Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.18 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRONG
TTHS VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS Nguyễn Văn Huyên

HÀ NỘI 2011


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCA

BỘ CÔNG AN

BLHS

BỘ LUẬT HÌNH SỰ

BLTTHS



BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

CQĐT

CƠ QUAN ĐIỀU TRA

CQTHTT

CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

ĐTV

ĐIỀU TRA VIÊN

KSV

KIỂM SÁT VIÊN

TNHS

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

THTT

TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

TTHS

TỐ TỤNG HÌNH SỰ


VKS

VIỆN KIỂM SÁT

VKSNDTC

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

1

PHẦN NỘI DUNG

6

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

6

TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.1

Khái niệm về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra

6


1.2

Ý nghĩa của tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra

13

1.3

Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm

15

đình chỉ và đình chỉ điều tra
Kết luận chƣơng I

38

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

39

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH
VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
2.1

Thực trạng việc thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

39


năm 2003 về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
2.2

Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trong việc thực hiện

50

quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
2.3

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy

56

định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
Kết luận chƣơng II

63

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

65


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “chất lƣợng công
tác tƣ pháp nói chung chƣa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân;
còn nhiều trƣờng hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời vô tội; vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nƣớc và các cơ quan tƣ pháp”. Nguyên nhân của tình trạng
trên là do chất lƣợng công tác tƣ pháp nói chung và chất lƣợng của hoạt động
điều tra của CQĐT nói riêng còn chƣa hiệu quả.
Nhiệm vụ của CQĐT là khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm phải khởi tố
vụ án hình sự để điều tra. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải tiến hành các
hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và ngƣời thực hiện tội phạm.
Trƣờng hợp hết thời hạn điều tra mà chƣa xác định đƣợc bị can hoặc đã xác
định đƣợc bị can nhƣng không biết bị can đang ở đâu hoặc có căn cứ cho rằng
bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì CQĐT phải tạm
ngừng các hoạt động điều tra. Trƣờng hợp trong quá trình điều tra CQĐT phát
hiện có quyết định khởi tố không có căn cứ, khởi tố sai hoặc bị can có các căn
cứ miễn TNHS thì phải đình chỉ điều tra.Nếu CQĐT vẫn tiếp tục tiến hành
các hoạt động điều tra trong hai trƣờng hợp trên có thể dẫn đến tình trạng oan
sai ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. BLTTHS năm 2003
đã có những quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra để CQĐT tạm
ngừng hoặc chấm dứt hoạt động điều tra trong các trƣờng hợp này.
BLTTHS năm 2003 đã có những quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục
và thẩm quyền tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, vẫn còn một số
quy định chƣa đƣợc rõ ràng, chặt chẽ, nhất là một số quy định về căn cứ tạm
đình chỉ và căn cứ đình chỉ điều tra dẫn đến việc nhận thức chƣa đúng, thiếu


2

nhất quán các quy định về chế định này. Do đó, trong thực tiễn áp dụng
CQĐT không thể tránh khỏi việc áp dụng sai các căn cứ tạm đình chỉ và đình

chỉ điều tra vụ án hình sự và hậu quả dẫn đến bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời
vô tội. Vì vậy, nghiên cứu đề tài : “Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra trong tố
tụng hình sự Việt Nam” đã trở thành đề tài mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu trên các trang Website, trên các tạp chí về
chuyên ngành luật, chúng tôi nhận thấy chƣa có luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ nào nghiên cứu về đề tài này. Tuy nhiên chế định tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra đã đƣợc nghiên cứu trong các công trình khoa học ở phạm vi và mức
độ nghiên cứu khác nhau. Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu nhƣng chỉ
viết về một phần nội dung của đề tài này nhƣ bài viết: “ Bàn về quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án và bị can theo quy định của BLTTHS”
của tác giả Mai Văn Minh ( Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC số 1/2006 ); “Đình
chỉ điều tra và đình chỉ vụ án đối với trƣờng hợp không có sự việc phạm tội
và hành vi không cấu thành tội phạm” của tác giả Mai Văn Lƣu ( Tạp chí
kiểm sát – VKSNDTC số 5/2008 ); “Đình chỉ điều tra vụ án khởi tố theo yêu
cầu của ngƣời bị hại khi họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 105
BLTTHS năm 2003” của tác giả Mai Thế Bày (Tạp chí kiểm sát –
VKSNDTC số 20/2009) …
Một số công trình nghiên cứu cũng đề cập đến chế định tạm đình chỉ và
đình chỉ điều tra nhƣng chỉ ở mức độ đại cƣơng, chƣa sâu sắc nhƣ cuốn giáo
trình Luật tố tụng hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội; cuốn Bình luận
khoa học Bộ luật TTHS của PGS.TS Võ Khánh Vinh …
Các công trình nghiên cứu nêu trên mặc dù đã có những đóng góp về
mặt nhận thức nhận thức khoa học và có những kiến nghị có giá trị về lý luận
lẫn thực tiễn tuy nhiên vẫn còn có một số vấn đề, nội dung chƣa đƣợc nghiên


