Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luật doanh nghiệp 2005 của lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.36 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BEELEE YEARSENG

LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 CỦA LÀO VÀ
VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………..1
CHƢƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005
CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM………………………………………………….5
1.1.Hoàn cảnh ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005.......................... 5
1.1.1. Ở Lào ................................................................................................. 5
1.1.2. Ở Việt Nam ....................................................................................... 6
1.2. Mục đích, vị trí và vai trò của Luật doanh nghiệp ............................. 7
1.2.1. Mục đích ............................................................................................ 7


1.2.2. Vị trí................................................................................................... 8
1.2.3. Vai trò .............................................................................................. 10
1.3. Những nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp 2005 Lào và VN ….11
CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP LÀO
VÀ VIỆT NAM 2005 DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH ……………………….19
2.1. Các loại hình doanh nghiệp ................................................................ 19
2.1.1. Doanh nghiệp tư nhân ..................................................................... 19
2.1.2. Công ty hợp danh ............................................................................ 21
2.1.3. Công ty TNHH ................................................................................ 23
2.1.4. Công ty cổ phần ............................................................................... 26
2.1.5. Công ty nhà nước ............................................................................ 27
2.1.6. Doanh nghiệp liên doanh................................................................. 29
2.2. Vốn và chế độ tài chính ....................................................................... 31
2.2.1. Vốn điều lệ ...................................................................................... 31
2.2.2. Chế độ tài chính ............................................................................... 34
2.3. Tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp ................................................ 39
2.3.1. Doanh nghiệp tư nhân ..................................................................... 39
2.3.2. Công ty hợp danh ............................................................................ 39
2.3.3. Công ty TNHH ................................................................................ 40


2.3.4. Công ty cổ phần ............................................................................... 42
2.3.5. Công ty nhà nước ............................................................................ 44
2.3.6. Doanh nghiệp liên doanh................................................................. 48
2.4. Thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp ................................... 48
2.4.1. Thành lập doanh nghiệp .................................................................. 48
2.4.2. Tổ chức lại doanh nghiệp ................................................................ 52
2.4.3. Giải thể doanh nghiệp ..................................................................... 57
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP LÀO TỪ KINH
NGHIỆM CỦA VIỆT NAM……………………………………………….63

3.1. Sự cần thiết phải học tập kinh nghiệm pháp luật Việt Nam ........... 63
3.1.1. Do sự tương đồng về chính trị, kinh tế, địa lý, lịch sử, xã hội ........ 63
3.1.2. Do hoạt động hợp tác kinh doanh Lào - Việt .................................. 64
3.1.3. Do pháp luật Việt Nam tiến bộ hơn so với pháp luật Lào .............. 64
3.2. Các yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện LDN Lào....................... 65
3.2.1. Phải phù hợp với các đặc điểm của nền kinh tế Lào ....................... 65
3.2.2. Phải phù hợp với đường lối chính sách của Đảng NDCM Lào ...... 66
3.2.3. Phải đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ..................... 67
3.2.4. Phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của các văn bản pháp luật 67
3.3. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện Luật Doanh nghiệp Lào từ kinh
nghiệm của Việt Nam ................................................................................ 68
3.3.1. Hoàn thiện những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh ........... 68
3.3.2. Hoàn thiện các quy định về vốn và chế độ tài chính....................... 70
3.3.3. Hoàn thiện các quy định về quản lý nội bộ doanh nghiệp…..71
3.3.4. Hoàn thiện các quy định về tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp ... 72
KẾT LUẬN………………………………………………………………….74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHDCND Lào
CHXHCN Việt Nam
Công ty TNHH
DNNN
ĐKKD
Đảng NDCM Lào
Giấy CNĐKKD
LDN
LĐT

WTO

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp Nhà nước
Đăng ký kinh doanh
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Luật doanh nghiệp
Luật đầu tư
World Trade Organisation (Tổ chức Thương mại Thế
giới)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Luật Doanh nghiệp là đạo luật quan trọng, có vị trí trung tâm trong hệ
thống pháp luật kinh tế. Nó điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình
thành lập, hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn
cầu hóa, khu vực hóa hiện nay, Luật doanh nghiệp (LDN) càng thể hiện vai
trò to lớn của mình, góp phần thúc đẩy sự ra đời của doanh nghiệp – chủ thể
cơ bản của nền kinh tế. Để phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập với
nền kinh tế thế giới, Nhà nước Lào đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện LDN
cho phù hợp với hoàn cảnh trong nước và tình hình thế giới.
Một trong những khó khăn, trở ngại của quá trình mở cửa, hội nhập
chính là sự khác nhau về pháp luật, đặc biệt là pháp luật thương mại. Trong
lĩnh vực này, sự khác biệt về các loại hình doanh nghiệp trong pháp luật Lào
với pháp luật các nước đã trở thành trở ngại không nhỏ đối với việc phát triển
hoạt động thương mại trong nước và mở rộng giao lưu quốc tế.

