyên tắc này thì mọi giao
dịch trên thị trường đều phải được thực hiện qua trung gian là các thành
viên thị trường. Các nhà đầu tư không được trực tiếp đặt lệnh mua, lệnh
bán trực tiếp mà phải gián tiếp qua các trung gian là thành viên thị trường
này.
Việc các giao dịch được thực hiện tại thị trường phải qua trung gian
chuyên nghiệp là yêu cầu rất quan trọng. Thứ nhất, thực hiện qua trung
gian chuyên nghiệp bảo đảm tính tổ chức và chuyên nghiệp cao của thị

trường. Thị trường giao dịch chứng khoán là thị trường bậc cao mà không


15

phải ai cũng có thể tham gia. Các hoạt động trên thị trường như nhận lệnh,
khớp lệnh, thực hiện giao dịch, thanh toán là các hoạt động đòi hỏi kĩ năng
và tính chính xác cao của các nhà chuyên nghiệp. Chỉ có các thành viên là
những công ty chứng khoán có đủ điều kiện cần thiết về vốn, về cơ sở vật
chất và con người theo quy định của sở giao dịch chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán mới được phép trở thành thành viên và tham gia
giao dịch tại các thị trường này. Thư hai, việc thực hiện giao dịch qua trung
gian giúp bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người không
chuyên nên khi tham gia thị trường giao dịch nếu không có sự giúp đỡ của
các thành viên chuyên nghiệp sẽ gặp nhiều rủi ro. Rủi ro lớn mà nhà đầu tư
chịu sẽ kéo theo sự mất niềm tin vào thị trường chứng khoán nói chung.
Vậy nên cần thiết phải có các trung gian chuyên nghiệp đứng ra tư vấn, đặt
lệnh, thực hiện giao dịch hộ khách hàng trên cở sở thu phí.
- Bốn là, thị trường chứng khoán tập trung bao giờ cũng được tổ
chức và vận hành dựa trên một số nguyên tắc pháp lý đặc thù như nguyên
tắc công khai; minh bạch; nguyên tắc trung gian; nguyên tắc đấu giá…
+ Nguyên tắc công khai: quyết định của nhà đầu tư phụ thuộc phần
lớn vào những thông tin mà họ có được về chứng khoán, do vậy, thông tin
là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với Thị trường chứng khoán. Công
bằng, công khai và minh bạch được coi là nguyên tắc đặc thù của Thị
trường chứng khoán. Mọi thông tin về chứng khoán giao dịch trên thị
trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty niêm yết, số
lượng chứng khoán đang lưu hành, giá cả chứng khoán, những thông tin
khác có thể ảnh hưởng đến giá chứng khoán đều phải được công bố một
cách công khai, chính xác và kịp thời trên các phương tiện thông tin đại

chúng. Hành vi sử dụng thông tin nội bộ hoặc thông tin chưa được phép
công bố chính thức để tiến hành giao dịch chứng khoán, thu lợi nhuận bị
coi như hành vi giao dịch nội gián và bị cấm.


16

+ Nguyên tắc minh bạch: Thị trường khó có thể hoạt động tốt được
nếu thiếu tính minh bạch. Để đảm bảo tính minh bạch của thị trường, các
quy định về kế toán, kiểm toán phải được thiết kế sao cho những thông tin
cần thiết đến tay nhà đầu tư phải thực sự rõ ràng, chuẩn xác, giúp họ có
quyết định đầu tư đúng đắn. Công khai và minh bạch là hai nguyên tắc có
quan hệ chặt chẽ với nhau, nguyên tắc nọ làm tiền đề cho nguyên tắc kia.
Công khai mà không minh bạch thì thông tin được công khai đó sẽ trở nên
vô ích nếu như không nói là có thể gây tổn hại đối với nhà đầu tư; còn minh
bạch mà không công khai thì sự minh bạch đó cũng trở nên thừa vì không
được ai biết đến.
+

