Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.78 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THÙY VÂN

THỦ TỤC TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Mai

Hà Nội 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong một
công trình khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Thị Thùy Vân



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1
Chương 1

7

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1

Khái niệm thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự

7

1.2

Ý nghĩa của thủ tục tái thẩm

17

1.3

Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về thủ tục

19


tái thẩm
Chương 2

46

THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ THỦ TỤC
TÁI THẨM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1

Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm

46

2003 về thủ tục tái thẩm
2.2

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thủ tục tái thẩm

52

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

CHLB

Cộng hòa liên bang

HĐXX

Hội đồng xét xử

HLPL

Hiệu lực pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

Tòa án quân sự

TAQSTƯ

Tòa án quân sự Trung ương

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSQS

Viện kiểm sát quân sự


VKSQSTƯ

Viện kiểm sát quân sự Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật được đặt ra là nhằm quản lý xã hội, đảm bảo quyền tự do,
công bằng, bình đẳng và quyền được bảo vệ các lợi ích hợp pháp của công
dân. Nhưng để pháp luật thực hiện được đúng vai trò đó của mình không phải
là điều dễ dàng mà nó phụ thuộc vào hai yếu tố chủ chốt là xây dựng pháp
luật và thi hành pháp luật.
Một trong các chủ thể thực hiện vai trò quan trọng trong thi hành pháp
luật là các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án. Nhà nước giao cho
Tòa án vai trò “cầm cân nảy mực” nhưng không phải trong mọi trường hợp
Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác đều có thể thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình mà trong một số trường hợp, vì lí do khác nhau có thể dẫn đến
những sai lầm trong điều tra, truy tố và xét xử.
Mặc dù các quy định của pháp luật TTHS đã xác định cơ chế hai cấp
xét xử vừa bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, vừa là điều kiện để Tòa án
cấp trên trực tiếp khắc phục những sai sót có thể có của Tòa án cấp sơ thẩm.
Song trên thực tế cơ chế này cũng chưa bảo đảm chắc chắn mọi bản án, quyết

định đã có HLPL của Tòa án các cấp hoàn toàn đúng. Vì nhiều lý do khác
nhau, vẫn còn tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, quyết định hình phạt không
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Vì thế, để khắc phục những sai sót của bản án hoặc quyết định đã có HLPL
của Tòa án khi phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định thì các bản án, quyết định đó sẽ được xem xét lại theo
trình tự tái thẩm. Đây là thủ tục tố tụng quan trọng đảm bảo cho vụ án hình sự
được giải quyết đúng đắn.


2

Tái thẩm không phải là một cấp xét xử thứ 3 mà là thủ tục xét lại bản
án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án. Bản án hoặc quyết định đã có
HLPL được xem xét lại trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền
khi phát hiện các tình tiết mới mà các tình tiết mới này chưa được xem xét và
đánh giá ở trong các giai đoạn xét xử trước. Tuy nhiên, liên quan đến tái thẩm
còn nhiều vấn đề nảy sinh từ thẩm quyền tái thẩm, số lượng các bản án, quyết
định được xem xét theo trình tự tái thẩm đến quá trình xem xét các bản án,
quyết định theo trình tự này.
Thủ tục tái thẩm đã được quy định trong pháp luật TTHS của nước ta
từ năm 1959 và dần được hoàn thiện qua BLTTHS năm 1988 và nay là 2003.
Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành những quy định của BLTTHS về thủ tục tái
thẩm đã bộc lộ những bất cập, khiến cho việc áp dụng các quy định về tái
thẩm trong thực tế còn nhiều vướng mắc, hạn chế. Mặc khác, những quy định
của BLTTHS về tái thẩm còn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích
một cách đầy đủ và thống nhất. Do những hạn chế trong quy định pháp luật
và thiếu hướng dẫn thi hành cần thiết của cơ quan có thẩm quyền nên vẫn còn
có những quan điểm khác nhau về bản chất và ý nghĩa của tái thẩm; sự phân