Trong bối cảnh đó, việc so sánh pháp luật là cần thiết, vì thông qua đó
có thể tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp
luật, từ đó đánh giá tính hợp lý của các giải pháp pháp lý của pháp luật các
nước và rút ra những bài học kinh nghiệm lập pháp quan trọng áp dụng vào
việc hoàn thiện, bổ sung pháp luật nước mình.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, để tiến kịp cùng với các nước bạn bè anh
em, Lào cần tiếp nhận những tinh hoa của nền pháp lý nhân loại thông qua sự
sàng lọc của luật so sánh để giúp Lào có được một hệ thống pháp luật doanh
nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa mà vẫn tương thích với
pháp luật quốc tế. Trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào rất
chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam.
CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam cùng nằm trên Bán đảo Đông Dương,
cùng một khu vực địa lý với những nét tương đồng về tự nhiên, văn hóa, lịch
sử; hai nước đã từng cùng nhau tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại,

1


cùng nhau bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay lại cùng nhau xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việt Nam có những lợi thế
riêng mà từ đó nền kinh tế đất nước này đã có những bước phát triển đáng kể,
vượt bậc. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, đặt nó trong mối tương
quan với pháp luật Lào là điều cần thiết để Lào có thể tiếp thu, học hỏi từ Việt
Nam những kinh nghiệm quý báu, tạo tiền đề giúp cho Lào hội nhập kinh tế
nhanh hơn, sâu hơn, toàn diện hơn, từ đó thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết của
hai nước anh em trong thời bình. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Luật
doanh nghiệp 2005 của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” làm luận văn
tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Lào, việc nghiên cứu LDN không phải là một đề tài mới. Tuy nhiên,

hoạt động nghiên cứu dưới góc độ so sánh với LDN nước khác thì chưa có. Ở
Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật doanh
nghiệp của Lào như Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về công
ty TNHH ở nước CHDCND Lào” của Phu Khăm Lê Nin (Trường Đại học
Luật Hà Nội - 2003), Luận án Tiến sỹ luật học “Xây dựng và hoàn thiện LDN
trong điều kiện đổi mới hiện nay của CHDCND Lào” của Chăm Bup Pha Li
Văn (Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội – 2001). Những công trình này chỉ
nghiên cứu LDN 2001 của Lào, trước khi LDN 2005 ra đời. Còn nghiên cứu
pháp luật doanh nghiệp của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh thì mới chỉ
có Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về công ty TNHH của Lào so sánh với pháp
luật Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” của Sounthone Thammavong
(Trường Đại học Luật Hà Nội - 2008). Cho đến nay, chưa có một đề tài nào
nghiên cứu một cách tổng thể về các loại hình doanh nghiệp Lào và Việt Nam
dưới góc độ so sánh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề khái quát về LDN Lào
và Việt Nam, làm rõ những quy định trong LDN Lào và Việt Nam để cung

2


cấp cho độc giả một cái nhìn khái quát về các loại hình doanh nghiệp của hai
nước dưới góc độ so sánh; từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện LDN nước
CHDCND Lào.
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau
đây:
- Phân tích hoàn cảnh ra đời của LDN 2005 ở Lào và Việt Nam;
- Nêu lên mục đích, vị trí, vai trò của LDN đối với nền kinh tế kinh tế quốc
dân;
- Phân tích so sánh bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp được

quy định trong LDN 2005 của Lào và Việt Nam;
- Phân tích so sánh quy định của pháp luật hai nước về cơ cấu tổ chức nội
bộ doanh nghiệp; vốn điều lệ và chế độ tài chính trong từng loại hình doanh
nghiệp; việc thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp…
- Làm rõ định hướng và yêu cầu hoàn thiện LDN Lào; đề xuất các giải
pháp hoàn thiện LDN Lào từ những kinh nghiệm của Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin. Để triển khai đề tài,
tác giả sử dụng nhiều phương pháp khoa học như phương pháp phân tích,
tổng hợp v.v… và đặc biệt là phương pháp so sánh. Phương pháp luật so sánh
là phương pháp chủ đạo giúp tác giả tìm ra nét tương đồng và khác biệt điển
hình trong quy định của pháp luật hai nước.
Luận văn đặt các vấn đề nghiên cứu trong sự vận động và phát triển của
nền kinh tế thị trường, trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và
pháp luật, đồng thời căn cứ vào các quan điểm của Đảng và nhà nước Lào về
phát triển các loại hình doanh nghiệp.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định trong LDN của hai
nước và thực tiễn áp dụng LDN. Do tính phức tạp của đề tài nên luận văn chỉ

3


nghiên cứu những vấn đề cơ bản của Luật doanh nghiệp 2005 Lào trong
tương quan so sánh với Luật doanh nghiệp 2005 Việt nam để chỉ ra những nét
tương đồng và khác biệt giữa pháp luật doanh nghiệp hai nước.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn đã làm rõ bản chất pháp lý của từng loại hình doanh
nghiệp theo LDN của hai nước, phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới LDN

Lào, đặc biệt là sự ảnh hưởng từ pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, luận văn đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa
LDN Lào và LDN Việt Nam; Lý giải nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và
khác biệt đó và nêu bật những ưu điểm, hạn chế trong các quy định của LDN
hai nước. Đặc biệt, luận văn chỉ ra những vướng mắc mà các nhà kinh doanh
gặp phải khi áp dụng các quy định của LDN Lào, những hạn chế trong LDN
2005 của Lào so với Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở học tập những kinh nghiệm của Việt Nam, luận văn đã
mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật doanh nghiệp 2005
của Lào.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về Luật doanh nghiệp Lào và Việt Nam
- Chương 2: Những quy định của Luật doanh nghiệp 2005 của Lào và
Việt Nam dưới góc độ so sánh
- Chương 3: Hoàn thiện Luật doanh nghiệp Lào từ kinh nghiệm của Việt
Nam.

4


CHƢƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005
CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM
1.1.

