Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về hình thức đầu tư việt nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.51 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SENGPHET BULOM

PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ VIỆT NAM TRONG SỰ SO
SÁNH VỚI PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ CỦA CHDCND LÀO

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Những vấn đề chung về pháp luật đầu tư Việt Nam và

4


pháp luật đầu tư Lào
1.1. Khái quát về pháp luật đầu tư của Việt Nam

4

1.2. Khái quát về pháp luật đầu tư của CHDCND Lào

25

Chương 2: Những nội dung cơ bản trong pháp luật đầu tư Việt Nam

30

và pháp luật đầu tư Lào nhìn từ góc độ so sánh
2.1. Quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng Luật Đầu tư

30

2.2. Quy định về nhà đầu tư

33

2.3. Quy định về hình thức đầu tư

35

2.4. Quy định về thủ tục đầu tư

40


2.5. Quy định về địa bàn lĩnh vực đầu tư

46

2.6. Quy định về bảo đảm đầu tư

49

2.7. Quy định về ưu đãi đầu tư

52

2.8. Các quy định khác (Về khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế,

55

BOT, BTO…)
Chương 3: Kinh nghiệm đạt được và một số yêu cầu đặt ra đối với

61

việc hoàn thiện pháp luật đầu tư của CHDCND Lào
3.1. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật đầu tư của Việt Nam

61

3.2. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật đầu tư của

65


Lào trong thời gian tới
KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

Asean

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

GDP


Tổng sản phẩm quốc nội

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do Asean

TW

Trung ương

KTXH

Kinh tế xã hội

KHKT

Khoa học kỹ thuật

FIMC

Ủy ban quản lý nước ngoài

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

ND

Nhân dân


EU

Châu Âu

CCI

Ủy ban điều phối đầu tư Asean

BTO

Xây dựng, chuyển giao và hoạt động

BOT

Xây dựng, hoạt động và chuyển giao

BT

Xây dựng và chuyển giao

FTA

Hiệp định thương mại tự do

USD

Đơn vị đô la Mỹ


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra
ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các
quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to
lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nước CHDCND Lào đang trên đà
phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Tuy
nhiên,, một trong những thách thức không nhỏ đối với Lào đó là có xuất phát
điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Lào là một trong 20 nước kém
phát triển trên thế giới, người dân phần lớn cuộc sống gắn bó với nghề nông
nghiệp. Công nghiệp kém phát triển kéo theo trình độ khoa học kỹ thuật, trình
độ phát triển năng lực thấp, nguồn lực con người có trình độ còn thiếu và yếu
... Để khắc phục những khó khăn hiện tại, thay đổi bộ mặt cuộc sống,
CHDCND Lào cần hết sức nỗ lực tìm những hướng đi phù hợp với tình hình
kinh tế của mình.
Vì vậy, trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào chú
trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam - Quốc gia
có mối quan hệ lịch sử gắn bó tốt đẹp, nước láng giềng có sự tương đồng về
nhiều mặt như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá... Trong lĩnh vực xây dựng
pháp luật, quá trình hoàn thiện pháp luật của Việt Nam luôn là những kinh
nghiệm quý đối với CHDCND Lào.
Việt Nam đang thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại
với nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là
thành viên mới nhất (thứ 150) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật liên
quan đến hoạt động đầu tư và kinh doanh nói riêng đã không ngừng được
hoàn thiện trên lộ trình cải cách, điều chỉnh kịp thời cơ chế, chính sách,



2

luật lệ của nước mình cho phù hợp “luật chơi” quốc tế, chú trọng việc cải
thiện môi trường đầu tư... nhằm thu hút vốn đầu tư, công nghệ và khoa học
kỹ thuật. Vì vậy, việc tìm hiểu pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
đầu tư nói riêng là việc làm hết sức ý nghĩa đối với những sinh viên
chuyên ngành luật kinh tế, hơn nữa còn góp phần xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật đầu tư của Lào qua cái nhìn so sánh, qua
những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ chặng đường phát triển pháp
luật đầu tư ở Việt Nam.
Với cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp
luật về đầu tư Việt Nam trong sự so sánh với Pháp luật đầu tư của CHDCND
Lào”.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việt Nam và Lào là những quốc gia từ trước đến nay có quan hệ rất
khăng khít trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh lịch sử tương tự nhau, việc
hoạch định chính sách, thể chế hoá đường lối của Đảng đi vào cuộc sống
của một trong hai nước đi trước sẽ là điều kiện thuận lợi để nước kia có
nhiều cơ hội tìm hiểu, học hỏi và rút ra được những bài học kinh nghiệm.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu quá trình phát triển pháp luật
đầu tư ở Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào. Đặc biệt
luận văn chú trọng tìm ra phương hướng và bài học kinh nghiệm trong thời
gian tới để hoàn thiện và hệ thống hoá pháp luật đầu tư ở Lào, tạo môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án đầu tư trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này chủ yếu tập trung vào phân
tích quá trình ra đời, nội dung chủ yếu các đạo Luật Đầu tư nước ngoài,
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và các văn bản pháp luật liên quan
đến hoạt động đầu tư của Việt Nam và Lào được ban hành trong thời gian

qua. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn là rất rộng lớn, việc dịch các