biệt giữa thủ tục tái thẩm và thủ tục giám đốc thẩm còn chưa rõ ràng; không
thống nhất trong nhận thức và áp dụng các điều luật cụ thể về tái thẩm. Trong
lĩnh vực khoa học pháp lý, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này
còn ít, còn có những quan điểm không thống nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu tái
thẩm một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn là điều cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo chúng tôi tìm hiểu thì hiện nay chưa có luận văn thạc sỹ nghiên
cứu về đề tài liên quan đến thủ tục tái thẩm. Đã có một số công trình nghiên
cứu về tái thẩm ở nhiều mức độ khác nhau:
Những nghiên cứu có tính đại cương khái quát có thể kể đến những phần
viết về tái thẩm trong các cuốn giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại


3

học Luật Hà Nội; các cuốn Bình luận khoa học BLTTHS năm 1988 của Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (1992) và Bình luận khoa học
BLTTHS năm 2003 do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2004). Những
nghiên cứu về tái thẩm trong các tác phẩm này chủ yếu chỉ là phân tích các
điều luật. Do vậy, các vấn đề về tái thẩm tuy khá toàn diện nhưng lại không
mang tính chuyên sâu.
Bên cạnh đó, có những nghiên cứu của các tác giả lại đề cập đến từng
nội dung của thủ tục tái thẩm đăng trên các tạp chí chuyên ngành như các bài:
Về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm 2003 của
tác giả Vũ Gia Lâm (Tạp chí Luật học, Số 10, năm 2006); Những điểm mới
trong bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi về phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm của TS. Nguyễn Đức Mai (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nhà
nước và pháp luật, Số 5 năm 2004); Thực trạng thi hành quy định của bộ luật
tố tụng hình sự về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm
và hướng hoàn thiện của Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí TAND, TANDTC, Số

20 năm 2010)…Các tác giả đã đề cập chuyên sâu đến một số vấn đề của tái
thẩm, tuy nhiên đó chỉ là các vấn đề nhỏ lẻ, không mang tính toàn diện, sâu
rộng về thủ tục tái thẩm.
Cũng có những nghiên cứu chuyên sâu về tái thẩm như một số cuốn
sách của tác giả Đinh Văn Quế Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, xuất bản năm 1997 và cuốn Thủ tục xét xử các vụ
án hình sự, nhà xuất bản Tư pháp Hồ Chí Minh năm 2003…Trong các cuốn
sách này, tác giả đã phân tích các quy định của BLTTHS về tái thẩm. Tuy
nhiên, tác giả chủ yếu tìm hiểu thủ tục tái thẩm dựa trên sự giải thích các quy
định pháp luật về tái thẩm mà không chú ý nghiên cứu những vấn đề lý luận
về tái thẩm.
Ngoài những nghiên cứu về tái thẩm trong TTHS Việt Nam như đã trình
bày, còn có một số nghiên cứu về các vấn đề khác nhưng có đề cập đến tái


4

thẩm như bài viết của tác giả Trần Văn Độ Một số kiến nghị về hoàn thiện
thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp (Tạp chí TAND, số 6, năm 2001), luận
án tiến sỹ Giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam của tác giả Phan Thị Thanh
Mai (2007) nghiên cứu về giám đốc thẩm có những phần nội dung liên quan
đến tái thẩm (phân tích những điều luật được áp dụng chung ở thủ tục giám
đốc thẩm và tái thẩm, so sánh giữa hai thủ tục…)…
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn về thủ tục tái thẩm trong TTHS, luận văn đề xuất những giải pháp để
khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn tái thẩm, nâng cao hiệu
quả tái thẩm.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể sau:

- Làm rõ một số vấn đề chung về tái thẩm trong TTHS như bản chất,
khái niệm thủ tục tái thẩm, ý nghĩa của thủ tục tái thẩm.
- Phân tích đánh giá những quy định về tái thẩm trong BLTTHS năm
2003; phản ánh thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật TTHS về tái
thẩm, xác định hạn chế vướng mắc trong thực tiễn tái thẩm hình sự và tìm
hiểu những nguyên nhân của hạn chế vướng mắc đó, từ đó đưa ra những giải
pháp cụ thể để nâng cao hơn thủ tục tái thẩm trong thực tế.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung về thủ tục tái
thẩm trong TTHS; pháp luật Việt Nam và một số nước về thủ tục tái thẩm;
thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật TTHS về tái thẩm ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn cho nên luận văn cũng
chỉ tập trung vào một số vấn đền sau:
- Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu khái niệm và ý nghĩa của tái thẩm.


5

- Đối với pháp luật TTHS Việt Nam về tái thẩm, tập trung nghiên cứu
BLTTHS năm 2003.
- Thực tiễn tái thẩm được xem xét trên phạm vi cả nước trong giai đoạn
05 năm từ năm 2005 đến 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng về vấn
đề cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở phương
pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp chuyên gia, phương pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý

luận với thực tiễn khi nghiên cứu đề tài này.
6. Những đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu toàn
diện, có hệ thống vấn đề tái thẩm. Những kết quả nghiên cứu của luận văn
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng sau:
Về mặt lý luận: Luận văn này là chương trình nghiên cứu chuyên
khảo đề cập đến việc phân tích có hệ thống những nội dung cơ bản của
thủ tục tái thẩm theo luật TTHS Việt Nam. Góp phần thống nhất nội dung
về bản chất, ý nghĩa của thủ tục tái thẩm.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã phân tích đánh giá một cách khoa học
những quy định hiện hành về thủ tục tái thẩm và thực tiễn tái thẩm trong
những năm gần đây; xác định những vướng mắc bất cập trong quy định
của thủ tục tái thẩm cần được hoàn thiện. Đồng thời, qua đó đưa ra một số
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thủ tục tái thẩm.
Cơ cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương:


6

Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục tái thẩm trong tố tụng
hình sự;
Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về
thủ tục tái thẩm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tái thẩm trong tố
tụng hình sự.


7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các quyền
lực của nhà nước là quyền tư pháp. Thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng là một
trong những chế định trung tâm của TTHS. Hiện nay, pháp luật quy định Tòa
án thực hiện hai cấp xét xử để đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng người,
đúng pháp luật. Khi bản án của Tòa có HLPL thì nó có tính bắt buộc chung và
phải được đưa ra thi hành kịp thời. Mặc dù vậy, bản án hoặc quyết định đã có
HLPL không phải lúc nào cũng đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. Đôi
khi, nó còn vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Trong trường hợp đấy, để đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện một cách chính xác thì cơ quan tiến hành tố
tụng phải xem xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL đó.
Hiện nay, trên thế giới quan điểm của các nhà khoa học pháp lý đối với
vấn đề xét lại bản án đã có HLPL là không giống nhau, thậm chí là trái ngược
nhau. Có quan điểm cho rằng: “Để đảm bảo uy tín của mình, để duy trì trật tự
xã hội, bảo đảm tính ổn định cho các quyết định của Nhà nước, Nhà nước
phải tuyên bố rằng các quyết định, các bản án khi đã có hiệu lực thì sẽ là chân
lý, có tính bắt buộc đối với tất cả mọi người mà không cần phải kiểm tra hay
phủ định” [34, tr. 114]. Ngược lại quan điểm trên, quan điểm khác lại cho
rằng cần phải có cơ chế xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL: “Khi cơ
quan tư pháp thực hiện một hành động, một công dân phải được quyền kháng
cáo; nếu quyền kháng cáo đến cấp cao nhất đã hết, phải có một cơ chế nào đó
để có thể có một luật mới có hiệu lực cao hơn luật hiện có theo cách giải thích
và áp dụng của Tòa án” [23, tr. 200].


