Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thi hành án hành chính những vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.33 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ ĐÌNH PHÙNG

THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 60 38 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Hồng Quang

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Thời gian qua, hoạt động THAHC đã có những chuyển biến và đạt
được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế lĩnh vực THAHC
vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong việc tổ
chức THAHC cũng như công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Điều đó dẫn đến hiện tượng nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức không chấp
hành bản án, không tự nguyện thi hành án, thậm chí còn có sự can thiệp
không đúng pháp luật vào việc thi hành án.
Vì vậy, yêu cầu đổi mới tổ chức, thủ tục thi hành án là xu hướng tất
yếu trong quá trình cải cách và hội nhập quốc tế. Để thực hiện điều đó,


trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án nói chung và
THAHC nói riêng. Trong công tác thi hành án, tác giả luôn nghiên cứu,
tìm hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về thi hành án có tính hiệu quả
nhất cho công tác THAHC và cùng với lý do chọn đề tài được nêu dưới
đây làm luận văn của mình.
Với tất cả sự kính trọng, tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô
đã dành thời gian đọc và cho ý kiến nhận xét về bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp xa gần và gia đình đã động
viên giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Cơ sở lý luận - pháp lý về thi hành án hành chính ở Việt Nam.

9

1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án hành chính

9

1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án hành chính

13

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Thi hành án hành chính trong thi


15

hành an dân sự Việt Nam
1.4. Thi hành án hành chinh một số nước trên thế giới

17

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn Thi hành án hành chính.

24

1. Thực trạng pháp luật về thi hành án hành chính
1.1. Tổ chức thi hành án hành chính .

24
24

2. Thẩm quyền thi hành án hành chính

29

1.3. Chấp hành viên

32

1.4. Thủ tục thi hành án về tài sản trong bản án, quyết định về hành chính

35


2. Thực tiễn thi hành án hành chính

45

2.1. Thực tiễn thi hành án hành chính.

46

2.2. Pháp luật về thi hành án dân sự được xây dựng và hoàn thiện hơn

51

2.3. Bộ máy Cơ quan thi hành án dân sự được củng cố và tăng cường hơn,

53

cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho Cơ quan thi hành án
được đảm bảo
2.4. Những bất cập trong thi hành án hành chính

54

Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án.

59

1. Đổi mới tổ chức.

59


1.1. Về trước mắt, đổi mới tổ chức về cơ quan quản lý nhà nước về thi hành 59
án hành chính
1.2. Về lâu dài, thống nhất công tác thi hành án về một mối ( gồm cả thi

63


hành án hành án dân sự và thi hành án hành chính ) do bộ Tư pháp hoặc bộ
Cụng an đảm nhiệm
2. Quy định lại về thẩm quyền thi hành án hành chính của cơ quan thi hành 63
án dân sự.
3. Quy định rõ biện pháp chế tài.

64

4. Án phải tuyên rõ để không thể hiểu lấp lửng rồi cố tình không thi hành

67

án.
KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hành chính nói riêng và thi hành án dân sư nói chung là một
nội dung quan trọng của hoạt động nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền vai trò
pháp chế luôn được đề cao, pháp luật được đảm bảo thực hiện. Pháp chế đòi hỏi
phải chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh công lý mà Tòa án đã
tuyên. Thông qua hoạt động thi hành án, những bản án, quyết định của Tòa án
được thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức được bảo vệ,
công bằng xã hội được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực nhà
nước sẽ chỉ là quyết định trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành
không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ làm vô hiệu
hóa toàn bộ hoạt động của các cơ quan tố tụng ở giai đoạn trước, gây tổn hại đến
trật tự, kỷ cương làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của
pháp luật. Vì vậy, thi hành án nói chung, thi hành án hành chính nói riêng có vai
trò rất lớn trong việc góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành quả đã đạt được, vẫn còn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; kỷ cương, sự tuân thủ pháp luật có rất nhiều
vấn đề phải đặt ra và giải quyết. Ý thức chấp hành pháp luật còn rất kém ngay cả
khi những chủ thể có trình độ học vấn cao, rất am hiểu pháp luật, các nguyên tắc
của Đảng và Nhà nước nhưng ý thức tuân thủ pháp luật còn rất yếu. Thậm chí có
những chủ thể


2
lợi dụng chức vụ quyền hạn để lách luật, chây ỳ không tuân thủ pháp luật.