3

văn bản pháp luật của Lào sang tiếng Việt gặp không ít khó khăn về ngôn
từ chuyên ngành, cho nên tác giả không tránh khỏi những thiếu sót trong
khi phân tích, so sánh rất mong sự động viên và thông cảm của thầy cô và
bạn bè. Những ý kiến đóng góp chân thành, những góp ý sửa chữa sẽ là
động lực rất lớn để tác giả của luận văn tiếp tục hoàn thiện và phát triển
vấn đề này trong những lần nghiên cứu ở cấp độ cao hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về
Nhà nước và pháp luật, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch
sử, phương pháp hệ thống... Trong đó phương pháp chủ yếu là so sánh,
phân tích tổng hợp.
4. Những đóng góp mới và bố cục của luận văn
Luận văn phân tích thực trạng hệ thống pháp luật đầu tư ở Việt Nam
và Lào. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đầu tư ở
Lào.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn được thực hiện với quy trình, kết cấu, khối lượng phù hợp
với các quy định chung của Nhà nước, ngoài phần mở đầu và phần kết
luận bố cục chính của luận văn bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề chung về Luật Đầu tư Việt Nam và pháp
luật đầu tư Lào;
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong pháp luật đầu tư Việt Nam

và pháp luật đầu tư Lào - Nhìn từ góc độ so sánh;
Chương 3: Một số kinh nghiệm đạt được và những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật đầu tư của CHDCND Lào.


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VIỆT NAM
VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ LÀO
1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM

1.1.1. Pháp luật đầu tư Việt Nam trước khi ban hành Luật Đầu
tư (2005)
Từ năm 1945, sau khi giành được chính quyền, Đảng cộng sản Việt
Nam chủ trương “kháng chiến kiến quốc”, bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập
hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ. Nhà nước Việt
Nam đã hiện thực hoá bằng việc tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư
của các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên,,
pháp luật về đầu tư thời kỳ chưa có văn bản pháp luật do cơ quan quyền
lực Nhà nước ban hành quy định về đầu tư.
Trong thời kỳ Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng
nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với hai thành
phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, pháp luật về
đầu tư không thực sự là phương tiện quan trọng nhất trong điều kiện kinh
tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Về mặt pháp lý, hoạt động đầu
tư của khu vực kinh tế tư nhân không được thừa nhận trong giai đoạn này.
Hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan
tâm xây dựng trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm

1986 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế, với quy định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN. Với quan điểm huy động tối đa
nguồn lực để phát triển kinh tế, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã từng
bước được xây dựng và hoàn thiện theo hướng ngày tạo hành lang pháp lý
an toàn, thông thoáng cho các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh.


5

Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng VI năm 1986 về chuyển đổi hoạt
động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Nhà nước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định
về vấn đề đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện
mới như: Nghị định số 50/ HĐBT ban hành điều lệ xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh, Nghị dịnh số 27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí
nghiệp... Với cơ chế thị trường, mà giai đoạn đầu là kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, một yêu cầu có tính nguyên tắc căn bản là phải đảm bảo quyền
tự do và sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, trong đó nhiệm vụ quan
trọng đặt ra là phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể thuộc mọi thành
phần kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định quan điểm quản lý kinh tế
bằng pháp luật, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã ban hành và từng bước xây
dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật mới về đầu tư như: Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1987 (sửa đổi bổ sung và ban hành mới vào các năm 1990,
1992, 1996, 2000), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990
(được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và sau này là Luật Doanh
nghiệp năm 2005); Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 (được thay thế
bởi Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003); Luật Hợp tác xã năm 1996
(đã được thay thế bởi Luật hợp tác xã năm 2003); Luật Khuyến khích đầu tư

trong nước 1994 (đã được thay thế bởi Luật sửa đổi Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước năm 1998); Nghị định số 52/1999 NĐ - CP ngày 08/7/1999
ban hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng... Các văn bản pháp
luật này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật
có liên quan, đã tạo thành một hệ thống pháp luật về đầu tư với phương
pháp, nội dung điều chỉnh mới, quy định các vấn đề pháp lý về đầu tư trong
nền kinh tế thị trường trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tự do, bình
đẳng, cạnh tranh lành mạnh... Điều này đã góp phần không nhỏ vào việc
tăng cường hiệu quả huy động vốn đầu tư trong thời gian qua.