8


Trong tư pháp hình sự của các nước cũng có quy định về thủ tục xét lại
các bản án hoặc quyết định đã có HLPL để khắc phục những sai lầm trong
hoạt động xét xử. Tùy từng hệ thống pháp luật khác nhau mà các nước có quy
định không giống nhau về vấn đề này như sau:
- “Có quốc gia quy định chỉ có một thủ tục để xét lại đối với bản án hoặc
quyết định đã có HLPL kể cả về vấn đề áp dụng pháp luật và cả vấn đề tình
tiết mới như ở Mỹ, Đức. Có nước chỉ xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL khi xuất hiện tình tiết mới (tái thẩm) như Na Uy” [15, tr.15]. Ngược
lại, có nước lại chỉ quy định thủ tục giám đốc thẩm mà không quy định về thủ
tục tái thẩm như Trung Quốc [36].
- Một số nước phân biệt hai thủ tục khác nhau: thủ tục xét lại các bản án
hoặc quyết định đã có HLPL khi có vi phạm trong việc xử lý vụ án và thủ tục
xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL khi phát hiện tình tiết mới
như: Nhật Bản [38], Nga [39], Hàn Quốc [40].
Ở Việt Nam, thủ tục xét lại bản án đã có HLPL được quy định tại Phần
thứ sáu của BLTTHS năm 2003 gồm 2 chương 29 điều quy định về thủ tục
giám đốc thẩm - thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL khi
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án và thủ tục
tái thẩm khi phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định đã có HLPL.
Về khái niệm thủ tục tái thẩm: Từ điển Tiếng Việt không có giải nghĩa
về “thủ tục tái thẩm” mà phải ghép nghĩa của các từ: “thủ tục” có nghĩa là
“những việc cứ thế phải làm theo một trật tự đã quy định, để tiến hành một
công việc có tính chất chính thức”, “tái” có nghĩa là “lại một lần nữa” và từ
“thẩm” có nghĩa là “xét kỹ” [7, tr. 781 - 718]. Vì phải ghép nghĩa của từng từ
như vậy nên rất khó để có thể hiểu chính xác, đầy đủ nghĩa của từ ghép. Cho
nên, không thể dùng việc giải thích của Từ điển Tiếng Việt như trên để đưa ra
khái niệm về thủ tục tái thẩm.



9

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý còn có những quan điểm khác nhau về
khái niệm tái thẩm. Có thể nêu một số quan điểm sau:
- Quan điểm thứ nhất: Tái thẩm là thủ tục tố tụng do Tòa án cấp trên
thực hiện theo trình tự pháp luật quy định để xét lại bản án, quyết định hình sự
đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị khi có tình tiết mới làm thay
đổi cơ bản nội dung vụ án mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định
đó nhằm khắc phục sai lầm nghiêm trọng trong giải quyết vụ án [6, tr. 15].
- Quan điểm thứ hai: Thủ tục tái thẩm là một giai đoạn của TTHS, trong
đó tòa án xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL bị kháng nghị vì có
những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết
định đó [3, tr. 473].
- Quan điểm thứ ba: Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa
án đã có HLPL, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà tòa không
biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó [21, tr. 102].
Các khái niệm trên về cơ bản là khá thống nhất với nhau trong việc xác
định tính chất, phạm vi của thủ tục tái thẩm. Các khái niệm đều xác định tái
thẩm có tính chất đặc biệt, đó là việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL bị kháng nghị để kiểm tra tính có căn cứ trong các bản án hoặc quyết
định của Tòa án. Quan điểm thứ nhất cho rằng: “tái thẩm là thủ tục tố tụng do
Tòa án cấp trên thực hiện theo trình tự pháp luật quy định để xét lại bản án,
quyết định hình sự đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị khi có
tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án mà Tòa án không biết được
khi ra bản án, quyết định đó…” là không hoàn toàn đúng với quy định của
pháp luật hiện hành về thủ tục tái thẩm. Hiện nay, theo quy định của BLTTHS
thì nếu phát hiện ra tình tiết mới thì chỉ cần nghi ngờ rằng những tình tiết này
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có HLPL