"Đặc biệt là tình trạng không thi hành, chậm thi hành, thi hành không đến nơi đến
chốn và không theo dõi việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Toà án trong lĩnh vực giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật
gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, gây lo lắng cho toàn xã hội".
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ
vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng
định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự trong đó có thi hành án hành chính,
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao
vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án" [1]. Nhiều năm qua, Chính phủ
đã xác định công tác thi hành án dân sự trong đó có thi hành án hành chính là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo
sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự
trong những năm qua đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật
nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được
hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt
động có hiệu quả bước đầu" [35]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án


3
dân sự nói chung và thi hành án hành chính nói riêng hiện vẫn đang đứng trước

những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần
được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án chưa cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt
động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của
pháp luật.
Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án hành chính những năm qua là
tình trạng án không thống kê được đầy đủ chính xác việc thi hành án hành chính.
Vì tình trạng thả nổi việc thi hành án hành chính những năm vừa qua…
Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án hành chính
hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân:ý thức tuân thủ
pháp luật của một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân
(kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối
hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu
quan trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành
án hành chính chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án
hành chính chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và
cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiểu quả công
tác thi hành án dân sự nói chung và thi hành án hành chính nói riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng trên, phải nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự nói chung và thi hành án hành chính nói riêng bằng cách nghiên cứu đề
ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ... Nhưng trong khuôn khổ luận văn luật học, chúng
tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề liên quan đến pháp luật.
Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thi hành án hành
chính những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật
học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.


4
Trong công tác thi hành án dân sự nói chung, thi hành án hành chính nói

riêng đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự, kỷ cương pháp luật đưa
pháp luật vào cuộc sống. Bên cạnh những đóng góp tích cực vào việc giữ gìn trật
tự, kỷ cương pháp luật đưa pháp luật vào cuộc sống nâng cao ý thức pháp luật,
phổ biến giáo dục pháp luật thực tiễn thi hành án hành chính cũng đã đặt ra nhiều
vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học về thi hành án nói chung và thi hành án hành
chính nói riêng phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như:
khái niệm thi hành án hành chính, địa vị pháp lý của người phải chấp hành án
hành chính, cơ quan thi hành hành chính...Trong khi đó, xung quanh những vấn
đề lý luận về thi hành án hành chính còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thi hành án hành chính những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam" để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc về mặt
lý luận cũng như thực tiễn thi hành án hành chính, góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thi hành án hành chính, hướng dẫn thống nhất áp dụng các
quy định đó là vấn đề mang tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành
án dân sự trong đó có thi hành án hành chính, đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề này cụ thể là: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý
thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa
học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn
mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn
thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận
án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả


5
Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê

Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam";: Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số
95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư
pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sĩ luật học của tác
giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi
hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự
của trường Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số
bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự
trong đó có thi hành án hành chính ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác
nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, chuyên sâu về lĩnh vực thi hành án hành chính cũng như đề ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính..
Việc nghiên cứu về nội dung của Luận văn này được tác giả tiến hành cùng
với quá trình nghiên cứu, sửa đổi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, 2004
và 2008. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chình vào năm 1998 và
năm 2006, pháp lệnh này đã được nâng lên thành luật Tố tụng hành chính và đã
được thông qua tại kỳ họp quốc hội vừa qua. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu về vấn đề thi hành án hành chính và các cơ chế liên quan đến công tác
thi hành án hành chính từ trước đến nay ở Việt Nam cũng như tham khảo kinh
nghiên nước ngoài về lĩnh vực này, luận văn tiếp cận và tập trung vào một số vấn
đề thực tiễn để khái quát, làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như thực tiễn để từ đó