6

Đặc điểm nổi bật của hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam ở
thời kỳ này là có sự phân chia thành hai lĩnh vực: Đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài để điều chỉnh. Cụ thể như sau:
1.1.1.1. Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Cùng với chủ trương huy động tối đa nguồn lực trong nước, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đồng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp tác
kinh tế quốc tế. Trong việc tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, việc
mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan
trọng. Điều lệ đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày
18/4/1977 là văn bản pháp lý đầu tiên được ban hành nhằm khuyến khích
và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Theo
quy định tại điều 1 Điều lệ này, Chính phủ Việt Nam “chấp thuận đầu tư
trực tiếp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng có lợi”.
Điều lệ đầu tư đã tạo ra cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động đầu tư nước
ngoài, làm tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách
sau này. Tuy nhiên, do Điều lệ đầu tư năm 1977 đã thể chế hoá chính sách

quản lý kinh tế bao cấp nên còn thiếu các quy định cụ thể cho việc thi hành
như các quy định về ngân hàng, quản lý ngoại hối, đất đai, lao động, tài
nguyên... Do đó chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ, môi trường pháp lý
đồng bộ, có hiệu quả cao và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài cũng như
cho hoạt động đầu tư nói chung. Với sự hội nhập ngày càng sõu rộng vào
nền kinh tế thế giới, Việt Nam bắt buộc phải thay đổi, phỏt triển hệ thống
phỏp luật, nhất là phỏp luật về đầu tư và thương mại. Ngày 29/12/1987 tại
kỳ họp thứ hai khoá VII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời kỳ
này, đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp quan trọng để mở rộng hợp
tác kinh tế với các nước trên thế giới nhằm “khai thác có hiệu quả tài
nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước” để “đẩy mạnh xuất


7

khẩu”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được soạn thảo
trên nguyên tắc rút kinh nghiệm Điều lệ đầu tư năm 1977 xuất phát từ thực
tiễn của Việt Nam, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên
thế giới. Các quy định của luật đã thể hiện vai trò, vị trí, tác dụng của việc
đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân. Ngay sau khi ra đời, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã có ảnh hưởng mạnh tới việc
xây dựng hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế mới
với nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu
sót trong việc thi hành cũng như bản thân nội dung luật. Cụ thể là với các
đối tác trong nước Luật mới chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, hạn chế về kinh tế tư nhân. Các văn bản dưới luật chưa
được ban hành kịp thời. Mặt khác, Luật ra đời vào thời điểm Việt Nam
chưa có các đạo luật cơ bản về kinh tế, do đó, môi trường pháp lý cho đầu

tư nước ngoài nói chung còn tiềm ẩn của sự thiếu ổn định.
Nhằm khắc phục hạn chế nêu trên ngày 30/6/1990 Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng “khuyến
khích và tạo thêm điều kiện thuận lợi” cho các dự án đầu tư nước ngoài.
Với những sửa đổi lần này, các quy định của luật không chỉ tạo điều kiện
thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn cho các đối
tác trong nước được hưởng những điều kiện tương tự để mở rộng hợp tác
với nước ngoài. Vấn đề về “mọi thành phần kinh tế” trong đó có kinh tế tư
nhân lần đầu tiên được quy định một cách rõ nét: “Các tổ chức kinh tế tư
nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài
trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng bộ trưởng quy định”. Luật cũng
khẳng định chính sách của Nhà nước Việt Nam nhằm đáp ứng lợi ích của
các bên. Nhà nước Việt Nam không những đảm bảo an toàn cho vốn đầu
tư mà còn giảm thuế để bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đấu tư khi tỷ suất


8

của họ thấp hơn so với các xí nghiệp khác trong ngành, khuyến khích các
nhà đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến và đầu tư số vốn lớn vào Việt
Nam, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất hàng thay thế
nhập khẩu.
Đến năm 1992, sau hai năm triển khai thực hiện Luật, nhiều vấn đề
pháp lý đã phát sinh, phần nào làm cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài.
Vì vậy để đạt được mục tiêu kinh tế – xã hội đã đặt ra Việt Nam cần phải
tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Thực hiện chủ
trương nêu trên, ngày 23/12/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm mở rộng cho mọi thành phần kinh tế

đều có thể tham gia hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư. Trong
lần sửa đổi này, vấn đề tư nhân tham gia hoạt động đầu tư với nước ngoài
được nêu một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có tính khả thi hơn. Bên
Việt Nam là “một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế” gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp
được thành lập theo luật Công ty, doanh nghiệp tư nhân được thành lập
theo Luật Doanh nghiệp tư nhân. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 đã bổ sung một số hình
thức đầu tư nước ngoài mới, hình thức khu chế xuất và hợp đồng xây dựng
- kinh doanh - chuyển giao. Đồng thời, Luật cũng khẳng định rằng, trong
trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại
đến lợi ích của các bên tham gia hợp tác đầu tư thì Nhà nước Việt Nam sẽ
“có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”.
Năm 1996, khi Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống pháp luật về
đầu tư nước ngoài đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục. Mặt khác,
cùng với quá trình xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đồng bộ, từ
năm 1994, một số luật mới lần lượt được ban hành, trong đó môi trường đầu