3

cứu chuyên sâu, toàn diện. Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Tạm đình

chỉ và đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu chi tiết hơn về chế định tạm
đình chỉ và đình chỉ điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành, từ đó đƣa ra những đề xuất nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót
trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc
thực hiện chế định tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra, đáp ứng yêu cầu cải cách
tƣ pháp và Hội nhập quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Nghiên cứu làm rõ những vấn
đề lý luận chung, các quy định của BLTTHS năm 2003, có so sánh đối chiếu
với các quy định của BLTTHS năm 1988 về quy định tạm đình chỉ và đình
chỉ điều tra và thực tiễn thực hiện quy định này trong thực tiễn. Trên cơ sở đó,
luận văn đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
chế định tạm đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra và một số giải pháp khác nhằm
nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chế định này trong thực tiễn.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Xác định rõ khái niệm tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra.
- Nghiên cứu làm rõ những quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra và những hạn chế, bất cập trong
những quy định này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp
luật TTHS về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra để xác định những hạn chế, bất
cập trong việc thực hiện và tìm ra nguyên nhân của nó.
- Đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ
và đình chỉ điều tra.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


4


Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
chủ yếu sau:
- Lý luận chung về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra.
- Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm đình chỉ
và đình chỉ điều tra.
- Thực trạng áp dụng các quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra và thực tiễn áp dụng những quy định này từ năm 2005 đến năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phƣơng pháp luận của Triết học
Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật; đồng thời
sử dụng phƣơng pháp phân tích, so sánh, thống kê dựa trên các quy phạm
pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo, bài viết, công trình nghiên cứu
khoa học của các tác giả đã nghiên cứu trƣớc đó, kết hợp đánh giá thực tiễn
áp dụng pháp luật tố tụng hình sự để hoàn thành luận văn có chất lƣợng.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
- Luận văn xây dựng đƣợc khái niệm khoa học về tạm đình chỉ và đình
chỉ điều tra.
- Luận văn phân tích, cơ sở lý luận các quy định của BLTTHS năm
2003 về tạm định chỉ và đình chỉ điều tra; xác định những bất cập trong các
quy định của BLTTHS năm 2003 về chế định này cần phải đƣợc hoàn thiện.
- Luận văn nêu bật đƣợc những hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn thi
hành các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra và những
nguyên nhân của hạn chế, vƣớng mắc đó.


5


- Luận văn đề xuất đƣợc một số giải pháp để khắc phục các bất cập
trong quy định của pháp luật và vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành để nâng
cao hiệu quả của việc thực hiện chế định tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu làm 2 chƣơng, 6 mục, cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận chung về tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra trong TTHS.
Chƣơng II: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra.


6

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ
VÀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
1.1 Khái niệm về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
“Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó CQĐT có thẩm quyền
áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và
ngƣời thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án” [32,
tr.263]. Giai đoạn điều tra giữ vai trò quan trọng trong tiến trình giải quyết vụ
án hình sự, có nhiệm vụ xác định tội phạm và ngƣời thực hiện hành vi phạm
tội; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra; xác định nguyên nhân và điều kiện
phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố bị can. Không có kết quả điều tra của giai
đoạn điều tra VKS không thể truy tố, Tòa án không thể xét xử vụ án.
Trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra nếu xét thấy việc khởi tố
vụ án không có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh
đƣợc bị can đã thực hiện tội phạm . . . thì CQĐT ra bản kết luận điều tra và
quyết định đình chỉ điều tra. Nếu CQĐT phát hiện bị can bị bệnh tâm thần

hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội đồng giám định pháp y
hoặc không xác định đƣợc bị can hoặc không biết bị can đang ở đâu thì theo
quy định của Bộ luật TTHS, CQĐT phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
[32, tr 8]. Thông qua những quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
CQĐT tạm ngừng hoặc kết thúc hoạt động điều tra nhằm khắc phục những sai
lầm của các CQTHTT trong việc khởi tố vụ án hình sự, đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, ngƣời bị hại.
1.1.1 Khái niệm tạm đình chỉ điều tra
Tạm đình chỉ điều tra là một hoạt động tố tụng đƣợc pháp luật TTHS
quy định cho CQĐT nhằm tạm ngừng các hoạt động điều tra khi xuất hiện


7

những lý do khách quan không thể tiếp tục tiến hành các hoạt động điều tra,
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Khái niệm tạm đình
chỉ điều tra đƣợc nhiều nhà lý luận và thực tiễn quan tâm, họ đã đƣa ra những
quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất: Tạm đình chỉ điều tra là: “hình thức tạm ngừng vụ
án hình sự ở giai đoạn điều tra” [ 30, tr 515 ]
Quan điểm thứ hai: Tạm đình chỉ điều tra là:”tạm ngừng tiến hành điều
tra trong một thời gian đối với vụ án hoặc đối với từng bị can” [13, tr 314]
Quan điểm thứ ba: Tạm đình chỉ điều tra là: “một giai đoạn điều tra,
mà do những lý do khách quan cơ quan điều tra phải tạm dừng các hoạt động
điều tra, nhưng chưa đưa ra những kết luận cuối cùng về kết quả điều tra,
chưa khẳng định về việc có tiếp tục điều tra hay không” [33, tr 466]
Các khái niệm về tạm đình chỉ điều tra của các quan điểm nêu trên có
sự khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi của các khái niệm cũng khác
nhau, tính khoa học và tính thực tiễn phù hợp với các khái niệm cũng ở những
mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn thống nhất với nhau ở

một số điểm cơ bản là: tạm đình chỉ điều tra là một hình thức tạm ngừng hoạt
động điều tra, dựa trên những lý do và căn cứ do pháp luật quy định.
Quan điểm thứ nhất tiếp cận khái niệm tạm đình chỉ điều tra dƣới góc
độ là một “hình thức tạm ngừng vụ án”, khái niệm này chƣa thể hiện rõ đƣợc
bản chất pháp lý, chƣa nêu rõ chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình
chỉ điều tra. Mặt khác, quan điểm này cho rằng tạm đình chỉ điều tra là hình
thức tạm ngừng vụ án hình sự cũng chƣa chính xác. Bởi trong trƣờng hợp vụ
án có nhiều bị can mà căn cứ tạm đình chỉ chỉ xuất hiện ở một hoặc một số bị
can và việc tạm đình chỉ điều tra đối với các bị can đó không làm ảnh hƣởng
đến toàn bộ vụ án thì lúc này CQĐT có thể ra quyết định tạm đình chỉ với một