6
kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án hành
chính trong giai đoạn hiện nay

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
a) Mục đích:
Nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi
hành án hành chính để đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hành
chính ở nước ta.
b) Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, tác giả của khóa luận đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận - thực tiễn về thi hành án hành chính.
- Đánh giá thực tiễn thi hành án hành chính, nêu ra mặt được, mặt chưa
được của việc thi hành án hành chính.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính ở
Việt Nam.
c) Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính tại các
cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Đánh giá những điểm hợp lý và bất
hợp lý trong qui định của pháp luật hiện hành, tìm ra những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến hiệu quả thi hành án hành chính hiện nay
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, bao gồm: những vấn đề lý
luận về thi hành án hành chính, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về ý nghĩa
và vai trò của việc thi hành án hành chính trong việc bảo đảm quyền cơ bản của
công dân và tính tối thượng của pháp luật trong nền pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Những vấn đề thực tiễn qua hoạt động thi hành án hành chính thời gian qua.


7
- Trên cơ sở định hướng đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan Thi hành án và
cải cách tư pháp, xác định phương hướng hoàn thiện pháp luật nhằm đổi mới cơ
chế thi hành án hành chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện nay
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề về thi hành án hành

chính trong thi hành án dân sự và trong các cơ quan hành chính nhà nước, không
nghiên cứu đến vấn đề thi hành án nói chung và cũng không đề cập đến thi hành
án hình sự đựoc qui định chung trong các văn bản pháp luật khác.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn về thi hành án hành chính trong thi hành án dân sự và trong
các cơ quan hành chính nhà nước; đánh giá thực trạng thi hành án hành chính và
từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật về thi hành án
hành chính nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính trong điều kiện mới
của đất nước.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách thi hành án nói chung, chính sách thi hành
án hành chính nói riêng. Đề tài được thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về thi hành án trong đó
có thi hành án hành chính. Cơ sở thực tiễn của các báo cáo chuyên đề về thi hành
án hành chính của UBND các cấp, các địa phương, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân
tối cao...
Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau:
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, so sánh, thống kê.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài


8
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của khóa luận có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động thi hành án hành chính ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ
thống các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính có ý nghĩa góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án hành chính, hướng dẫn
áp dụng thống nhất các quy định về thi hành án hành chính, giúp các cơ quan thi

hành án hành chính có các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, thuyết phục thậm
chí có các biện pháp chế tài mạnh buộc người phải thi hành án chấp hành án theo
quy định pháp luật.
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái
niệm thi hành án và thi hành án hành chính, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi
hành án hành chính trong thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú
thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án.
- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành án hành chính, tác giả
đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thi hành án hành chính trong việc thống nhất về thi hành hành
án.
- Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án hành chính, tác giả đã phân tích
những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án hành chính.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận - pháp lý về thi hành án hành chính ở Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn thi hành án hành chính ở Việt Nam.
- Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính ở
Việt Nam.


9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ
VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM.
1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án hành chính
1.1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án
Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án nhân

dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là thi
hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp lý.
Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp cận khác
nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ bản, đó là quan
điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi thi hành án là hoạt
động hành chính - tư pháp [27].
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá
trình tố tụng. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình
giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn
chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử, giai
đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành
án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ
thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử
là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò và trách nhiệm của
Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án
trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có sai sót hoặc sai lầm về số liệu"
trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của
Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay "xem xét, kháng
nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có
vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của
việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách
thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án.