9

tư, kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn và đi cùng với hệ thống này, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng cần được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở
quán triệt đường lối nhất quán, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài, Nhà nước Việt Nam: “bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các
quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi
và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông
qua ngày 12/11/1996 thể hiện chủ trương của Nhà nước đối với việc cải cách

các thủ tục hành chính. Luật lần này được sửa đổi theo hướng giảm bớt một
số ưu đãi. Những sửa đổi này, cùng với những quy định chặt chẽ hơn của một
số luật kinh tế khác đã góp phần làm giảm sút đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đồng thời góp phần tăng
cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư, chặn đà giảm sút
của đầu tư nước ngoài, thực hiện tốt các dự án đã được cấp phép đầu tư và
thu hút thêm đầu tư mới, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia vào tiến trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngày 09/6/2000, Quốc hội đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Trên cơ sở kế thừa, bổ sung, đổi mới và hoàn thiện quy định của các
luật đã ban hành, các nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật đã đem lại cho
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sự ổn định và thông
thoáng hơn so với nhiều quy định trước đây. Các quy định này có tác dụng
khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các đối tác
trong nước tham gia đầu tư. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 được ban hành đã tháo gỡ kịp
thời những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh, mở rộng tự
chủ trong tổ chức quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
bổ sung một số ưu đãi về thuế đối với dự án đầu tư nước ngoài.


10

Qua gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung liên tục (từ
năm 1987 – 2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt
Nam và các bộ, ban. ngành đã ban hành một số lượng các văn bản hướng
dẫn thi hành, tạo thành hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, điều

chỉnh khá toàn diện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. So
với pháp luật nhiều nước khác trong khu vực, pháp luật hiện hành về đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam được coi là khá thông thoáng, cởi mở
và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên,, trước
yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, mà trực tiếp nhất
là thực hiện các thoả thuận trong Hiệp định đầu tư khu vực ASEAN, Hiệp
định thưong mại Việt Nam – Hoa Kỳ, pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế cần phải khắc phục. Sự chưa
hoàn thiện và thiéu đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư nói riêng và của
toàn bộ hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nói chung
là trở ngại lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc tăng
cường hợp tác kinh tế quốc tế tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách
thức. Pháp luật về đầu tư của Việt Nam đứng trước yêu cầu phải vận động
theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với pháp luật đầu tư thế
giới
1.1.1.2. Pháp luật về Khuyến khích đầu tư trong nước
Trước khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời, chính sách về
đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn cần được khuyến khích và ưu
đãi đầu tư tuy đã được quy định trong một số văn bản của Nhà nước, nhưng
chưa đầy đủ, còn phân tán chưa thành hệ thống chặt chẽ, đồng bộ nên chưa
tạo điều kiện để nhân dân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế. Đồng thời, cho đến khi Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước được ban hành, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã ban


11

hành dược hơn 6 năm (từ năm 1987) và đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần (vào
năm 1990 và 1992) có quy định về ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài,
nên trong chừng mực nhất đã tạo ra tình trạng kinh doanh không bình đẳng

giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông qua
ngày 22/6/1994 là văn bản có tính pháp lý đầu tiên điều chỉnh toàn diện
các quan hệ chủ yếu về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam. Văn
bản này ra đời khẳng định về mặt pháp lý ở tầm văn bản có hiệu lực cao, tư
tưỏng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng và Nhà nước Việt Nam
trong phát triển kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng đối
với toàn bộ quá trình phát triển, vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết
định. Việc huy động vốn đầu tư trong nước không chỉ nhằm đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế mà còn làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước
ngoài vào chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khuyến
khích đầu tư trong nước có hiệu quả cũng là gián tiếp thúc đẩy đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời có tác dụng động viên
mọi nguồn vốn tiềm tàng của nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành và
vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tạo thêm việc làm, nâng
cao thu nhập và mức sống của nhân dân.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, Luật cũng đã bộc lộ một số hạn
chế, như môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà,
mức độ khuyến khích và ưu đãi chưa thật hấp đẫn, các nhà đầu tư chưa
thật yên tâm nên chưa mạnh dạn bỏ vốn vào những lĩnh vực, ngành, nghề
và địa bàn, nhất là ở những vùng còn nhiều khó khăn cũng như đối với các
dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất, chế biến nông sản, thực
phẩm... Điều này đã hạn chế việc phát huy nội lực để phát triển kinh tế - xã