10

thì cơ quan có thẩm quyền đã có thể tiến hành kháng nghị tái thẩm. Chứ
không nhất thiết phải làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án thì mới tiến hành
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Ngoài ra, theo chúng tôi, việc xác định mục
đích của tái thẩm là “nhằm khắc phục sai lầm nghiêm trọng trong giải quyết vụ
án” là chưa hợp lý, vì tái thẩm không phải là một cấp xét xử vì vậy không thể
trực tiếp sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ hai tiếp cận tái thẩm dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng.
Nếu tiếp cận tái thẩm dưới góc độ này thì cần phải làm rõ các dấu hiệu đặc trưng
để xác định đó là một giai đoạn tố tụng và phân biệt giai đoạn này với giai đoạn
khác. Đó là những dấu hiệu về cơ sở phát sinh, nhiệm vụ, phạm vi chủ thể, quan
hệ tố tụng, hoạt động tố tụng và những quyết định tố tụng đặc trưng của giai
đoạn đó, quan điểm trên chưa làm rõ được tất cả những vấn đề đó.
Quan điểm thứ ba thì lại trùng khớp với quy định của Điều 290 BLTTHS
năm 2003 về tính chất của thủ tục tái thẩm. Việc xác định tính chất của tái
thẩm có ý nghĩa trong việc xác định các quy định khác của BLTTHS về thủ
tục tái thẩm, giúp cho các nhà làm luật cũng như các nhà thực tiễn phân biệt
rõ tái thẩm với các trình tự xét xử khác, đặc biệt là với thủ tục giám đốc thẩm.
Tuy nhiên, nếu xác định tính chất của tái thẩm là khái niệm tái thẩm thì lại
chưa đầy đủ để phản ánh hết các đặc điểm về đối tượng, mục đích, cơ sở phát
sinh, thẩm quyền, thủ tục giải quyết của tái thẩm.
Trong luận văn này, chúng tôi tiếp cận thủ tục tái thẩm dưới góc độ là
một thủ tục trong TTHS. Để nắm bắt được bản chất của tái thẩm, từ đó hình
thành khái niệm thủ tục tái thẩm đưới góc độ tiếp cận là thủ tục tố tụng trong
TTHS thì cần phải xác định những dấu hiệu đặc trưng sau:
- Đối tượng của tái thẩm;
- Mục đích của tái thẩm;

- Cơ sở phát sinh tái thẩm;
- Thẩm quyền tái thẩm;


11

- Thủ tục giải quyết.
Qua phân tích các dấu hiệu trên, chúng ta sẽ nắm bắt được về bản chất
của thủ tục tái thẩm, phân biệt thủ tục này với một số hoạt động tố tụng khác
do Tòa án thực hiện đặc biệt là với thủ tục giám đốc thẩm, qua đó làm rõ tính
chất đặc biệt của thủ tục tái thẩm; xác định vai trò và mối quan hệ của thủ tục
này với các thủ tục khác trong trình tự tố tụng, từ đó xây dựng khái niệm khoa
học về thủ tục tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
Đối tượng tái thẩm
Đối tượng của tái thẩm là các bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng
bị kháng nghị vì phát hiện ra những tình tiết mới. Việc xác định đối tượng của
thủ tục tái thẩm có vai trò quan trọng. Đây là dấu hiệu để phân biệt sự khác
nhau cơ bản về bản chất giữa thủ tục tái thẩm với các thủ tục xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Đối tượng tái thẩm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng của thủ tục tái thẩm cũng giống như đối tượng của
thủ tục giám đốc thẩm là bản án hoặc quyết định của Tòa án chứ không phải
là vụ án như ở cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Tòa án có thẩm quyền tái
thẩm không xem xét, đánh giá và kết luận lại các vấn đề về nội dung của vụ
án vì điều đó đã được xem xét ở hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Việc
xác định đối tượng của thủ tục tái thẩm đã xác định được tính chất cơ bản của
tái thẩm, phân biệt sự khác nhau cơ bản về bản chất giữa tái thẩm với sơ thẩm
và phúc thẩm, xác định tái thẩm không phải là một cấp xét xử thứ ba mà là
việc xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án.
Thứ hai, bản án, quyết định là đối tượng của thủ tục tái thẩm phải là
những bản án, quyết định đã có HLPL. Đó là những bản án sơ thẩm nếu