Hoàn cảnh ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005

1.1.1. Ở Lào
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV năm 1986 được coi là dấu mốc

quan trọng, là bước ngoặt đối với sự phát triển kinh tế xã hội Lào. Từ đây, nền
kinh tế Lào có những bước phát triển vượt bậc, chuyển từ cơ chế tập trung,
bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Với sự nỗ lực không
ngừng, Lào đã từng bước kiện toàn hệ thống pháp luật xây dựng khung pháp
lý làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Trải qua chặng đường 25 năm đổi mới,
kinh tế Lào gặt hái được nhiều thành quả: nền kinh tế đất nước chuyển từ tự
cung tự cấp sang hàng hóa nhiều thành phần, Lào từ một nước nhập khẩu
lương thực đã tự cung cấp được nhu cầu cho bản thân và có xuất khẩu; cơ cấu
nền kinh tế có bước chuyển đổi từ thuần nông sang công - nông nghiệp - dịch
vụ… Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh chung của thế giới thì Lào vẫn là một
nước kém phát triển, nền kinh tế chưa tự cân đối, tỷ lệ nhập khẩu cao hơn rất
nhiều so với xuất khẩu, trong khi đó xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông
nghiệp thô sơ; tài nguyên thiên nhiên khá đa dạng nhưng chưa biết tận dụng
tiềm năng để khai thác; việc tăng trưởng kinh tế chưa thật sự ổn định… Trong
khi đó, nền kinh tế nhiều nước trên thế giới phát triển vượt bậc, nhanh chóng,
một số nước trong khu vực trở thành con rồng Châu Á, cả thế giới bước vào
xu thế hội nhập sâu rộng trên mọi lĩnh vực [14, tr23].
Pháp luật là cơ sở quan trọng phản ánh phần nào trình độ kinh tế, thể
hiện mức độ mở cửa hợp tác của đất nước, vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải hoàn
thiện pháp luật Lào cho phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kỳ hội nhập
kinh tế thế giới. Luật Doanh nghiệp (LDN) đầu tiên của Lào được Quốc hội
thông qua ngày 23/12/2000 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/1/2001. Sau 4
năm áp dụng, LDN 2001 đã tỏ ra có nhiều bất cập, không đáp ứng được nhu
cầu thực tế: thời gian thành lập doanh nghiệp còn dài, cơ cấu tổ chức công ty

5


TNHH 1 thành viên chưa chưa rõ ràng, không thừa nhận tư cách pháp nhân
của công ty hợp danh…dẫn tới những khó khăn cho quá trình thành lập, hoạt

động của doanh nghiệp. Vì vậy, dưới sự tác động của hội nhập kinh tế, để đáp
ứng đòi hỏi gia nhập WTO, việc sửa đổi, hoàn thiện LDN 2001 của Lào là vô
cùng cần thiết.
Cùng với tư tưởng đổi mới của Đại hội IV, các Đại hội Đảng V, VI đều
khuyến khích việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, một mặt nêu lên
tầm quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước, mặt khác vẫn khẳng định
tiềm năng của các thành phần kinh tế khác đối với nền kinh tế Lào. Để đảm
bảo xây dựng thành công chế độ XHCN thì phát triển kinh tế là một tiền đề
quan trọng, qua các kỳ đại hội Lào đã xác định phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, mục tiêu đến 2030 Lào cơ bản trở thành nước
công nghiệp. Chính điều kiện kinh tế xã hội, yêu cầu hội nhập thế giới và chủ
trương đường lối của Đảng đã tác động thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng của
LDN 2005.
1.1.2. Ở Việt Nam
Sau những năm chiến tranh ác liệt, nhân dân Việt Nam mang trong
mình niềm vui chiến thắng để xây dựng đất nước đổi mới. Nếu như Đại hội
Đảng lần IV đến với nhân dân Lào như ánh sáng của thời kỳ đổi mới thì với
nhân dân Việt Nam ánh sáng ấy được mang đến từ Đại hội VI 1986. Bắt đầu
từ Đại hội này đã ghi nhận vai trò to lớn của các thành phần kinh tế mà mầm
mống đã có từ thời kỳ trước đó. Qua các kỳ đại hội VII, VIII, IX đều khẳng
định vai trò của phát triển kinh tế đối với xây dựng CNXH ở Việt Nam, nhấn
mạnh chính sách nhà nước là mở cửa “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
quốc gia trên thế giới”, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp. Biểu hiện rõ nét cho chính sách ấy là trong năm 2005 Việt
Nam đã sửa đổi, ban hành hàng loạt đạo luật như Bộ luật Dân sự, Luật
Thương mại, Luật Đầu tư…và trong đó có Luật Doanh nghiệp. Điều này thể
hiện quyết tâm hội nhập và hợp tác phát triển của Việt Nam, bởi các văn bản

6



này đã thể hiện tinh thần đón nhận, khuyến khích đầu tư đối với các chủ thể
[30 tr32].
LDN 1999 ra đời đã tạo ra khung pháp lý cơ bản cho hoạt động của các
doanh nghiệp, mang lại những khởi sắc cho kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế liên
tục phát triển với chỉ số cao, cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến tích cực, tỉ
trọng công nghiệp dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế… Bên cạnh những kết quả
đạt được đó, LDN 1999 cũng đã bộc lộ những hạn chế, chưa phù hợp với thực
tiễn. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập WTO, Việt Nam cần
xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng, cởi mở hơn nữa. LDN 2005 ra
đời với những đổi mới mọi mặt: mở rộng đối tượng được thành lập doanh
nghiệp, rút ngắn thời gian, thủ tục thành lập, quy định chi tiết về vấn đề huy
động vốn, thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh…
Như vậy, LDN 2005 của Lào và Việt Nam ra đời đều xuất phát từ nhu
cầu điều chỉnh nền kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà LDN của hai nước ra
đời cùng một năm (2005), trong khi LDN đầu tiên của Lào ra đời trước đó
không lâu (2001), còn LDN Việt Nam ban hành năm 1999. Trước nhu cầu nội
tại của quốc gia và xu hướng hội nhập của thế giới thì việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật là đương nhiên.
Có thể nói, ở thời điểm này sau hai lăm năm đổi mới đất nước, nền kinh
tế của cả Lào và Việt Nam đã có nhiều bước khởi sắc, tuy nhiên so với tiềm
năng sẵn có và yêu cầu chung thì cả hai nước cần phải có những bước bứt phá
hơn nữa. Mặc dù so với Lào, nền kinh tế Việt Nam có những bước đi nhanh
chóng, những thành tựu nổi trội hơn, kinh tế Việt Nam phát triển hơn Lào một
bậc nhưng cả hai nước vẫn bị coi là những nước nghèo. Vì vậy, xây dựng,
hoàn thiện pháp luật là giải pháp quan trọng thúc đẩy kinh tế hai nước đi lên,
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
1.2. Mục đích, vị trí và vai trò của Luật doanh nghiệp
1.2.1. Mục đích:


7


Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 LDN Lào, mục đích của LDN là
điều chỉnh các vấn đề thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có cả doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, nhằm tạo điều kiện cho các chủ
thể kinh doanh có được môi trường pháp lý tốt nhất, bên cạnh đó vẫn nằm
trong sự quản lý của nhà nước.
Tương tự như LDN 2005 Lào, qua quy định tại Điều 1 và 2 LDN 2005
Việt Nam và thông qua nội dung Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng, ta có
thể thấy rằng việc ra đời LDN 2005 Việt Nam là nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt
động và quản lý các loại hình doanh nghiệp, thống nhất điều chỉnh các loại
hình doanh nghiệp, không phân biệt chủ đầu tư, nguồn vốn… LDN tạo ra một
“sân chơi” chung, bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.
Tóm lại, LDN 2005 của Lào và Việt Nam đều có chung mục đích là
nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu hoạt động và quản lý kinh doanh của các
doanh nghiệp - chủ thể quan trọng của nền kinh tế; tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp sớm ra nhập thị trường, có môi trường hoạt động lành mạnh,
năng động. Tuy nhiên, LDN Việt Nam còn có mục đích cao hơn, đó là tạo
khung pháp lý thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp, thay thế cho các đạo
luật về tổ chức hoạt động các loại doanh nghiệp như LDN 1999, Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam và sau 4 năm thay thế cả Luật Doanh nghiệp nhà
nước 2003. LDN Lào không có mục đích thống nhất điều chỉnh doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Vị trí:
Pháp luật doanh nghiệp là hệ thống các quy phạm pháp luật được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh vấn đề thành lập, tổ chức, hoạt
động của doanh nghiệp. Có thể khẳng định rằng LDN Lào giữ vị trí trung tâm
của pháp luật doanh nghiệp. Bên cạnh đó, còn có một số văn bản được ban hành

để hướng dẫn thi hành LDN như:

8


+ Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 68/TTCP ngày 28/4/2008 về công
nhận danh sách các lĩnh vực kinh doanh cần quản lý;
+ Lệnh của Thủ tướng Chính phủ số 37/TTCP ngày 24/10/2006 về tổ chức
thực hiện pháp luật doanh nghiệp;
+ Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp số
1577/BCNTM ngày 6/11/2006 về tổ chức thực hiện Lệnh của Thủ tướng Chính
phủ trong việc tổ chức thực hiện Luật doanh nghiệp 2005;
Ngoài ra, còn một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp như: Luật Đầu tư 2005, Luật hợp tác
xã 2004, Luật kinh doanh bất động sản 2007, Luật kinh doanh bảo hiểm
2002… Nếu các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực chuyên ngành thì
bên cạnh việc tuân theo những quy định trong LDN Lào còn phải tuân theo
các văn bản pháp luật chuyên ngành này.
LDN Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí chủ đạo trong hệ
thống pháp luật về doanh nghiệp. Để áp dụng hiệu quả và thống nhất LDN
trong phạm vi cả nước, Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
LDN. Đó là Nghị định 102/2010/NĐ-CP 2010 về hướng dẫn thi hành LDN
2005 (thay thế cho nghị định NĐ 139/2007/NĐ-CP), Nghị định 43/2010/NĐCP 2010 về đăng ký doanh nghiệp (thay thế cho Nghị định NĐ 88/2006/NĐCP)…
Bên cạnh đó, còn có những văn bản luật khác cũng điều chỉnh hoạt
động doanh nghiệp như: Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật phá sản
2004, Luật Đầu tư 2005, Luật cạnh tranh 2005, Luật chứng khoán 2007, Luật
hợp tác xã, Luật kinh doanh bảo hiểm…
So với pháp luật Lào, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam đầy đủ và điều
chỉnh nhiều lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp hơn. Cụ thể như: Lào không
có Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán, trong khi thực tế một số hoạt động của

doanh nghiệp cần sự điều chỉnh của các văn bản luật chuyên ngành này. Mặc
dù Lào đã có một số văn bản điều chỉnh vấn đề này như Nghị định 35/NĐ-CP

9


2008 về hoạt động cạnh tranh trong doanh nghiệp, Nghị định 47/NĐ-CP về
huy động vốn bằng phát hành chứng khoán… nhưng đây chỉ là những văn bản
dưới luật mà thôi.
Như vậy, LDN của Lào và Việt Nam đều có vị trí trung tâm trong hệ
thống các văn bản pháp luật về doanh nghiệp.
1.2.3. Vai trò:
+ Đối với các nhà kinh doanh: LDN 2005 Lào ra đời tạo ra cơ sở pháp
lý cho việc ra đời, tổ chức quản lý các loại hình doanh nghiệp và giúp cho các
nhà đầu tư có thể tìm hiểu và lựa chọn một loại hình phù hợp với nhu cầu kinh
doanh của bản thân: Đó là loại hình công ty đối nhân hay đối vốn, một chủ
hay nhiều thành viên, chịu trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn… Bên cạnh đó,
LDN 2005 còn giúp nhà kinh doanh hiểu được các hoạt động cơ bản từ khi
thành lập doanh nghiệp cho đến khi chấm dứt sự hoạt động của nó. Những
quy định này giúp chủ thể kinh doanh hoạt động và thực hiện đúng quy định
của pháp luật. Ví dụ như khi thành lập doanh nghiệp, chủ thể không rơi vào
quy định cấm thành lập tại Khoản 2 Điều 13, phải kinh doanh các ngành nghề
mà pháp luật không cấm, hiểu được loại hình doanh nghiệp nào được chia,
tách…[15 tr22].
Với cách quy định khá rõ ràng, mọi chủ thể kinh doanh có thể tìm hiểu
LDN và nắm bắt được các quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình. Các quyền đó
bao gồm tự do lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, được tự
do sử dụng vốn, tài sản doanh nghiệp, chủ động tìm kiếm thị trường khách
hàng… Không chỉ hiểu được các quyền mà pháp luật dành cho họ, các nhà
kinh doanh còn nắm được các nghĩa vụ như: hoạt động đúng ngành nghề đã