10
Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố
tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án

chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác
định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác,
không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì
"thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự
thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải
quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật" [34, tr.21].
Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi hành
án:
Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [39, tr. 8]. Bởi
vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi hành án
phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh
hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân
những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định
như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức và người có thẩm
quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng qua cũng chỉ
để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tổ chức thi
hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án (nhất là thi hành
án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính - tư pháp vì hoạt động thi hành
án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là không hợp lý vì một


11
hoạt động mang bản chất như thế nào không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực
hiện nó.
Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp [38, tr. 11]. Theo
tác giả thì không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt
động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét đến bản chất

của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo thủ
tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp
luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ
tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố
tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng thi hành án.
Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án, thì tất cả các bản án,
quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính chất tư pháp hiểu theo nghĩa
rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất
cả những lý do nêu trên thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng
tư pháp.
Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính- tư
pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt
động mang tính tư pháp, hay là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, cũng
không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa không truyền thống như quan điểm thứ tư để
coi thi hành án là hoạt động tố tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện cả hai
đặc điểm rất rõ đó là tính hành chính và tính tư pháp trong hoạt động của mình. Vì
thế nên coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính
- Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án.
Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành


12
các hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì
không có hoạt động thi hành án. Là một dạng hoạt động hành chính nhà nước, thi
hành án thể hiện tính chấp hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá trình thi thành án
với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những
nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo các

quy định cụ thể của pháp luật" [34].
- Trong quá trình thi hành án, Cơ quan thi hành án tác động tới đối tượng
phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp dụng các biện
pháp buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định
của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, giáo dục họ và
những người xung quanh về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập
thể và cá nhân, kỷ cương của Nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của
hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là
những tính chất của hoạt động quản lý.
- Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết
nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc trưng
(đặc biệt là trong thi hành án hình sự).
Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà nó
còn thể hiện tính hành pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động tư pháp
- Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành.
Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ
chức thi hành án các bản án và quyết định phức tạp.
- Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của các cá
nhân như Chấp hành viên, Giám thị viên... những người được Nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành nhiệm vụ họ


13
chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ. Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ thi hành án.
- Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Bao gồm các quy định của
pháp luật (được thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật (văn
bản áp dụng pháp luật).

- Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các
bản án, quyết định nói trên được thực thi trên thực tế.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi hành án là
hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước, người
có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm
quyền.
1.1.2. Khái niệm, bản chất thi hành án hành chính
Vì thi hành án hành chính là một loại hình của thi hành án dân sự, nên cũng có thể
hiểu
Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế nào
về " quyết định hành chính và hành vi hành chính " trong thi hành án hành chính.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án hành chính
1.2.1. Thi hành án hành chính là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử
của Tòa án và hoạt động tư pháp khác
Hoạt động thu thập, xác minh… và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết định
của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi hành án
hành chính là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của công tác
xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo.


14
Mặt khác, thi hành án còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán
quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét
xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất, hiện thực khách quan, có lý, có
tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi hơn những trường hợp bản án,
quyết định của Tòa án không đúng sự thật, không phù hợp với thực tế khách
quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc người phải thi hành ỏn không tự nguyện

thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi không phải vì cơ quan thi
hành án làm sai mà vì không đồng tình với quyết định của Tòa án nên cố tình trì
hoãn việc thi hành án.
1.2.2. Thi hành án hành chính góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
nhân dân
Đặc thù của thi hành án hành chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ
động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ
đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan và sự
đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm
của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án hành chính, thi hành án không chỉ là
hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là trách
nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành
viên trong cộng đồng. Thông qua công tác thi hành án, ý thức pháp luật của nhân
dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng lên.
1.2.3. Thi hành án hành chính góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an
toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Công tác thi hành án dân sự nói chung, thi hành án hành chính nói riêng
có một ý nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua hoạt
động thi hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý
chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá
trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được


15
thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án hành chính không được
quan tâm và không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ
hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi
phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân bị xâm hại. Thi hành án hành chính đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho
nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương,