8

số bị can có căn cứ tạm đình chỉ chứ không ra quyết định tạm đình chỉ đối với
tất cả các bị can trong vụ án.
Quan điểm thứ hai đã chỉ ra đƣợc đối tƣợng tạm đình chỉ điều tra là vụ
án và bị can; chỉ ra hậu quả pháp lý của quyết định tạm đình chỉ điều tra là
làm tạm ngừng các hoạt động điều tra. Tuy nhiên, quan điểm này chƣa chỉ ra
đƣợc chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ điều tra.
Quan điểm thứ ba lại nhìn nhận tạm đình chỉ điều tra là một giai đoạn
điều tra và phản ánh đƣợc một phần đặc điểm nội dung đó là hậu quả pháp lý
của tạm đình chỉ điều tra . Tuy nhiên, quan điểm này lại chƣa đƣa ra đƣợc đối
tƣợng của tạm đình chỉ điều tra.
Nhìn chung, các quan điểm nêu trên chƣa đƣa ra đƣợc một khái niệm
chính xác về tạm đình chỉ điều tra. Để có đƣợc khái niệm toàn diện và đầy đủ
về tạm đình chỉ điều tra cần phải làm rõ một số vấn đề sau:
Một là, Tạm đình chỉ điều tra là một hình thức để tạm ngừng hoạt động
điều tra. Khác với đình chỉ điều tra, khi ra quyết định đình chỉ điều tra, CQĐT
phải đƣa ra những kết luận cuối cùng về vụ án và bị can, phải có bản kết luận

điều tra vụ án, thì khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, CQĐT chƣa phải
đƣa ra những kết luận cuối cùng về vụ án và bị can. Khi quyết định tạm đình
chỉ điều tra, CQĐT sẽ tạm ngừng các hoạt động điều tra đang tiến hành đối
với vụ án hoặc đối với một số bị can cho tới khi có căn cứ để hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ điều tra (bị can đã chữa trị khỏi bệnh hoặc đã xác định đƣợc
bị can hoặc đã bắt đƣợc bị can bỏ trốn).
Hai là, Tạm đình chỉ điều tra là một quyết định thuộc thẩm quyền của
CQĐT trong giai đoạn điều tra. Tạm đình chỉ điều tra là hoạt động tố tụng
đƣợc pháp luật TTHS quy định cho CQĐT nhằm tạm ngừng các hoạt động
điều tra khi xuất hiện những lý do khách quan không thể tiếp tục tiến hành các
hoạt động điều tra, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.


9

Ba là, Quyết định tạm đình chỉ điều tra chỉ đƣợc thực hiện khi có căn
cứ do pháp luật quy định. BLTTHS đã quy định cụ thể về các căn cứ tạm đình
chỉ điều tra. Khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, CQĐT phải chỉ rõ căn cứ
đã áp dụng để tạm đình chỉ điều tra. Nếu CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ
điều tra không dựa trên các căn cứ luật định thì bị coi là vi phạm pháp luật và
sẽ bị VKS hủy bỏ, yêu cầu phục hồi điều tra.
Bốn là, đối tƣợng của tạm đình chỉ điều tra là vụ án và bị can.
Khi CQĐT chƣa xác định đƣợc bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở
đâu mà đã hết thời hạn điều tra hoặc trong trƣờng hợp vụ án chỉ có một bị can
mà có căn cứ xác định bị can đó bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác
thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án. Trong trƣờng hợp vụ án
có nhiều bị can mà có căn cứ để tạm đình chỉ đối với một hoặc một số bị can
và việc tạm đình chỉ đối với một hoặc một số bị can đó không làm ảnh hƣởng
tới việc giải quyết vụ án hình sự thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
đối với từng bị can có căn cứ tạm đình chỉ đó.

Qua việc phân tích những đặc điểm của tạm đình chỉ điều tra chúng tôi
đƣa ra khái niệm tạm đình chỉ điều tra trong TTHS nhƣ sau: Tạm đình chỉ
điều tra là hình thức do CQĐT áp dụng để tạm ngừng hoạt động điều tra đối
với vụ án hoặc bị can đang tiến hành điều tra khi đã hết thời hạn điều tra
nhưng không xác định được bị can hoặc không biết bị can đang ở đâu hoặc
khi xuất hiện những lý do khách quan không thể tiếp tục điều tra đối với bị
can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có giấy chứng nhận của hội
đồng giám định pháp y.
1.1.2 Khái niệm đình chỉ điều tra
Đình chỉ điều tra là một hoạt động tố tụng mà pháp luật TTHS quy định
cho CQĐT nhằm khắc phục những sai lầm của CQTHTT trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can và