đăng ký, nộp thuế đầy đủ… Bên cạnh đó, nhà đầu tư còn biết được các chính
sách ưu đãi, bảo hộ của nhà nước về thuế, về thông tin… Đặc biệt là việc nhà
nước tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác
nhau, không phân biệt tư nhân hay nhà nước được ra đời và hoạt động bình
đẳng trước pháp luật.

10


+ Đối với xã hội: LDN 2005 Lào góp phần làm lành mạnh hoá các hoạt
động kinh doanh. Doanh nghiệp được coi là chủ thể quan trọng của nền kinh
tế, vì vậy LDN đã thúc đẩy việc ra đời nhiều doanh nghiệp, tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động, đồng nghĩa với việc thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, người ta quan niệm “thương trường là chiến trường”, vì vậy,
nếu “thương trường” ấy không được duy trì, quản lý bằng hệ thống pháp luật
thống nhất, linh hoạt thì thương trường ấy sẽ bị rối loạn, có nguy cơ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế còn hơn cả hậu quả của chiến trường. Do
đó, LDN 2005 là một trong các công cụ để nhà nước quản lý các mối quan hệ
xã hội, ổn định đất nước.
LDN 2005 của Việt Nam ra đời cũng nhằm phát huy những vai trò này.
Đó là cuốn cẩm nang giúp cho các nhà kinh doanh có hướng đi hợp lý, phù
hợp với khuôn khổ pháp luật, giúp họ an tâm với các chính sách khuyến khích
của nhà nước. Mặt khác, đây là công cụ quan trọng để đưa nền kinh tế Việt
Nam phát triển theo đúng chủ trương của Đảng đề ra “kinh tế thị trường có
định hướng XHCN”. Như vậy, LDN 2005 của Lào và Việt Nam đều có vai trò
tương tự như nhau đối với các nhà kinh doanh và xã hội nói chung.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy vị trí, vai trò của LDN Lào và Việt
Nam khá giống nhau. Điều này xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội
của hai nước có những nét tương đồng nhau.

1.3. Những nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp 2005 Lào và Việt
Nam
1.3.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Theo Điều 1 LDN 2005 Lào, “Luật này quy định về việc thành lập, tổ
chức, quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (sau
đây gọi chung là doanh nghiệp); quy định về doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp liên doanh”.

11


Trong khi đó, tại Điều 1 LDN 2005 Việt Nam quy định: “Luật này quy
định về việc thành lập tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp); quy định về
nhóm công ty”.
Như vậy, cả LDN của Lào và Việt Nam đều quy định về việc thành lập
tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Đây đều là các loại hình
doanh nghiệp phổ biến được thế giới thừa nhận, trong đó có cả Lào và Việt
Nam. Có thể nói việc quy định các loại hình doanh nghiệp trong LDN như vậy
là hợp lý phù hợp với nhu cầu thực tế và điều kiện kinh tế của hai nước.
Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của LDN Lào và Việt Nam cũng có một
số điểm khác biệt. Cụ thể, nếu như pháp luật Việt Nam quy định về doanh
nghiệp nhà nước ở văn bản khác, không phải LDN (Luật doanh nghiệp nhà
nước 2003) thì pháp luật Lào lại quy định vấn đề doanh nghiệp nhà nước ngay
trong LDN. Như vậy, LDN Lào còn điều chỉnh cả doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, nếu như Việt Nam coi doanh nghiệp liên doanh cũng chỉ là một
doanh nghiệp hoạt động theo loại hình được quy định trong LDN, không có sự

phân biệt khung pháp lý điều chỉnh; thì ở Lào doanh nghiệp liên doanh là
doanh nghiệp có sự góp vốn của Nhà nước và tư nhân. Còn doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài lại được coi là một loại hình doanh nghiệp độc lập, tồn
tại song song với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty Cổ phần, công
ty TNHH… và có luật điều chỉnh riêng. Như vậy, cách tư duy của Lào vẫn
giống như cách hiểu về doanh nghiệp liên doanh của Việt Nam trước khi ban
hành Luật Đầu tư 2005 và LDN 2005. Tuy nhiên, LDN 2005 Lào lại không
nhắc đến nhóm công ty; trong khi đó, LDN Việt Nam lại điều chỉnh thêm vấn
đề nhóm công ty. Mặc dù cùng ra đời 2005 nhưng LDN hai nước lại quy định
theo những hướng khác nhau. Điều này xuất phát từ hoàn cảnh phát triển kinh
tế xã hội của hai nước. Nền kinh tế Lào đang trên đà phát triển, các doanh

12


nghiệp của Lào xuất hiện muộn hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam, sự tồn
tại của các doanh nghiệp nhà nước ở Lào cũng không phổ biến, không được đề
cao và có vai trò quan trọng như ở Việt Nam. Mặc dù được coi là trụ cột kinh
tế nhưng doanh nghiệp nhà nước ở Lào vẫn được điều chỉnh theo LDN chứ
không có một luật riêng [2 tr45].
Tại Điều 2 LDN Lào quy định về đối tượng áp dụng như sau:
“1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế;
2. Tổ chức cá nhân có liên quan đến việc thành lập tổ chức quản lý và hoạt
động của các doanh nghiệp”.
Điều 2 của LDN Việt Nam cũng quy định tương tự như trên. Điều này
chứng tỏ sự tương đồng trong quy định về đối tượng áp dụng trong LDN của
hai nước. Như vậy, LDN hai nước đều áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau. Đây là một quy định linh hoạt trong luật;
nhờ đó tạo ra sự áp dụng thống nhất trong việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các chủ thể.