12

hội, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá theo tinh thần các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Từ đòi hỏi của thực tiễn, nhằm tiếp tục tạo môi trường pháp lý thuận
lợi, khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp và nhân dân phát huy
nội lực, đẩy mạnh đầu tư có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước; bảo đảm thực hiện bình đẳng, đồng bộ các
chính sách, biện pháp khuyến khích ưu đãi đầu tư trong nước với đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, tạo động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc
huy động các nguồn trong nước, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ và tăng cường hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế, ngày 20/5/1998, Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước (sửa đổi)
Trong lần sửa đổi này, Luật bổ sung cam kết của Nhà nước Việt
Nam đối với tài sản và vốn hợp pháp của nhà đầu tư không bị tịch thu bằng
biện pháp hành chính, quy định lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư được “bảo
lưu” trong trường hợp thay đổi quy định của pháp luật không có lợi cho
nhà đầu tư; sửa đổi, bổ sung quy định về hỗ trợ đất đai cho các nhà đầu tư,
hỗ trợ tín dụng, một số hình thức hỗ trợ khác...; bổ sung hình thức đầu tư
trong nước thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh, bổ sung quy định
chuyển quyền sở hữu trí, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ và dịch vụ
- kỹ thuật là tài sản để góp vốn đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, cải
thiện môi trường sinh thái, di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị, đa dạng
hoá ngành nghề, sản phẩm...
Kể từ khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 (sửa
đổi năm 1998) số lượng dự án đầu tư gia tăng không ngừng, số lượng vốn
tư nhân đưa vào đầu tư và số việc làm mới được tạo ra ngày càng nhiều.
Qua 9 năm thực hiện Luật này, đã có trên 1,5 triệu chỗ làm mới được tạo
ra nhờ các dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Riêng kinh tế



13

dân doanh, đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và hàng nghìn việc làm
gián tiếp khác. Tuy nhiên,, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn
không ít những tồn tại chưa được giải quyết như: hỗ trợ mặt bằng sản xuất
kinh doanh cho doanh nghiệp, về thủ tục hành chính, về phân cấp đầu mối
cơ quan quản lí đầu tư v.v..
1.1.2. Pháp luật đầu tư Việt Nam từ khi ban hành Luật Đầu tư
(2005)
1.1.2.1. Mục đích, yêu cầu sửa đổi pháp luật đầu tư và ban hành
Luật Đầu tư (2005)
Thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng thể chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua, Nhà nước Việt
Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư như: Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước,
Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật
Dầu khí, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Ngân sách Nhà nước... các
đạo luật đã tạo nên một khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các mối quan
hệ liên quan đến hoạt động đầu tư phù hợp với đường lối, quan điểm của
Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, cũng như phù hợp với yêu
cầu của quá trình hội nhập, góp phần tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, việc huy động nguồn lực
đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, thể hiện hiệu quả của các
chính sách mới, của hệ thống pháp luật về đầu tư đã ban hành. Tổng vốn
đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế trong 5 năm qua đạt khoảng
986 ngàn tỉ đồng bằng khoảng 118,2% dự kiến kế hoạch huy động.
Việc ban hành và thực thi Luật Doanh nghiệp Nhà nước cùng các
chương trình hành động của chính phủ, các đề án sắp xếp đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả của Doanh nghiệp Nhà nước, đã khẳng định vai



14

trò Doanh nghiệp Nhà nước đã và đang tiếp tục giữ vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển các ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Trong năm 2001-2005 vốn đầu tư thuộc khu vực Nhà nước là
526 ngàn tỷ đồng, chiếm 53,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, (bao gồm:
Vốn ngân sách Nhà nước chiếm 22,8%; vốn tín dụng Nhà nước chiếm
13,3%; vốn đầu tư doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17,7%).
Luật Doanh nghiệp năm 1999 được đánh giá như một bước đột phá
như cả về tư duy kinh tế lẫn xây dựng và thực thi luật. Theo đó, người dân,
doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong tất cả những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Cùng với sự ra đời và thi hành Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước, thỡ đó cú 150 ngàn doanh nghiệp dân doanh mới được
thành lập góp phần nâng tỉ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong
nước lên mức 26,7% tổng vốn đầu tư phát triển năm 2004; tạo ra hàng
triệu việc làm mới.
Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 và đã được sửa
đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và năm 2000 đã tạo môi trường
pháp lý ngày càng hấp dẫn cho việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến hết năm 2004, trên địa bàn cả
nước có trên 5300 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng
kí trên 47 tỷ USD, vốn đầu tư hiện thực đạt 31 tỷ USD. Các doanh nghiệp
FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ
thống kinh tế quốc dân, Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận
hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế. Năm 2004, khu vực đầu tư nước ngoài
chiếm 17% tổng vốn đầu tư xã hội, tạo ra trên 14,5% GDP của cả nước

chiếm gần 37% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và gần 54,6% kim
ngạch xuất khẩu (số liệu của Bộ Kế hoạch - Đầu tư năm 2005)