10

ngƣời bị hại khi có yêu cầu khởi tố vụ án. Đình chỉ điều tra đã đƣợc quy định
từ lâu trong pháp luật TTHS Việt nam tuy nhiên, hiện nay vẫn chƣa có cách
hiểu thống nhất về khái niệm này, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm đình chỉ điều tra. Cụ thể còn tồn tại một số quan điểm nhƣ sau:
Quan điểm thứ nhất: Đình chỉ điều tra là: “hình thức kết thúc vụ án
hình sự ở giai đoạn điều tra” [29, tr 815].
Quan điểm thứ hai: Đình chỉ điều tra là: “quyết định của CQĐT chấm
dứt mọi hoạt động tố tụng (giai đoạn điều tra) đối với vụ án hoặc đối với một
hoặc một số bị can trong vụ án” [24, tr 28].
Quan điểm thứ ba: Đình chỉ điều tra là: “một chế định được quy định
trong Bộ luật TTHS, hệ quả dẫn tới là việc kết thúc mọi hoạt động điều tra do
Bộ luật này quy định mà nội dung của nó dựa trên lý do và căn cứ luật định”
[21, tr 13].
Quan điểm thứ tƣ: Đình chỉ điều tra là: “một trong hai hình thức kết

thúc hoạt động điều tra, mà nội dung của nó là dựa trên những lý do và căn
cứ nhất định, chấm dứt mọi hoạt động nhằm phát hiện, thu thập, kiểm tra,
đánh giá những thông tin dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự”
[33, tr 480].
Cũng nhƣ khái niệm tạm đình chỉ điều tra, khái niệm đình chỉ điều tra
hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau đƣợc tiếp cận dƣới những góc
độ khác nhau, phạm vi khác nhau. Các quan điểm trên tuy diễn đạt bằng nhiều
cách khác nhau nhƣng đều đƣa ra đƣợc những đặc điểm chung về đình chỉ
điều tra là: hình thức kết thúc hoạt động điều tra, dựa trên những lý do và căn
cứ do pháp luật quy định.
Quan điểm thứ nhất đã tiếp cận khái niệm đình chỉ điều tra dƣới góc độ
hậu quả pháp lý của việc đình chỉ điều tra là khi có quyết định đình chỉ điều
tra thì vụ án hình sự đó phải đƣợc kết thúc. Quan điểm này chƣa thể hiện


11

đƣợc bản chất pháp lý, đối tƣợng cũng nhƣ chủ thể có thẩm quyền đình chỉ
điều tra. Quan điểm này cho rằng đình chỉ điều tra là “hình thức kết thúc vụ
án hình sự” cũng chƣa hoàn toàn chính xác, bởi trong trƣờng hợp vụ án có
nhiều bị can nhƣng căn cứ đình chỉ chỉ xuất hiện đối với một hoặc một số bị
can, quyết định đình chỉ điều tra đối với các bị can đó không làm ảnh hƣởng
đến việc giải quyết vụ án đối với các bị can khác thì CQĐT chỉ đình chỉ điều
tra đối với các bị can có căn cứ đình chỉ đó mà không đình chỉ điều tra đối với
tất cả các bị can trong vụ án.
Quan điểm thứ hai đã chỉ ra đƣợc chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
đình chỉ điều tra là CQĐT; hậu quả pháp lý của nó là làm chấm dứt mọi hoạt
động tố tụng trong giai đoạn điều tra và đối tƣợng của đình chỉ điều tra là vụ
án hoặc một hoặc một số bị can trong vụ án. Tuy nhiên, quan điểm này chƣa
phản ánh đƣợc các căn cứ của đình chỉ điều tra.

Quan điểm thứ ba lại nhìn nhận đình chỉ điều tra là một chế định, phản
ánh đƣợc hậu quả pháp lý của đình chỉ điều tra là làm chấm dứt hoạt động
điều tra. Tuy nhiên, quan điểm này lại chƣa phản ánh đƣợc về chủ thể có thẩm
quyền ra quyết định và đối tƣợng của quyết định đình chỉ điều tra.
Quan điểm thứ tƣ, tác giả tiếp cận khái niệm đình chỉ điều tra dƣới góc
độ một hình thức kết thúc hoạt động điều tra. Quan điểm này đã chỉ ra căn cứ
và hậu quả pháp lý của đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, vẫn chƣa chỉ ra đƣợc chủ
thể có thẩm quyền ra quyết định cũng nhƣ đối tƣợng của đình chỉ điều tra.
Để đƣa ra khái niệm toàn diện và đầy đủ về đình chỉ điều tra cần phải
làm rõ đặc điểm của nó. Đó là:
Một là, đình chỉ điều tra là một hình thức kết thúc hoạt động điều tra.
Việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nhƣ vậy, đình
chỉ điều tra là một trong hai hình thức kết thúc điều tra. Khi CQĐT kết thúc


12

các hoạt động điều tra cần thiết mà vẫn không có căn cứ chứng minh bị can đã
thực hiện tội phạm hoặc có căn cứ chứng minh bị can đã thực hiện hành vi
phạm tội nhƣng lại xuất hiện các căn cứ để đình chỉ điều tra thì CQĐT phải ra
quyết định đình chỉ điều tra. Đến thời điểm này mọi hoạt động điều tra đang
tiến hành đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can phải chấm dứt.
Hai là, Đình chỉ điều tra là một quyết định thuộc thẩm quyền của
CQĐT đƣợc áp dụng trong giai đoạn điều tra. Đình chỉ điều tra là một hoạt
động tố tụng mà pháp luật TTHS quy định cho CQĐT nhằm khắc phục những
sai lầm của CQTHTT trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, đồng thời bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can và ngƣời bị hại khi có yêu cầu khởi
tố vụ án.
Ba là, Quyết định đình chỉ điều tra chỉ đƣợc thực hiện khi có căn cứ do