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, một bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho thấy sự
thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài
trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền lôi
kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Thi hành án hành chính
trong thi hành an dân sự Việt Nam
Dưới thời Pháp thuộc, thi hành án dân sự hình thành với tên gọi Thừa phát
lại. Nhưng đến khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công tác thi
hành án nói chung, thi hành án hành chính trong thi hành án dân sự nói riêng đã
có sự thay đổi đáng kể.
Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án Việt
Nam từ năm 1945 đến nay, chúng ta có thể chia thành các giai đoạn sau:
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1996
Là giai đoạn mà tổ chức, hoạt động thi hành án hành chính chưa được
hình thành, chưa có một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành (Quốc hội hoặc ủy ban Thường vụ
Quốc hội). Giai đoạn này, công tác thi hành án hành chính núi riêng và thi hành
án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án.
1.3.2. Giai đoạn từ 1996 đến nay


16
Để khắc phục hạn chế nói trên, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX
ngày 06/10/1992 đã thông qua nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ
Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh thi hành án dân sự
1993 thay thế Pháp lệnh dân sự năm 1989 đã tạo bước ngoặt lớn về tổ chức và
hoạt động thi hành án, đưa công tác này sang một giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu
của đất nước trong thì kỳ đổi mới. Theo đó, công tác thi hành án dân sự được
chuyển từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Mô hình tổ

chức cơ quan thi hành án dân sự được thiết lập với hai loại cơ quan: Cơ quan
quản lý thi hành án dân sự và Cơ quan thi hành án dân sự. Địa vị pháp lý của
Chấp hành viên, quyền tự định đoạt của đương sự tiếp tục được khẳng định. Ngoài
ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 cũng có những qui định nhằm xác lập cơ chế
phối hợp của các ngành, cấp trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, do
được ban hành trong điều kiện khẩn trương nhằm kịp thời triển khai thi hành nghị
quyết về bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ
quan của Chính phủ, nên những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 1993 là rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào sự chuyển đổi cơ chế thi
hành án, mà không có sự sửa đổi, bổ sung về mặt trình tự, thủ tục thi hành án. Do
đó việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là nhu cầu cấp
bách nhằm đáp ứng thực tiễn đòi hỏi.
Ngày 21 tháng 5 năm 1996, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Pháp lệnh này cú hiệu lực thi hành
kể từ ngày 09 tháng 7 năm 1996 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 cũng
không quy định rừ cơ quan quản lý thi hành án hành chính, trình tự thủ tục thi
hành án hành chính…. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Ngày 14/01/2008, Quốc hội thông qua Luật thi hành án dân sự năm 2008
thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Về mặt nội dung, Luật thi hành
án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, có nhiều nội dung


17
đã được phát triển thêm, có nhiều nội dung hoàn toàn mới được bổ sung cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư
pháp và cải cách hành chính hiện nay.
Ngày 24 tháng 11 năm 2010, Quốc hội thông qua Luật tố tụng hành chính
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Luật tố tụng hành chính
đó được nghiên cứu sửa đổi, bổ sưng qua các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chình vào năm 1998 và năm 2006 để phự hợp với thực tiễn. Điều đỏng

chú ý ở đây là Luật tố tụng hành chính quy định cả một chương về trình tự thủ tục
thi hành án hành chính và quy định cụ thể giao cho Bộ tư pháp thống nhất quản lý
về thi hành án hành chính.
1.4. Thi hành án hành chinh một số nước trên thế giới
1.4.1. Về tổ chức thi hành án
Tùy theo đặc điểm về truyền thống pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở
từng quốc gia mà tổ chức thi hành án dân sự được pháp luật qui định là một tổ
chức công, bán công hoặc là do tư nhân đảm nhiệm [21].
* Thi hành án công
ở mô hình này tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ
máy nhà nước, các Chấp hành viên và công chức, viên chức hưởng lương từ Ngân
sách Nhà nước. Mô hình tổ chức thi hành án công có thể phân làm hai loại: Cơ
quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án và các cơ quan hành chính
tư pháp hoặc cơ quan thuế.
- Cơ quan thi hành án nằm trong Tòa án
Tổ chức thi hành án ở các nước này là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án, Chấp hành viên là công chức đặt tại Tòa án do Chánh án hoặc
Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dưới sự giám
sát chỉ đạo của Chánh án Tòa án địa phương hoặc thẩm phán thi hành án. Mặc dù