Nguyên tắc trung gian: người mua và người bán chứng khoán

trên thị trường chứng khoán không tiến hành mua bán trực tiếp mà phải
thông qua các trung gian là các công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán
hoạt động trên thị trường chứng khoán với hai tư cách: môi giới chứng
khoán và tự doanh.
Với tư cách người môi giới chứng khoán, công ty chứng khoán
hưởng hoa hồng từ những dịch vụ giao dịch chứng khoán cung ứng cho
khách hàng (nhà đầu tư). Tùy theo yêu cầu của khách hàng, nhà môi giới có
thể cung cấp dịch vụ môi giới trọn gói, từ đại diện thương lượng, mua, bán
chứng khoán cho đến thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan

quyền sở hữu chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán; hoặc chỉ cung cấp
một dịch vụ môi giới đơn thuần, nghĩa là làm trung gian giao dịch chứng
khoán.
Khác với tư cách người môi giới, khi tự doanh chứng khoán, công ty
chứng khoán tiến hành giao dịch cho chính mình để tìm kiếm lợi nhuận.
Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán, sự có mặt của những người buôn
bán chứng khoán đóng vai trò như những nhà tạo lập thị trường mua vào


17

chứng khoán khi giá hạ và bán ra khi giá cao, góp phần điều tiết cung cầu
thị trường và đảm bảo cho thị trường vận hành liên tục, không bị gián đoạn.
+ Nguyên tắc cạnh tranh tự do thông qua đấu giá chứng khoán: trên
cơ sở quan hệ cung cầu, giá chứng khoán được xác định thông qua đấu giá
cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp thông qua đấu
giá để xác định giá phát hành chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp tùy
theo mô hình thị trường việc định giá chứng khoán được thực hiện theo
phương pháp đấu giá hoặc đấu lệnh. Theo phương pháp đấu giá, các nhà
môi giới đóng vai trò như những nhà tạo lập thị trường, đưa ra mức giá
chào bán và chào mua tốt nhất cho mỗi loại chứng khoán. Trên cơ sở đó,
nhà đầu tư lựa chọn mức giá tốt nhất với họ và tiến hành giao dịch với nhà
tạo lập thị trường. Giá cả được xác định thông qua cạnh tranh giữa các nhà
tạo lập thị trường. Theo phương pháp đấu lệnh, các lệnh mua/bán chứng
khoán sẽ được tâp trung và so khớp trực tiếp về mức giá và khối lượng để
tim ra mức giá thỏa mãn cả bên mua và bán mà không cần vai trò của nhà
tạo lập thị trường.
1.3. Vai trò của sở giao dịch chứng khoán
- Sở giao dịch chứng khoán có khả năng tạo tính thanh khoản cho
các chứng khoán đã phát hành.

Thông qua sở giao dịch chứng khoán, các chứng khoán đã phát hành
có điều kiện thuận lợi để được giao dịch liên tục. Thiết lập một thị trường
giao dịch chứng khoán có tổ chức, vận hành liên tục với các chứng khoán
được chọn lựa là một trong những vai trò quan trọng nhất của sở giao dịch
chứng khoán. Mặc dù hoạt động của sở giao dịch chứng khoán không mang
lại vốn trực tiếp cho tổ chức phát hành, nhưng thông qua sở, các chứng
khoán phát hành được giao dịch liên tục, làm tăng tính thanh khoản và khả
mại cho các chứng khoán. Các tổ chức phát hành có thể phát hành để tăng


18

vốn qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán chứng
khoán niêm yết một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Như vậy, sở giao dịch chứng khoán có khả năng làm tăng tính thanh
khoản cho các chứng khoán đang lưu hành và nhờ đó, giúp nhà đầu tư có
thể chuyển hoá chứng khoán thành tiền khi cần. Vai trò này có ý nghĩa
quan trọng giúp nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào chứng khoán vì
biết rằng bất cứ khi nào có nhu cầu, nhà đầu tư đều có thể chuyển đổi số
chứng khoán mình sở hữu ra tiền mặt để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
mình. Cũng chính nhờ vai trò này của sở giao dịch chứng khoán, các doanh
nghiệp có thể dễ dàng huy động vốn hơn trên thị trường chứng khoán.
- Sở giao dịch chứng khoán có khả năng tạo ra cơ chế xác định giá
minh bạch và công bằng
Đây là vai trò cực kì quan trọng của sở giao dịch chứng khoán trong
việc tạo ra một thị trường mà ở đó, giá cả được xác định trên cơ sở khớp
các lệnh mua và bán chứng khoán, được chốt giá bởi quan hệ cung-cầu
chứng khoán trên thị trường. Giá cả không do sở giao dịch chứng khoán
hay thành viên sở giao dịch chứng khoán áp đặt mà được sở giao dịch
chứng khoán xác định dựa trên cơ sở khớp các lệnh mua và bán chứng

khoán. Giá cả chỉ được chốt bởi hiệu quả cung – cầu từ các nhà đầu tư và
các tổ chức phát hành chứng khoán. Qua đó, sở giao dịch chứng khoán mới
có thể tạo ra được một thị trường tự do, cởi mở và công bằng.
Hơn nữa, với nghĩa vụ công bố thông tin của sở giao dịch chứng
khoán, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán chính thức này có thể được
tiếp cận thông tin về các công ty niêm yết, về hoạt động thị trường, và về
các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán… Chính những thông
tin này sẽ đem đến cho nhà đầu tư một cái nhìn toàn diện, minh bạch về thị
trường. Như vậy, Sở giao dịch chứng khoán có thể tạo ra được một thị


19

trường tự do, công khai minh bạch và công bằng cho các nhà đầu tư chứng
khoán.