pháp luật quy định. BLTTHS năm 2003 đã quy định cụ thể các căn cứ đình
chỉ điều tra. Theo đó CQĐT chỉ đƣợc ra quyết định điều tra trong các trƣờng
hợp: ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án trong giai đoạn điều tra, có căn cứ
không đƣợc khởi tố vụ án hình sự, các căn cứ miễn TNHS quy định tại các
Điều 19, 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 (đã đƣợc sửa đổi bổ sung).
Nếu CQĐT ra quyết định điều tra mà không dựa trên các căn cứ mà BLTTHS
năm 2003 quy định thì quyết định đình chỉ điều tra đó không có căn cứ và sẽ
bị VKS hủy bỏ.
Bốn là, đối tƣợng của đình chỉ điều tra là vụ án hoặc bị can.
Khi có căn cứ để đình chỉ điều tra đối với vụ án nhƣ không có sự việc
phạm tội hoặc trong vụ án có một bị can mà có căn cứ để đình chỉ đối với bị
can đó nhƣ bị can chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi không cấu
thành tội phạm, hết thời hiệu truy cứu TNHS… thì CQĐT ra quyết định đình
chỉ điều tra vụ án.


13

Trong vụ án có nhiều bị can mà có căn cứ để đình chỉ điều tra đối với
từng bị can nhƣ bị can chƣa đến tuổi chịu TNHS, bị can đã chết … mà việc
đình chỉ đối với bị can đó không liên quan đến các bị can khác thì CQĐT ra
quyết định đình chỉ điều tra đối với từng bị can có căn cứ đình chỉ đó.
Qua việc phân tích những đặc điểm của tạm đình chỉ điều tra có thể đƣa
ra khái niệm tạm đình chỉ điều tra trong TTHS nhƣ sau: Đình chỉ điều tra là
một hình thức kết thúc hoạt động điều tra, do CQĐT áp dụng đối với vụ án
hoặc bị can khi xuất hiện những lý do khách quan do luật định không thể xử
lý hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội, hoặc hết thời hạn điều
tra không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
1.2 Ý nghĩa của việc quy định tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra
Ý nghĩa chính trị: tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra góp phần đáp ứng

những đòi hỏi của Nhà nƣớc pháp quyền. Khi nói đến nhà nƣớc pháp quyền là
phải đề cập đến hai mặt cơ bản đó là dân chủ và tổ chức quyền lực Nhà nƣớc
mà trong đó vai trò pháp luật đƣợc đề cao. Để đáp ứng đƣợc những nội dung
này đòi hỏi phải giải quyết những vấn đề quan trọng sau: phải tạo đƣợc ý thức
coi trọng pháp luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [28, tr
213 - 219]. Việc quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra có ý nghĩa
nhằm khắc phục những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình nhận thức của cơ
quan tiến hành tố tụng, đảm bảo vụ án đƣợc xử lý khách quan, chính xác,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội. Thông qua đó nâng cao
uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và CQĐT nói riêng, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Nhà nƣớc và cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, việc quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra còn thể
hiện vai trò của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công dân. Quá trình điều tra ban đầu của CQĐT có thể chƣa
chính xác, dẫn đến kết quả CQĐT ra quyết định khởi tố bị can sai (khởi tố


14

ngƣời không thực hiện hành vi phạm tội) hoặc trong quá trình điều tra CQĐT
phát hiện không có sự việc phạm tội xảy ra hoặc hành vi đó không cấu thành
tội phạm… những quyết định của CQĐT trƣớc đó đã xâm phạm các quyền và
lợi ích chính đáng của công dân, nếu CQĐT vẫn tiếp tục tiến hành các hoạt
động điều tra sẽ xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, sẽ làm oan ngƣời vô tội. Vì vậy, việc tạm ngừng hoặc chấm dứt các hoạt
động điều tra là cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ý nghĩa xã hội: tạm đình chỉ điều tra và đình chỉ điều tra góp phần đảm
bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động tố tụng
của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và hoạt động điều tra của CQĐT
nói riêng. Quy định về đình chỉ điều tra thiết lập sự công bằng cần thiết giữa

lợi ích công và lợi ích riêng của cá nhân con ngƣời (ngƣời bị hại, ngƣời bị
khởi tố), điều này đƣợc thể hiện rõ trong trƣờng hợp đình chỉ điều tra do
ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố (đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của ngƣời
bị hại). Việc điều tra, truy tố, xét xử đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội
sẽ góp phần giữ nguyên trật tự kỉ cƣơng và mang lại lợi ích cho xã hội. Trong
các vụ án khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị hại, ngƣời bị hại không chỉ bị
thiệt hại về thể chất mà còn phải chịu thiệt hại về tinh thần. Hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng có thể khiến cho ngƣời bị hại
phải chịu thêm những thiệt hại về mặt tinh thần. Chính vì vậy, nhiều trƣờng
hợp ngƣời bị hại đã rút yêu cầu khởi tố. Lúc này, CQĐT phải ra quyết định
đình chỉ điều tra để đảm bảo ngƣời bị hại sẽ không phải chịu thêm bất kỳ thiệt
hại nào nữa, mặc dù quyết định này sẽ ảnh hƣởng tới lợi ích công của nhà
nƣớc.
Ý nghĩa pháp lý: Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong TTHS. Trƣớc hết, việc quy định tạm đình chỉ và đình chỉ
điều tra là cơ sở để CQĐT tạm ngừng hoặc kết thúc các hoạt động điều tra.