15

Tuy nhiên, do văn bản quy định về đầu tư được ban hành một cách
riêng rẽ, có nhiều vấn đề còn thiếu nhất quán, trong các quy định còn có sụ
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và các loại hình doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế nên đã hạn chế việc huy động và các nguồn lực kể
cả nguồn lực trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, thời gian vừa qua,
Việt Nam đã ký kết và triển khai nhiều hiệp định song phương và đa
phương liên quan đến hoạt động đầu tư, trong đó đòi hỏi Việt Nam phải
từng bước mở cửa thị trường, xoá bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan
hoặc các trợ cấp không phù hợp với các cam kết quốc tế. Do đó, yêu cầu
khách quan đặt ra là Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách
khuyến khích đầu tư phù hợp với nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa theo hướng đơn giản, minh bạch, nhất quán, xoá bỏ sự phân biệt
đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; xây dựng trình tự, thủ
tục đơn giản thuận lợi không chỉ cho các nhà đầu tư mà cho cả cơ quan
Nhà nước nhằm bảo đảm chính sách đến được các nhà đầu tư, tạo lòng tin
cho nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế hăng hái, tự tin sử dụng mọi
nguồn lực cho đầu tư, kinh doanh.
Những yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới sâu rộng nền kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập quốc tế đã
và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan. Việt Nam thấy cần thiết phải ban
hành một bộ luật thống nhất có thể điều chỉnh và chi phối các hoạt động
đầu tư trong nước lẫn nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội. Cụ thể:
Một là - Nghị quyết Trung ương 9 đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh

tế xã hội, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục nguy
cơ tụt hậu của Việt Nam so với thế giới và khu vực, đưa Việt Nam ra khỏi
nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Do đó, trong những năm tới,
nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển là rất lớn.


16

Để đạt được GDP tăng gấp đôi vào năm 2010, sơ bộ ước tính nhu
cầu tổng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch 05 năm 2006 – 2010 khoảng
1580 – 1960 ngàn tỷ đồng tương đương 117 - 124 tỷ USD chiếm 38%
GDP.
Đây là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt đầy
đủ đường lối, chủ trương của Đảng được khẳng định trong Đại hội Đảng
IX, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 9 (Khoá IX): gắn huy động nguồn nội
lực và ngoại lực, gắn cải cách trong nước với hội nhập để tận dụng cơ hội
và vượt qua thử thách trong giai đoạn tới; điều đó một mặt đòi hỏi phải xây
dựng đồng bộ và hoàn thiện cơ bản thể chế kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật và các giải pháp đồng bộ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực; trong đó có việc phải xây dựng một Luật Đầu tư áp
dụng thống nhất nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, tự do đầu tư kinh doanh,
nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư thuộc mọi
thành phần kinh tế.
Hai là - Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật về
đầu tư, kinh doanh không ngừng được cải thiện theo hướng phù hợp việc
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình đó, môi trường kinh doanh tại Việt Nam cũng không ngừng được
hoàn thiện, thay đổi theo hướng bình đẳng, không phân biệt, tạo lập “cùng
một sân chơi chung” cho các hình thức đầu tư, các thành phần kinh tế, thể

hiện qua hàng loạt các đạo luật mới được ban hành, hoặc sửa đổi, bổ sung.
Những khác biệt về điều kiện đầu tư, kinh doanh như điều kiện gia nhập
thị trường, các yếu tố đầu vào, đầu ra và hoạt động quản lý doanh nghiệp
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã được thu hẹp đáng kể,
thậm chí nhiều chính sách đã được hoà đồng.
Tuy nhiên,, do các luật liên quan đến đầu tư được ban hành riêng lẻ,
lại chưa có sự nhất quán về nội dung, phạm vi điều chỉnh nên trên thực tế


17

chưa thực sự tạo được “một sân chơi” bình đẳng như chủ trương của Đảng
và yêu cầu hội nhập. Những khác biệt như vậy đã và đang tiếp tục làm cho
hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh thiếu nhất quán, minh bạch; tình
trạng phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và các loại hình doanh nghiệp
khác nhau đang tồn tại, đã hạn chế việc phát huy các nguồn lực. Thêm vào
đó, sự phát triển năng động, đa dạng của doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế đã càng làm bộc lộ những bất cập của hệ thống pháp luật tách
biệt theo thành phần kinh tế.
Do đó, việc xây dựng Luật Đầu tư áp dụng thống nhất cho các nhà
đầu tư là yêu cầu thiết yếu và bức xúc nhằm tiếp tục cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, nhất là môi trường pháp lý nhằm củng cố niềm tin của
các nhà đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư tối đa và sử dụng
hiệu quả các hoạt động đầu tư.
Ba là - trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến hoạt
động đầu tư, hiện nay đang ở giai đoạn phải thực hiện về cơ bản các cam
kết quốc tế đó như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định
khung về khu vực đầu tư ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với
Hoa Kỳ, Hiệp định tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản

và những cam kết khi gia nhập WTO. Việc ký kết và thực hiện các cam kết
quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư một mặt vừa đòi hỏi Việt Nam phải
mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế hoặc các trợ cấp
không phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác vẫn phải duy trì một số
chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở cửa
thị trường theo lộ trình xác định. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có Luật Đầu tư là yêu
cầu cấp thiết.
Bốn là - Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới
vào khu vực đang diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là khi Trung Quốc gia nhập