- Sở giao dịch chứng khoán là hàn thử biểu của nền kinh tế
Sở giao dịch chứng khoán giữ vai trò như một thước đo của nền kinh
tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng. Các nhà quản lý và người đầu
tư đặc biệt quan tâm đến những biến động trên Sở giao dịch chứng khoán,
biểu thị “sức khỏe” của nền kinh tế và tính lành mạnh của môi trường đầu tư.
Thông qua các chỉ số được tính toán theo nhiều cách khác nhau, sở giao dịch
chứng khoán phản ánh trung thực sự phát triển của nền kinh tế và tác động
không nhỏ đến các quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Chỉ khi thị trường
chứng khoán chính thức này ổn định và phát triển tốt, thì thị trường tiền tệ
mới theo đó thu hút được các nguồn đầu tư bởi lẽ các khoản đầu tư dài hạn
chính là một căn cứ quan trọng để đặt niềm tin vào các khoản đầu tư ngắn
hạn. Các nhà quản lý khi có những quyết định đối với thị trường tài chính,
thì không thể bỏ qua những biểu hiện của thị trường chứng khoán, một bộ
phận quan trọng nhất của thị trường tài chính. Ví dụ như khi thị trường

chứng khoán có dấu hiệu xấu, các nhà đầu tư bán ra quá nhiều chứng khoán
để thu tiền mặt về thì áp lực tiền mặt đối với nền kinh tế sẽ mạnh hơn, có thể
gây ra lạm phát. Khi đó nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp cả về hành chính
và kinh tế để làm giảm lượng cung tiền mặt như nghiệp vụ thị trường mở, dự
trữ bắt buộc hay phát hành trái phiếu chính phủ - một loại chứng khoán rất
an toàn cho các nhà đầu tư.
Ở Việt Nam hiện nay, chỉ số VN-Index chưa có được vai trò quan
trọng trong việc phản ánh tình trạng của nền kinh tế. Có nhiều nguyên nhân,
song một trong những nguyên nhân quan trọng là thị trường chứng khoán
Việt Nam chưa thực sự thu hút được các nhà đầu tư và do vậy các chứng
khoán lưu hành trên thị trường không đại diện cho phần lớn nguồn vốn đang


20

được đầu tư cho nền kinh tế. Tuy nhiên trong tương lai, khi thị trường chứng
khoán Việt Nam phát triển thì vai trò này sẽ ngày càng quan trọng đối với cả
nhà nước, các doanh nghiệp và người đầu tư.
2. Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán
2.1. Khái niệm về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán
Địa vị pháp lý của một cơ quan, một tổ chức là thuật ngữ hàm chỉ vị
trí pháp lý của cơ quan/tổ chức đó trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
cũng như chức năng cơ bản mà cơ quan/tổ chức đó phải đảm nhiệm. Với
cách hiểu đó, cụm từ "địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán" có thể
được định nghĩa là vị trí pháp lý của sở giao dịch chứng khoán và chức
năng cơ bản mà sở giao dịch chứng khoán gánh vác trong quá trình hoạt
động của mình.
Vị trí pháp lý của sở giao dịch chứng khoán của Việt Nam nằm ở đâu
trong mối tương quan với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và với
các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Câu trả lời cho câu hỏi

này đã có sự đổi thay. Trước đây, khi thị trường chứng khoán chính thức
của Việt Nam mới được thành lập và bước vào hoạt động, thị trường này
được tổ chức dưới dạng Trung tâm giao dịch chứng khoán. Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg, ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ, tạo cơ sở
pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và vận hành Trung tâm giao dịch chứng
khoán với tư cách là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước. Như vậy, theo quy định cũ, Trung tâm giao dịch chứng
khoán là một bộ phận của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán, và vì
vậy bản thân Trung tâm cũng được coi là thành phần của cơ quan quản lý
nhà nước. Sau gần 10 năm thành lập và hoạt động, Chính phủ đã quyết định
nâng cấp Trung tâm giao dịch chứng khoán lên thành Sở giao dịch chứng
hoán theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg, ngày 02/01/2009 của Thủ
tướng Chính phủ (về việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán, sở