15

Quy định về Tạm đình chỉ điều tra giúp các CQĐT tạm ngừng hoạt động điều
tra đối với những vụ án phức tạp, ngay trong khoảng thời gian đó CQĐT chƣa
làm sáng tỏ đƣợc nội dung vụ án, chƣa xác định đƣợc ngƣời phạm tội. Nếu
tiếp tục tiến hành điều tra không những không thu đƣợc kết quả gì mà còn gây
lãng phí, tốn kém cho Nhà Nƣớc. Bên cạnh đó, việc quyết định tạm đình chỉ
điều tra còn tạo điều kiện cho bị can đƣợc chữa bệnh (nếu bị can mắc các
bệnh hiểm nghèo). Quy định về đình chỉ điều tra giúp các CQĐT kết thúc các
hoạt động điều tra khi có căn cứ đình chỉ điều tra do luật quy định, giúp
CQĐT khắc phục những sai lầm của các CQTHTT trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự (khi trong giai đoạn điều tra CQĐT phát hiện các căn cứ không

đƣợc khởi tố VAHS). Đối với những trƣờng hợp CQĐT không chứng minh
đƣợc bị can phạm tội thì quyết định đình chỉ điều tra vừa có ý nghĩa làm chấm
dứt hoạt động điều tra đối với bị can đó vừa là cơ sở để CQĐT trả tự do cho
bị can.
1.3 Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm đình
chỉ và đình chỉ điều tra
1.3.1 Quy định về tạm đình chỉ điều tra
1.3.1.1 Căn cứ tạm đình chỉ điều tra
Khoản 1 Điều 160 BLTTHS năm 2003 quy định:
“ Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng
nhận của Hội đồng giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều tra trƣớc khi
hết hạn điều tra. Trong trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc bị can hoặc không biết
rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra”.
Theo quy định này thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi có
một trong hai căn cứ sau:
- Khi có căn cứ xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo
khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y


16

Đây là một quy định thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nƣớc ta.
Những ngƣời ốm đau bệnh tật thì dù họ có phạm tội nhƣng cũng phải đƣợc
chăm sóc, chữa bệnh. Khi bị can bị bệnh tâm thần, họ sẽ không có đầy đủ
năng lực hành vi, do đó khi CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra nhằm
chứng minh hành vi phạm tội của họ, họ sẽ không thực hiện đƣợc một cách
tốt nhất quyền bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn
đối với những ngƣời bị bệnh hiểm nghèo thì sức khỏe của họ đang bị đe dọa
nghiêm trọng nếu CQĐT tiếp tục tiến hành các hoạt động điều tra họ sẽ không
có điều kiện để đƣợc chữa trị kịp thời, tình hình bệnh tật sẽ ngày càng nghiêm

trọng hơn. Vì thế, BLTTHS đã quy định CQĐT có thể tạm đình chỉ điều tra
đối với bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo để họ có thời gian để
điều trị bệnh của mình. Nhƣng để tránh tình trạng lạm dụng chính sách nhân
đạo tránh việc bị can có thể giả bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo để
trốn tránh trách nhiệm hình sự, BLTTHS quy định để đƣợc tạm đình chỉ điều
tra thì bị can đó phải bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo có chứng nhận
của Hội đồng giám định pháp y.
Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật TTHS thì CQĐT có thể tạm đình
chỉ điều tra khi có một trong những căn cứ nêu trên chứ không phải là bắt
buộc mọi trƣờng họp đều phải tạm đình chỉ. Quy định này đề cao trách nhiệm
của CQĐT trong việc áp dụng quy định tạm đình chỉ điều tra để vừa bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của bị can vừa bảo đảm nhanh chóng phát hiện tội
phạm. Khi có một trong những căn cứ nêu trên, CQĐT có thể tạm đình chỉ
điều tra khi chƣa hết thời hạn điều tra.
- Trong trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc bị can hoặc không biết rõ bị
can đang ở đâu
Thực tiễn điều tra của CQĐT cho thấy nhiều vụ án mặc dù xác định có
dấu hiệu của tội phạm và CQĐT đã tiến hành khởi tố vụ án để tiến hành các


17

hoạt động điều tra cân thiết nhằm làm rõ tội phạm và ngƣời thực hiện tội
phạm, nhƣng qua quá trình điều tra đến khi hết thời hạn điều tra CQĐT vẫn
không xác định đƣợc nguời thực hiện hành vi phạm tội. Để tránh tình trạng
kéo dài thời hạn điều tra, gây tốn kém về mặt chất cũng nhƣ để giảm bớt nhu
cầu sử dụng lực lƣợng điều tra, BLTTHS đã quy định cho CQĐT tạm đình chỉ
điều tra. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, đối với trƣờng hợp khi đã hết thời hạn điều
tra mặc dù đã xác định đƣợc bị can bị can bỏ trốn dẫn đến việc không biết bị
can ở đâu thì CQĐT cũng đƣợc ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Trong

trƣờng hợp này CQĐT phải ra lệnh truy nã bị can trƣớc khi ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra. Khi bắt đƣợc bị can lại tiếp tục phục hồi điều tra.
1.3.1.2 Thẩm quyền và thủ tục tạm đình chỉ điều tra
* Thẩm quyền tạm đình chỉ điều tra
Điều 160 BLTTHS năm 2003 quy định CQĐT là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền tạm đình chỉ điều tra. Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
đƣợc luật TTHS quy định cho Thủ trƣởng CQĐT (khoản 2 Điều 34 Bộ luật
TTHS). Phó thủ trƣởng CQĐT cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ điều
tra nhƣng quyền này không phải là đối với tất cả mọi vụ án. Theo quy định
của luật TTHS thì Phó thủ trƣởng CQĐT chỉ có quyền này khi đƣợc Thủ
trƣởng CQĐT phân công điều tra vụ án hình sự (khoản 3 Điều 34 BL TTHS
năm 2003).
* Thủ tục tạm đình chỉ điều tra
Đối với trƣờng hợp CQĐT tạm đình chỉ theo căn cứ: do không biết bị
can đang ở đâu mà đã hết thời hạn điều tra BLTTHS quy định CQĐT phải ra
quyết định truy nã bị can trƣớc khi tạm đình chỉ điều tra. Trong quyết định ghi
rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã; họ tên, chức vụ
ngƣời ra quyết định; họ tên, tuổi, nơi cƣ trú của bị can; đặc điểm để nhận dạng
bị can, dán ảnh kèm theo (nếu có) và tội phạm mà bị can đã bị khởi tố. Quyết