18

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong bối cảnh đó, các nước trong khu
vực đang cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng tự do hóa chính
sách đầu tư, thương mại với các đối tác kinh tế lớn nhằm tranh thủ nguồn vốn
đầu tư, công nghệ. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam
trước đây được coi là hấp dẫn, thông thoáng nay giảm dần tính cạnh tranh so
với những chuyển biến mới về những chính sách thu hút đầu tư của các nước
trong khu vực và thế giới. Vì vậy cần thiết phải ban hành Luật Đầu tư mới thể
hiện rõ ràng, minh bạch hơn chính sách bảo đảm đầu tư, khuyến khích ưu đãi
đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính…
Năm là - nguồn vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước hàng năm hiện
chiếm tới 55%- 57% tổng đầu tư xã hội và đóng vai trò rất quan trọng
trong việc tạo lập cơ cấu kinh tế, nhất là trong việc hình thành hệ thống kết
cầu hạ tầng kinh tế xã hội, trong các ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng
của nền kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tuy
nhiên, công tác quản lý đầu tư nói chung, đặc biệt là quản lý các dự án đầu
tư bằng nguồn vốn của Nhà nước còn nhiều yếu kém, thiếu sót đã dẫn đến

tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, hiệu quả sử dụng nguồn vốn
đầu tư còn thấp, cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý, sử dụng vốn
tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước còn kém
hiệu quả, công tác giám sáp, thanh tra chậm được chú ý và còn lúng túng
trong hướng dẫn triển khai thực hiện. Một trong những nguyên nhân quan
trọng của tình trạng nói trên là chưa có văn bản pháp luật có đủ hiệu lực để
điều chỉnh hoạt động đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước.
Như vậy việc ban hành Luật Đầu tư chung đã trở thành đòi hỏi tất
yếu khách quan của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn từ chủ trương đường lối của Đảng,
từ thực tiễn hoạt động đầu tư, đòi hỏi của hội nhập và cạnh tranh quốc tế
nhằm huy động nhiều hơn, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng


19

phí các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài của mọi thành phần
kinh tế.
1.1.2.2. Nguyên tắc của việc ban hành Luật Đầu tư
- Thể chế hóa sâu sắc đường lối đổi mới và các chủ trương chính
sách đã được khẳng định tại Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam và các nghị quyết của Ban Chấp hành TW Đảng, đặc biệt là Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành TW Đảng Khóa IX (tháng 02/
2004), như chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa nội lực và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cổ phần hóa, sắp xếp đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước, xóa bỏ sự phân biệt đối xử bất hợp lý giữa các nhà đầu
tư.
- Kế thừa các phát huy những tư duy mới, kinh nghiệm tốt từ những

nhân tố mới trong đời sống kinh tế xã hội, nội dung của Luật không xóa bỏ
hoặc đi ngược lại mà phát triển, làm sâu sắc thêm những cải cách, đổi mới
và tiến bộ đã đạt được trong thời gian qua.
- Mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh, đảm bảo quyền chủ
động, tự quyết định của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư. Nhà nước tôn trọng
quyền tự chủ đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp tư
nhân.
- Tiếp tục đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước nhất là thủ tục
hành chính đối với hoạt động đầu tư. Cơ quan quản lý Nhà nước phải coi
việc khuyến khích hướng dẫn trợ giúp doanh nghiệp là chức năng chính,
coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, áp dụng phổ biến chế
độ đăng ký “ thay cho cấp phép”, giảm hơn nữa những quy định mang tính
“xin cho” hoặc “phê duyệt” hoặc “chấp thuận” bất hợp lý, không cần thiết
trái với nguyên tắc tự do kinh doanh gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Nhà


20

nước có các biện pháp bảo đảm và hỗ trợ để các nhà đầu tư yên tâm, phấn
khởi đầu tư. Cần quy định rõ và đủ chi tiết về trách nhiệm về quan hệ giữa
cơ quan Nhà nước đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp, cũng như các chế
tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của nhà đàu tư hoặc của cơ quan
công chức Nhà nước.
- Phù hợp với đặc điểm, trình độ nền kinh tế chuyển đổi của Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
phù hợp với lộ trình cam kết trong các thoả thuận đa phương và song
phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, nhất là các nguyên tắc đối
xử quốc gia và tối huệ quốc, đồng thời góp phần vào việc hình thành môi
trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, ổn định, bình đẳng, đủ sức hấp
dẫn và có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực và thế giới.