Đối tượng điều chỉnh không chỉ bao gồm các doanh nghiệp mà gồm cả tổ
chức, cá nhân liên quan đến việc thành lập, quản lý hoạt động của các doanh
nghiệp.
1.3.2. Các nguyên tắc của Luật Doanh nghiệp
Nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng chung mang tính chỉ đạo.
Nguyên tắc trong LDN chính là những tư tưởng chỉ đạo chung xuyên suốt các
quy định của LDN. Các nguyên tắc này đều được quy định cụ thể tại Điều 5
LDN Lào và Việt Nam.
1.3.2.1. Nguyên tắc tự do thành lập doanh nghiệp trên cơ sở quy định của
pháp luật
Doanh nghiệp là chủ thể đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền
kinh tế. Vì vậy mà nhà nước Lào luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho sự ra
đời của các doanh nghiệp. Quy định tại Điều 5 LDN là bước phát triển, cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp. Tại Điều 45 Hiến pháp 2003 Lào đã khẳng định

13


tổ chức, cá nhân có quyền tự do kinh doanh, thành lập các loại hình doanh
nghiệp. Doanh nghiệp được kinh doanh trong mọi ngành nghề, được tổ chức
hoạt động theo mọi hình thức. Tuy nhiên, quyền tự do này của các chủ thể
được giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Điều đó có nghĩa là các chủ thể
không được thành lập doanh nghiệp một cách tùy thích mà phải dựa trên
những quy định của pháp luật. Ví dụ, điểm d khoản 1 Điều 13 LDN Lào, điểm
đ khoản 2 Điều 13 LDN Việt Nam quy định những người mất năng lực hành
vi dân sự không được thành lập doanh nghiệp… Nếu như trước kia, pháp luật
Lào và Việt Nam đều quy định theo hướng các chủ thể được tự do làm những
gì pháp luật cho phép, thì hiện nay cả hai nước đều quy định các chủ thể được
tự do làm những gì mà pháp luật không cấm. Pháp luật doanh nghiệp hiện nay
cũng tiếp cận theo hướng này. Cách quy định mới này đã mở rộng, đảm bảo

hơn quyền lợi cho các chủ thể. Bởi thực tế việc liệt kê phạm vi được làm của
các chủ thể sẽ khó hơn so với liệt kê các hành vi bị cấm. Mặt khác, nhu cầu
kinh doanh của các chủ thể ngày càng cao, yêu cầu ngày càng lớn, vì vậy, nếu
tiếp cận theo hướng này sẽ đảm bảo tính định hướng, lâu dài của pháp luật,
hạn chế tình trạng luật đi sau thực tiễn [2 tr34].
1.3.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong hoạt động kinh doanh
Bình đẳng được hiểu là được Nhà nước đối xử ngang nhau về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các chủ thể. Thực tế tồn tại rất nhiều loại hình doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau với hình thức sở hữu khác nhau, ví dụ
như doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân,
doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể… Các doanh nghiệp thuộc các loại hình
khác nhau vẫn tuân theo những quy định chung mà pháp luật đặt ra đối với
mọi doanh nghiệp, đều bình đẳng như nhau trước pháp luật. Về nguyên tắc,
Nhà nước không có sự phân biệt đối xử doanh nghiệp giữa các loại hình hay
các thành phần khác nhau, mà tạo ra một môi trường bình đẳng để mọi doanh
nghiệp có thể phát triển được thế mạnh của mình.

14


1.3.2.3. Nguyên tắc Nhà nước bảo hộ, tạo điều kiện cho việc ra đời, hoạt động
của các doanh nghiệp
Như đã phân tích, doanh nghiệp là con đẻ của nền kinh tế, và cũng là
cơ sở để nền kinh tế phát triển, vì vậy, muốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển
cần tạo điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp ra đời và hoạt động. Bất
kỳ nhà nước nào cũng ý thức được vấn đề này. Việc xây dựng khung pháp lý
vững chắc chính là biểu hiện cụ thể cho sự quan tâm của quốc gia đó với
doanh nghiệp. Tuy nhiên, mỗi nước có một cách thể hiện khác nhau. Nếu như
tại khoản 1 Điều 5 LDN, Việt Nam “công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển
của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật này” thì khoản 2

Điều 5 LDN Lào “công nhận, khuyến khích sự tồn tại và phát triển của các
loại hình doanh nghiệp”. Như vậy, cả hai quốc gia đều công nhận sự tồn tại,
phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù nền kinh tế
Lào còn chậm phát triển, các doanh nghiệp chưa phát triển cả về quy mô lẫn
số lượng mà nhà nước Lào đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp. Với mục tiêu khuyến khích sự ra đời của doanh nghiệp, kích thích sự
đi lên của nền kinh tế, LDN Lào còn bổ sung nguyên tắc hỗ trợ doanh nghiệp
(khoản 3 Điều 5 LDN), bảo hộ sự tồn tại của doanh nghiệp (khoản 4 Điều 5
LDN). Cụ thể, nếu các chủ thể có ý định thành lập doanh nghiệp thì có thể đến
Sở Kế hoạch Đầu tư để được tư vấn miễn phí, giải quyết các vướng mắc; hoạt
động nộp thuế là nghĩa vụ bắt buộc của mọi doanh nghiệp, tuy nhiên với
những doanh nghiệp mới ra đời chỉ bắt đầu nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
khi kinh doanh có lãi hai năm. Có thể nói đây là biện pháp khuyến khích khá
hấp dẫn đối với doanh nghiệp. Nhờ đó, doanh nghiệp được bảo đảm rằng Nhà
nước sẽ luôn tạo điều kiện cho họ tồn tại và phát triển, tạo niềm tin cho mọi
nhà đầu tư. Sự bảo hộ của Nhà nước được mở rộng, bao gồm bảo đảm về sở
hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, các thu nhập hợp pháp, quyền lợi khi thay
đổi chính sách pháp luật, và cam kết không bị quốc hữu hóa bởi các biện pháp
hành chính… Sự bảo hộ này không đồng nhất với việc Nhà nước bao cấp cho