18

định truy nã đƣợc thông báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng để mọi
ngƣời phát hiện, bắt giữ ngƣời bị truy nã.
Đối với trƣờng hợp CQĐT đã trƣng cầu giám định nhƣng chƣa có kết
quả giám định mà hết thời hạn điều tra thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ
điều tra, tạm ngừng các hoạt động điều tra còn việc giám định vẫn tiếp tục
đƣợc tiến hành cho đến khi có kết quả. Quy định nhƣ trên của BLTTHS năm
2003 là hợp lý bởi: Quá trình giám định phụ thuộc vào trình độ chuyên môn

của ngƣời giám định, phƣơng tiện kỹ thuật, nội dung, yêu cầu giám định …
Do đó, nhiều trƣờng hợp giám định cần thời gian dài mới có kết quả. [1, tr
351]. Khi có kết quả giám định của Hội đồng giám định pháp y kết luận bị
can bị bênh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì CQĐT bổ sung thêm quyết
định đó vào hồ sơ vụ án. Trƣờng hợp Hội đồng giám định pháp y kết luận bị
can không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì CQĐT hủy quyết
định tạm đình chỉ điều tra và phục hồi điều tra đối với vụ án và bị can đó.
Đối với vụ án có nhiều bị can mà trong đó có một hoặc một số bị can
có căn cứ để tạm đình chỉ điều tra thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều
tra đối với từng bị can đó (nếu việc tạm đình chỉ đó không làm ảnh hƣởng tới
hoạt động điều tra đối với các bị can khác). Quy định này không làm ảnh
hƣởng đến việc giải quyết toàn bộ vụ án, giúp CQTHTT kịp thời phát hiện và
xử lý tội phạm; kịp thời khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra đồng thời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những bị can có lý do tạm đình chỉ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 160 BLTTHS năm 2003 quy định: “
CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho viện
kiểm sát cùng cấp, bị can và ngƣờ bị hại”. Theo quy định này thì khi có các
căn cứ để tạm đỉnh chỉ điều tra CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra và
gửi cho VKS cùng cấp, bị can và ngƣời bị hại. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 160
BLTTHS năm 2003 lại không quy định cụ thể quyết định tạm đình chỉ điều


19

tra phải gồm những nội dung gì và phải gửi cho VKS trong thời hạn bao
nhiêu ngày từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Đây là một thiếu sót
trong quy định của BLTTHS dẫn tới sự tùy tiện trong việc áp dụng quy định
về tạm đình chỉ điều tra.
1.3.2. Quy định về đình chỉ điều tra
1.3.2.1 Căn cứ đình chỉ điều tra

Khoản 2 Điều 164 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “CQĐT ra quyết
định đình chỉ điều tra trong những trƣờng hợp sau đây:
a, Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều
107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật
hình sự;
b, Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh đƣợc bị can đã thực
hiện tội phạm”.
Căn cứ quy định trên thì CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra khi có
một trong những căn cứ sau:
* Ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố trƣớc ngày mở phiên tòa sơ thẩm
(Khoản 2 Điều 105).
Khoản 2 Điều 105 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trƣờng hợp ngƣời
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trƣớc ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải
đƣợc đình chỉ”
Trong trƣờng hợp có căn cứ để xác định ngƣời đã yêu cầu khởi tố rút
yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cƣỡng bức thì tuy ngƣời
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, CQĐT, VKS, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến
hành tố tụng đối với vụ án”.
Đây là một quy định hoàn toàn mới so với quy định của Bộ luật TTHS
năm 1988. Khoản 2 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 1988 không quy định rõ nhƣ
thế nào là trƣờng hợp cần thiết để VKS, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành


20

tố tụng đối với vụ án; Bộ luật TTHS năm 1988 cũng không quy định thẩm
quyền xem xét để quyết định tiếp tục điều tra vụ án khi có ngƣời bị hại rút
yêu cầu cho CQĐT..
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 1988 thì khi ngƣời bị hại rút yêu
cầu khởi tố trƣớc ngày mở phiên tòa sơ thẩm không đƣợc coi là căn cứ bắt