18
vậy, hoạt động thi hành án được tiến hành theo một thứ tự chặt chẽ cho Chấp
hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật.
Điển hình là Trung Quốc. Tòa án đảm nhiệm việc thi hành án dân sự, bản
án, quyết định dân sự và phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự đã có hiệu
lực pháp luật do Tòa án nhân dân sơ thẩm thi hành. Những bản án, quyết định mà
pháp luật qui định do Tòa án nhân dân thi hành sẽ do Tòa án nhân dân nơi người
phải thi hành án cư trú hoặc nơi có tài sản của người phải thi hành án tiến hành.
Công tác thi hành án do Thi hành viên đảm nhiệm. Căn cứ vào yêu cầu thực tế,

Tòa án nhân dân cơ sở, Tòa án nhân dân trung cấp có thể lập cơ quan thi hành án.
Chức trách của cơ quan thi hành án do Tòa án nhân dân Tối cao quy định.
- Cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế
Các cơ quan thi hành án loại này được chia làm hai dạng sau:
Một là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một hệ
thống từ Trung ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan
quản lý hành chính tư pháp.
Ví dụ như Thái Lan: Tổ chức cơ quan thi hành án bao gồm: Ban thư ký,
Ban tài chính, Ban thi hành án dân sự, Ban thực hiện dịch vụ theo chỉ định các vụ
phá sản; Trung tâm nhận giữ tài sản, Ban kết toán thi hành án và nhận giữ tài sản
của các khu vực và tỉnh thành.
Hai là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một hệ
thống từ Trung ương đến khu vực đặt dưới sự quản lý của Hội đồng thuế quốc
gia.
Ví dụ như ở Thụy Điển, các cơ quan thi hành án thuộc hệ thống các cơ
quan nhà nước. ở cấp Trung ương có cơ quan thi hành án trực thuộc Bộ tài chính,
ở địa phương tương đương với 10 khu vực hành chính có 10 cơ quan thi hành án
khu vực. Trong mỗi cơ quan thi hành án có Giám đốc, Chấp hành viên, nhân viên
thanh tra với nhân viên hành chính.


19
* Tổ chức thi hành án bán công
Tổ chức thi hành án bán công là tổ chức thi hành án mà do công chức thực
hiện đối với một số việc thi hành án nhất định như thu thuế, thi hành án đối với
bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền... vừa cho
viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn công việc thi hành án dân sự trên
nguyên tắc lấy thu bù đắp chi phí thi hành án. Tương tự như tổ chức thi hành án
công, tổ chức thi hành án bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa
án, hoặc các cơ quan hành chính.

Ví dụ ở Đức: Việc thi hành án dân sự do Tòa án khu vực đảm nhiệm. ở
Tòa án này có thẩm phán, nhân viên Tòa án, Chấp hành viên và nhân viên thi
hành án. Chấp hành viên chịu sự giám sát trực tiếp của Chánh án Tòa án cấp khu
vực. Tuy là công chức nhưng Chấp hành viên thực hiện công việc của mình một
cách độc lập, có con dấu riêng, được hưởng một khoản lương cố định. Chấp hành
viên không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòng riêng và được quyền
tuyển nhân viên giúp việc. Chấp hành viên được hưởng lương, được hưởng 15%
lệ phí thi hành án các khoản tiền thanh toán chi phí khác như: đi lại, sao chụp tài
liệu.
1.4.2. Thủ tục thi hành án một số nước trên thế giới
Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thủy, thì thủ tục thi hành án
dân sự trong đú cú thi hành ỏn hành chớnh của một số nước trên thế giới được thể
hiện qua những vấn đề sau:
* Về quyền yêu cầu thi hành án
Hầu hết ở các nước đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đương sự,
điều đó được thể hiện bằng việc pháp luật qui định về quyền yêu cầu thi hành án.
Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành, thì người được thi hành án có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Cơ quan thi hành không
được từ chối yêu cầu của người được thi hành án nếu không có lý do đã được