15


doanh nghiệp, mà chỉ là việc tạo ra điều kiện thuận lợi, các quyền mà doanh
nghiệp đáng được hưởng mà thôi [2 tr12].
1.3.3. Điều kiện thành lập doanh nghiệp
Chương II LDN Lào và chương II LDN Việt Nam đều quy định về chủ
thể được thành lập, góp vốn, mua cổ phần quản lý doanh nghiệp; các trường
hợp chủ thể không được phép thành lập, các giấy tờ hồ sơ cần thiết cho việc ra
đời của từng loại hình doanh nghiệp, trình tự đăng ký kinh doanh, nội dung

giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, nội dung điều lệ công ty…
1.3.4. Các loại hình công ty
LDN 2005 của Lào và Việt Nam đều quy định về công ty TNHH, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân; trình tự quy định các loại
hình doanh nghiệp này trong LDN cũng tương tự nhau. Cụ thể:
- Chương III quy định về công ty TNHH, trong đó nêu đặc điểm, cơ cấu
tổ chức, chế độ tài chính, quyền, nghĩa vụ thành viên của cả hai loại công ty
TNHH một thành viên và hai thành viên.
- Chương IV quy định về công ty cổ phần, khái niệm cổ đông, các loại cổ
đông, nêu lên đặc điểm, chế độ quản lý nội bộ công ty, chế độ tài chính, quyền
và nghĩa vụ các thành viên trong công ty
- Chương V quy định về công ty Hợp danh, các đặc điểm, chế độ quản lý
nội bộ công ty, các loại thành viên công ty, hạn chế quyền đối với thành
viên…, các loại công ty hợp danh (hợp danh thường và hợp danh hữu hạn).
- Chương VI quy định về doanh nghiệp tư nhân, đặc điểm doanh nghiệp,
vấn đề vốn, hoạt động quản lý doanh nghiệp…
Tuy nhiên, từ chương VII trở đi, việc quy định trong LDN Lào và Việt
Nam có sự khác biệt rõ ràng. Sở dĩ có sự khác nhau này là do hoàn cảnh kinh
tế xã hội của mỗi nước có những đặc thù riêng dẫn tới cách tư duy lập pháp
cũng khác nhau. Cụ thể:
- Chương VII LDN Lào lại quy định về Doanh nghiệp Nhà nước, khái
niệm đặc điểm, cách thức tổ chức quản lý, chế độ tài chính… Còn chương VII

16


LDN Việt Nam lại quy định về nhóm công ty, khái niệm, đặc điểm, quyền và
nghĩa vụ của các công ty trong nhóm công ty. Tuy nhiên, LDN Việt Nam
không xem đây là một loại hình doanh nghiệp mà đưa ra các quy định nhằm
cụ thể hóa và làm rõ hơn mối quan hệ công ty mẹ - con trong nhóm công ty.

Vấn đề doanh nghiệp nhà nước lại không quy định trong LDN Việt Nam mà
được quy định riêng tại LDN nhà nước 2003.
- Chương VIII LDN Lào quy định về doanh nghiệp liên doanh, khái
niệm, đặc điểm, cơ cấu tổ chức, cách thức tổ chức và hoạt động… Lào coi
doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp mà 1 bên là Nhà nước, bên kia có
thể là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài, trong đó mỗi bên nắm giữ
50% vốn điều lệ. Loại hình doanh nghiệp này Việt Nam gọi là doanh nghiệp
nhà nước hoạt động theo LDN.
1.3.5. Tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp
Vấn đề này được quy định tại Chương IX LDN Lào, chương VIII LDN
Việt Nam. Trong đó, LDN hai nước đều nêu lên các trường hợp tổ chức lại,
giải thể, phá sản doanh nghiệp mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, vấn đề phá
sản chỉ được nhắc sơ qua, bởi vấn đề này được quy định riêng tại Luật phá sản
1994 của Lào, Luật phá sản năm 2004 của Việt Nam [7 tr33, 25 tr14].
1.3.6. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
Nếu như Chương X LDN Lào quy định về việc quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp, bao gồm các nội dung như cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan ĐKKD, việc xử lý các vi phạm…thì vấn đề này cũng được đề cập
trong chương IX LDN Việt Nam.
Nhìn chung, cấu trúc LDN Việt Nam cũng quy định tương tự như LDN
Lào. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt cần đề cập đến như: Thứ nhất, quy
định về số chương khác nhau (LDN Lào gồm XI chương, trong khi đó LDN
Việt Nam chỉ gồm X chương). Thứ hai, về loại hình doanh nghiệp, LDN Lào
quy định còn quy định cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh
(tức là công ty NN và DNNN theo cách hiểu của Việt Nam); trong khi đó,

17


Việt Nam không đưa các vấn đề Công ty NN vào LDN mà quy định riêng ở

văn bản khác. Hơn thế nữa, LDN Lào không quy định về nhóm công ty nhưng
LDN Việt Nam lại quy định về nhóm công ty tại chương VII. Các vấn đề trên
đây sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau, vì vậy ở phần này tác giả chỉ giới
thiệu sơ qua.