buộc CQĐT phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định đình chỉ điều tra khi ngƣời bị hại rút
yêu cầu khởi tố trong giai đoạn điều tra là một quy định tiến bộ. Bởi: Ngƣời
bị hại là ngƣời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần và tài sản do hành vi phạm tội
gây ra [ 3, tr 3]. Khi CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra có thể gây
thêm những tổn thất về tinh thần cho ngƣời bị hại, làm lộ bí mật đời tƣ của
họ. Mặc dù trƣớc đó họ đã có yêu cầu khởi tố nhƣng trong giai đoạn điều tra
do phải chịu thêm những thiệt hại về mặt tinh thần họ không muốn tiếp tục
nên đã rút yêu cầu. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
trong trƣờng hợp này Bộ luật TTHS đã quy định CQĐT phải đình chỉ điều tra,
chấm dứt mọi hoạt động điều tra đối với vụ án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật TTHS năm 2003 thì có 11
trƣờng hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của ngƣời bị hại. Đó là các trƣờng hợp
quy định tại khoản 1 Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và
171 của BLHS năm 1999. Theo quy định của luật sửa đổi bổ sung một số điều
của BLHS 1999 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010), các hành vi xâm phạm
quyền tác giả quy định tại Điều 131 nay không truy cứu TNHS nữa. Nhƣ vậy,
hiện nay chỉ còn 10 trƣờng hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của ngƣời bị hại và
trong những trƣờng hợp này khi họ rút yêu cầu trong giai đoạn điều tra thì
CQĐT phải đình chỉ điều tra.
Quy định đình chỉ điều tra khi ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố trong
giai đoạn điều tra là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị hại.


21

Nhƣng có không ít trƣờng hợp ngƣời bị hại rút yêu cầu khởi tố trái với ý
muốn của họ do bị ép buộc, cƣỡng bức. Ngƣời bị hại khi đã yêu cầu khởi tố
vụ án là họ mong muốn ngƣời thực hiện hành vi phạm tội phải bị trừng trị.
Nhƣng do bị ngƣời khác ép buộc, cƣỡng bức nên họ phải rút yêu cầu trái với

ý muốn của họ.Trong trƣờng hợp này khi CQĐT xác định đƣợc có căn cứ cho
rằng ngƣời bị hại rút yêu cầu do bị ép buộc, cƣỡng bức thì vẫn tiến hành các
hoạt động điều tra đối với vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều trƣờng hợp
CQĐT không xác định đƣợc ngƣời bị hại có bị ép buộc hay không nên vẫn
đình chỉ điều tra. Việc xác định ngƣời bị hại có bị ép buộc hay không phụ
thuộc rất lớn vào trách nhiệm của ĐTV khi tiến hành điều tra xác minh. Nhiều
ĐTV khi thấy có đơn xin rút yêu cầu khởi tố của ngƣời bị hại là coi nhƣ đã có
căn cứ đình chỉ điều tra mà không xác minh xem việc rút đơn của ngƣời bị hại
đó là tự nguyện hay do bị ép buộc, cƣỡng bức. Do đó, đã để xảy ra tình trạng
bỏ lọt tội phạm, không bảo về đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị
hại. Theo chúng tôi thì vấn đề xác định việc rút yêu cầu của ngƣời bị hại là bị
ép buộc, là trái với ý muốn của ngƣời bị hại phải có tài liệu chứng minh,
không đƣợc căn cứ vào suy diễn chủ quan của ngƣời bị hại hoặc ngƣời THTT.
* Có một trong những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự quy
định tại Điều 107 Bộ luật TTHS năm 2003.
- Không có sự việc phạm tội
Sự việc phạm tội là sự việc do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra.
Khi có sự việc phạm tội, cơ quan có thẩm quyền phải khởi tố vụ án hình sự để
tiến hành điều tra làm rõ tội phạm và ngƣời phạm tội. Thông qua những
nguồn tin ban đầu nhƣ tin báo, tố giác về tội phạm… các cơ quan có thẩm
quyền ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm; kiểm tra xác minh
nguồn tin đó xem có sự việc xảy ra hay không. Nếu có sự việc thì xem sự việc
đó có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Nếu có dấu hiệu của tội phạm thì


22

ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để điều tra. Lúc đầu CQĐT khởi tố vụ án
dựa trên những nguồn tin nhận đƣợc, do quá trình xử lý thông tin chƣa chính
xác, chƣa thu thập đầy đủ thông tin nên có thể có những nhận định sai về vụ

án. Trong quá trình điều tra, CQĐT áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để
tiến hành thu thập chứng cứ, tài kiệu nên CQĐT đã xác định đƣợc sự thật của
vụ án một cách khách quan. Trong trƣờng hợp CQĐT xác định không có sự
việc phạm tội, việc khởi tố vụ án ban đầu là sai thì phải đình chỉ điều tra để
khắc phục những nhận định sai lầm ban đầu. Bởi nếu không đình chỉ mà vẫn
tiếp tục điều tra thì không những không thu đƣợc kết quả mà còn gây ra
những tốn kém về mặt vật chất cho Nhà nƣớc, nhiều trƣờng hợp dẫn đến làm
oan ngƣời vô tội. Nhƣ vậy, rõ ràng trong trƣờng hợp này, nguyên nhân dẫn
đến phải đình chỉ điều tra ở đây là xuất phát từ việc đã qua một quá trình điều
tra nhƣng không thu thập đƣợc chứng cứ chứng minh tội phạm, nó cho phép
đánh giá lại quá trình nhận thức ban đầu của CQĐT khi ra quyết định khởi tố
vụ án.
- Hành vi không cấu thành tội phạm
“ Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu đặc trƣng có tính đặc
trƣng cho loại tội phạm cụ thể đƣợc quy định trong luật hình sự” [31, tr.74].
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó có đầy đủ dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm cụ thể đƣợc quy định trong BLHS. Nếu hành vi không có
hoặc có nhƣng không đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào
thì hành vi đó không phải là tội phạm và ngƣời đã thực hiện hành vi đó không
bị truy cứu TNHS. Nhƣ vậy, Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi
không thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS.
Điều 2 BLHS đã khẳng định: “Chỉ ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc
BLHS quy định mới phải chịu TNHS…”. Nhƣ vậy, xét về mặt pháp lý, con


×