21

giao dịch chứng khoán). Theo Quyết định này, sở giao dịch chứng khoán là
pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng; được mở tài khoản bằng Việt Nam Đồng và ngoại tệ tại Kho bạc nhà
nước và các Ngân hàng Thương mại trong và ngoài nước. Sở giao dịch
chứng khoán là đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, thực hiện chế
độ tài chính, chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán và có nghĩa vụ tài
chính theo quy định của pháp luật; hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật
doanh nghiệp, Điều lệ của Sở giao dịch chứng khoán và các quy định khác
của pháp luật liên quan. Như vậy, hiện nay, sở giao dịch chứng khoán
không còn là cơ quan quản lý nhà nước mà là một doanh nghiệp, với chức
năng chủ yếu là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán chính thức ở Việt
Nam. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong vị trí pháp lý của thị trường

giao dịch chứng khoán chính thức vì đã bóc tách chức năng quản lý nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh của sở giao dịch chứng khoán.
Chức năng cơ bản mà sở giao dịch chứng khoán phải đảm nhiệm là
chức năng tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán chính thức cho các
nhà đầu tư chứng khoán. Chức năng này được thể hiện ở những phương
diện hoạt động chủ yếu của sở giao dịch chứng khoán, thông qua việc được
hưởng các quyền và việc thực thi các nghĩa vụ mà pháp luật trang bị cho sở
giao dịch chứng khoán. Các quyền mà pháp luật trao cho sở giao dịch
chứng khoán chủ yếu tạo điều kiện để sở giao dịch chứng khoán hành sự
với tư cách là người tổ chức thị trường thông qua các hoạt động quản lý,
giám sát, điều hành hoạt động của thị trường. Các nghĩa vụ mà pháp luật áp
đặt lên sở giao dịch chứng khoán chủ yếu là nhằm đảm bảo giao dịch
chứng khoán trên sàn được tiến hành công bằng, hiệu quả, bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhà đầu tư.
2.2. Đặc điểm về địa vị pháp lý của sở giao dịch chứng khoán


22

Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật chứng khoán năm 2006, sở
giao dịch chứng khoán là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Tuy nhiên, sở giao dịch
chứng khoán khác với các công ty kinh doanh khác ở một số điểm sau:
- Thứ nhất, chỉ có Thủ tướng Chính phủ mới có quyền ra quyết định
thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức, hình thức sở hữu của sở giao
dịch chứng khoán theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Điều này
tưởng như mâu thuẫn với Luật doanh nghiêp, theo đó thì vấn đề thành lập,
giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức, hình thức sở hữu của công ty là do chủ
sở hữu công ty quyết định và đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước. Tuy nhiên, thực tế lại không phải như vậy. Theo ý tưởng thì dù sở

giao dịch chứng khoán được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu
hạn hay công ty cổ phần thì phần vốn góp, vốn cổ phần của Nhà nước bao
giờ cũng phải là chi phối để đảm bảo tiếng nói quyết định của Nhà nước
trong lĩnh vực đặc thù này. Ý tưởng này xuất phát từ: Một là, xuất phát từ
đặc thù của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hường xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, cần thiết phải có sự tham gia của Nhà
nước vào những lĩnh vực nhạy cảm ở mức độ mà Nhà nước có thể kiểm
soát và can thiệp được. Một trong các lĩnh vực đó là lĩnh vực tổ chức thị
trường giao dịch chứng khoán. Hai là, xuất phát từ đặc thù của Thị trường
chứng khoán Việt Nam là thị trường còn non trẻ, mọi biến động của thị
trường này sẽ tác động đến nền kinh tế và ngược lại, mọi biến động của nền
kinh tế cũng tác động ngược trở lại cho thị trường chứng khoán. Bởi vậy,
trong mọi giai đoạn phát triển của thị trường, Nhà nước cần có vị thế chủ
đạo mang tính quyết định để có thể bảo đảm được vai trò của mình. Muốn
có vị thế như vậy thì trong mọi hình thức tổ chức của sở giao dịch chứng
khoán, phần vốn của Nhà nước phải là chi phối để Thủ tướng có thể quyết
định được các vấn đề quan trọng đó.


×