18


CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP LÀO
VÀ VIỆT NAM 2005 DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
2.1. Các loại hình doanh nghiệp
Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều loại hình doanh nghiệp, bao gồm
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh; công ty TNHH và công ty cổ phần.
Nhìn chung các doanh nghiệp này đều là “các tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” (Điều 3 LDN
Lào, Điều 4 LDN Việt Nam). Ngoài các đặc điểm trên, các doanh nghiệp này
còn có những đặc điểm riêng giúp ta phân biệt các loại hình doanh nghiệp này
với nhau.
2.1.1. Doanh nghiệp tư nhân
Theo Điều 152 LDN Lào thì “doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp
do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về mọi hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không được phát
hành chứng khoán; mỗi cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư
nhân”.
Điều 141 LDN Việt Nam cũng quy định tương tự như trên. Qua quy
định trong pháp luật doanh nghiệp hai nước, ta có thể thấy cách nhìn nhận
doanh nghiệp tư nhân của hai nước là giống nhau và đều có các điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm

chủ. Đây có thể nói là đặc điểm nổi bật để phân biệt doanh nghiệp tư nhân với
các loại hình khác như công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty TNHH hai
thành viên. Doanh nghiệp tư nhân được xếp với các loại hình công ty nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành nhóm các doanh
nghiệp một chủ sở hữu. Biểu hiện cụ thể đó là: Chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ
toàn bộ số vốn ra thành lập doanh nghiệp, tự quyết định việc quản lý doanh
nghiệp, thu toàn bộ lợi nhuận có được nếu có. Nguồn vốn để doanh nghiệp

19


thành lập, hoạt động đó là của một mình chủ doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp
là người chủ sở hữu duy nhất và là người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, vì thế được toàn quyền quyết định mọi vấn đề của doanh nghiệp. Đây
chính là ưu điểm lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân so với các hình thức khác.
Bởi khi lựa chọn hình thức doanh nghiệp này chủ doanh nghiệp sẽ không phải
chia sẻ quyền lực với bất kỳ chủ thể nào khác. Chủ doanh nghiệp có toàn
quyền định đoạt tài sản cũng như quyết định việc tổ chức quản lý doanh
nghiệp, có thể tự mình quản lý doanh nghiệp hoặc thuê người khác quản lý.
Doanh nghiệp là của một mình chủ sở hữu vì vậy toàn bộ lợi nhuận thu được
sẽ thuộc về một mình chủ sở hữu doanh nghiệp. Đây cũng là lý do khiến
không ít nhà đầu tư muốn lựa chọn hình thức này khi bắt tay vào đầu tư. Tuy
nhiên, mặt trái của những ưu điểm này lại chính là những nhược điểm làm cho
nhiều người thấy lo ngại. Đó là việc chỉ có duy nhất cá nhân hưởng lợi nhuận
thì cũng đồng nghĩa với việc duy nhất cá nhân gánh chịu những rủi ro xảy ra
đối với doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước
những khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động. Nếu xảy ra thua lỗ thì
chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, kể cả
những tài sản không đưa vào kinh doanh, chứ không như các loại hình doanh

nghiệp khác khi nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn đã
đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Đây là hạn chế lớn nhất khiến mỗi
nhà đầu tư khi có ý định lựa chọn loại hình doanh nghiệp này đều phải xem
xét đến.
Thứ ba, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Dựa theo
quy định của Điều 79 BLDS 2005 Lào thì chủ thể có tư cách pháp nhân khi
chủ thể đó có tài sản riêng rõ ràng và chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó.
Doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn được điều này. Việc không có tư cách
pháp nhân là điểm đặc trưng của doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, LDN 2005

20


của Lào và Việt Nam đều không thừa nhận tư cách pháp nhân cho doanh
nghiệp tư nhân [2 tr45].
2.1.2. Công ty hợp danh
Theo quan điểm của các nhà luật học thì công ty hợp danh là một loại
công ty kinh doanh, thuộc loại hình công ty đối nhân, trong đó các thành viên
đều liên đới chịu trách nhiệm. Theo quan điểm truyền thống này, trong công ty
chỉ tồn tại thành viên hợp danh, trong khi đó tại Điều 142 LDN Lào quy định:
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Nếu như LDN 2001 Lào,
LDN 1999 của Việt Nam và pháp luật nhiều quốc gia đều không thừa nhận tư
cách pháp nhân của doanh nghiệp hợp danh; thì LDN 2005 cả hai nước đã trao
cho công ty hợp danh tư cách pháp nhân, mang lại những thuận lợi cho quá
trình tham gia thị trường của công ty;
- Có hai loại công ty hợp danh: công ty hợp danh thường và hợp danh
hữu hạn;
- Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công
ty, ngoài ra còn có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ

tài sản của mình đối với các nghĩa vụ của công ty; Thành viên góp vốn chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp đã
cam kết;
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật Lào thì công ty hợp danh
gồm hai loại: hợp danh thường và hợp danh hữu hạn.
Công ty hợp danh thường chỉ bao gồm các thành viên hợp danh và ít
nhất là tồn tại hai thành viên. Các thành viên này chịu trách nhiệm vô hạn với
các rủi ro của công ty. Nếu tài sản của công ty không đủ trang trải cho số nợ
của công ty thì các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm thanh toán hết
số nợ còn lại của công ty, trách nhiệm này là vô hạn và liên đới, tức là chủ nợ
có thể đòi nợ bất cứ thành viên nào có đủ khả năng. Đặc điểm trách nhiệm vô
hạn này giống như doanh nghiệp tư nhân, điều này góp phần tạo ra sự an tâm

21


×