20
pháp luật qui định, cho dù cơ quan thi hành án là một cơ quan nhà nước hay hoạt
động với tính chất là tổ chức Thừa phát lại.
* Về lệ phí thi hành án
Pháp luật nhiều nước (Pháp, Nhật, Thụy Điển...) đều cho phép cơ quan thi
hành án thu lệ phí thi hành án. Tùy điều kiện của mỗi nước mà mức lệ phí có
khác nhau, nhưng về nguyên tắc mức lệ phí đó thu đủ để chi phí cho hoạt động thi
hành án. Lệ phí thi hành án được tính trên cơ sở mức lệ phí tối thiểu (người yêu
cầu phải nộp khi nộp đơn yêu cầu thi hành án) và lệ phí trên giá trị tài sản thi

hành án (được tính theo phần trăm giá trị tài sản thi hành được). Ngoài ra, ngân
sách nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ yếu là việc
chi trả lương cho Chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là thiết chế thuộc
bộ máy nhà nước (Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Singapore…).
Các chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án chịu, trường
hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ thì có thể do người được thi hành
án chịu.
* Việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án
ở nhiều nước, pháp luật qui định người được thi hành án có nghĩa vụ cung
cấp các thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cũng như đề
nghị biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để cơ quan thi hành án thực hiện
(Thụy Điển, Nhật Bản…). ở các nước này, việc quản lý thu nhập, tài sản của cá
nhân, tổ chức nói chung và người thi hành án nói riêng rất chặt chẽ, thể hiện ở hệ
thống các cơ quan đăng ký tài sản. Mọi người đều có quyền yêu cầu cơ quan này
cung cấp các thông tin về tài sản, nhất là các thông tin về bất động sản của một cá
nhân hay một tổ chức nào đó phải nộp một khoản lệ phí cho họ (Mỹ, Pháp, Nhật).
Ngoài ra, giữa cơ quan thi hành án và cơ quan đăng ký tài sản có thể trao đổi


21
thông tin qua mạng máy tính khi cần xác định điều kiện tài sản của người phải thi
hành án.
* Về thời hiệu thi hành án
ở các nước khác nhau, thời hiệu thi hành án được quy định cũng khác
nhau. Nhưng so sánh với Việt Nam, thì các nước qui định thời hiệu thi hành án
dài hơn. Ví dụ ở Cộng hòa Liên bang Đức, thời hiệu thi hành án là 30 năm kể từ
ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; ở Thụy Điển thời hiệu thi hành án
là 10 năm. Hết 10 năm người phải thi hành án có đơn yêu cầu chấm dứt việc thi
hành án, nhưng sau 11 năm có đơn yêu cầu của người được thi hành án thì Tòa án

vẫn phải thi hành án.
* Các biện pháp chế tài đối với người cố tình không thi hành án
Pháp luật nhiều nước qui định các biện pháp chế tài có tính cưỡng bức đối
với người phải thi hành án, nếu họ cố tình không chấp hành các yêu cầu của chấp
hành viên, cố tình không thi hành án.
Ví dụ như ở Cộng hòa Liên bang Đức: chấp hành viên có quyền yêu cầu
cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan thi hành án nếu đương
sự cố tình trốn tránh, tuy được báo gọi nhiều lần mà không đến. Chấp hành viên
có quyền khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở
khóa nhà, khóa phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khóa, nếu thấy việc đó cần
thiết cho việc thi hành án. Nếu con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, Chấp hành
viên có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. Trường hợp đương sự
không có tài sản gì để thi hành án thì chủ nợ được quyền yêu cầu Tòa thi hành án
triệu tập con nợ đến Tòa để buộc con nợ phải tuyên thệ về việc không có tài sản
đó. Nếu con nợ không chịu tuyên thệ thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án bắt
giam cho đến khi con nợ đồng ý tuyên thệ.
ở Thụy Điển, Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu
đã phạt tiền mà con nợ vẫn không đến thì cơ quan thi hành án có quyền yêu cầu


×