Đáp ứng yêu cầu đó tại ký họp thứ 8 quốc hội khóa XI, Quốc hội đã
xem xét thông qua Luật Đầu tư. Luật Đầu tư được ban hành sẽ thay thế cho
Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước tại Việt
Nam.
1.1.2.3. Khái quát về nội dung Luật Đầu tư (2005) và những văn
bản liên quan
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, gồm có 10 chương,
89 điều quy định về bảo đảm đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư,
hình thức hoạt động đầu tư và các lĩnh vực, địa bàn đầu tư, ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư. Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và có nội dung cơ
bản của từng chương như sau:
Chương I - Những quy định chung (gồm 5 điều, từ Điều 1 đến Điều
5). Chương nay quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, các
chính sách về đầu tư, việc áp dụng pháp luật về đầu tư, điều ước quốc tế,


21

pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế và giải thích một số thuật ngữ có
liên quan.
Chương II - Bảo đảm đầu tư (gồm 7 Điều, từ Điều 6 đến Điều 12).
Chương này quy định về bảo đảm vốn và tài sản của nhà đầu tư, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; mở cửa thị trường đầu tư liên
quan đến thương mại; về việc chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài; bảo đảm
đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách và giải quyết tranh
chấp.
Chương III – Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư (gồm 8 Điều, từ Điều
13 đến Điều 20). Chương này quy định về quyền của nhà đầu tư như quyền
tự chủ đầu tư, kinh doanh, tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư; xuất khẩu,

nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liên quan đến hoạt
động đầu tư; mua ngoại tệ; chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu
tư; thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và các quyền khác của
nhà đầu tư theo đúng nội dung đăng ký đầu tư, nội dung quy định tại giấy
chứng nhận đầu tư; các nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Chương IV - Hình thức đầu tư (gồm 6 Điều, từ Điều 21 đến Điều
26). Chương này quy định các hình thức đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư
thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư theo hợp đồng, đầu tư phát triển kinh
doanh, đầu tư thông qua việc góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại và
các hình thức đầu tư gián tiếp.
Chương V - Lĩnh vực, địa bàn đầu tư, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư (gồm 3
mục 18 Điều, từ Điều 27 đến Điều 44).
Chương VI - Hoạt động đầu tư trực tiếp (gồm 2 mục, 22 Điều, từ
Điều 45 đến Điều 66). Chương này quy định về thủ tục đăng ký đầu tư đối
với dự án đầu tư trong nước và dự án đầu tư nước ngoài và việc triển khai
thực hiện dự án đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính trong
quản lý đầu tư theo hướng mở rộng phân cấp và đơn giản hóa thủ tục, tạo


22

môi trường đầu tư thông thoáng, thuận tiện cho nhà đầu tư, đồng thời đảm
bảo tính hiệu quả và thống nhất trong quản lý Nhà nước về hoạt động đầu
tư.
Chương VII - Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước (gồm 7 Điều, từ Điều
67 đến Điều 73). Chương này quy định việc quản lý đầu tư, kinh doanh vốn
Nhà nước; đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước vào tổ chức kinh tế, hoạt động
công ích; đầu tư bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân được giao quản lý dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà
nước và việc thay đổi nội dung, hoãn, đình chỉ, huỷ bỏ dự án đầu tư. Luật

Đầu tư cũng quy định dự án đầu tư có sử dụng vốn Nhà nước phải thực hiện
đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa,
xây lắp cho dự án theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Chương VIII - Đầu tư ra nước ngoài (gồm 6 điều, từ Điều 74 đến
Điều 79). Chương này quy định về các hình thức đầu tư ra nước ngoài;
điều kiện đầu tư ra nước ngoài; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước
ngoài; thủ tục đầu tư ra nước ngoài và các lĩnh vực khuyến khích hoặc cấm
đầu tư ra nước ngoài.
Chương IX - Quản lý Nhà nước về đầu tư (gồm 8 Điều, từ Điều 80
đến Điều 87). Chương này quy định về nội dung quản lý Nhà nước về đầu
tư; trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư; trách nhiệm của
Chính phủ trong việc tổ chức lập, trình duyệt các quy hoạch; việc xúc tiến
đầu tư; theo dõi, đánh giá hoạt động đầu tư; thanh tra về hoạt động đầu tư
và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. xử lý các vi phạm về pháp
luật đầu tư.
Chương X - Điều khoản thi hành (gồm 2 Điều, Điều 88 và Điều
89).Chương này quy định về việc áp dụng pháp luật đối với các dự án đang
thực hiện đầu tư trước khi Luật này có hiệu lực; hiệu lực thi hành và Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư.


×