không có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Hoặc là những bản án đã qua đủ
hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Theo BLTTHS nói riêng và khoa học
pháp lý nói chung, các bản án, quyết định đã có HLPL có tính bắt buộc
chung, không chỉ đối với những người có liên quan mà đòi hỏi phải được các


12

cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân tôn trọng. “Tuy nhiên, bản án, quyết định chỉ
có một hiệu lực nhất định và không có nghĩa là bản án, quyết định đó không
thể bị yêu cầu xem xét lại” [15, tr. 21]. Một bản án hoặc quyết định đã có
HLPL không có nghĩa là bản án, quyết định đó đã hoàn toàn đúng đắn, không
có sai lầm và nếu có sai lầm thì những sai lầm này cần phải được khắc phục.
Thủ tục tái thẩm chính là cơ chế để khắc phục những sai lầm đó. Như vậy mới
đảm bảo tính đúng đắn, có căn cứ của các bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ ba, không phải mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực đều là đối
tượng tái thẩm. Đối tượng của thủ tục tái thẩm chỉ có thể là bản án, quyết định
đã có HLPL nhưng lại bị kháng nghị vì phát hiện ra những tình tiết mới có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết
khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Mục đích của tái thẩm
Thủ tục tái thẩm là thủ tục pháp lý để xét lại tính có căn cứ của các bản
án, quyết định đã có HLPL của Tòa án. Nếu bản án, quyết định đã có HLPL
của Tòa án không có căn cứ thì sẽ bị hủy; khôi phục lại trình tự tố tụng để giải
quyết lại vụ án hình sự nhằm khắc phục những sai lầm nghiêm trọng của Tòa
án trong việc xác định sự thật của vụ án, đảm bảo tính có căn cứ của các bản
án hoặc quyết định của Tòa án.
Tòa án có thẩm quyền tái thẩm không xét xử lại vụ việc mà chỉ là xem
xét tình tiết mới được phát hiện làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết
định đã có hiệu lực bị kháng nghị. Xem xét xem tình tiết mới đó có ý nghĩa

như thế nào đối với vụ án, có làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hay
quyết định bị kháng nghị hay không. Qua đó kiểm tra tính có căn cứ của bản
án, quyết định bị kháng nghị.
Cơ sở phát sinh thủ tục tái thẩm
Cơ sở làm phát sinh thủ tục tái thẩm là kháng nghị tái thẩm. Theo quy
định của BLTTHS hiện hành thì cơ sở làm phát sinh thủ tục tái thẩm chỉ có thể
là kháng nghị của người tiến hành tố tụng có thẩm quyền (Viện trưởng VKS


13

cấp trên). Do tính chất đặc biệt của đối tượng tái thẩm nên kháng nghị tái thẩm
cũng có những điểm khác biệt so với kháng nghị của các thủ tục khác:
Cơ sở phát sinh thủ tục tái thẩm khác cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm.
Cơ sở làm phát sinh thủ tục tái thẩm chỉ có thể là kháng nghị của những người
tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định mọi cơ
quan, tổ chức và mọi công dân đều có quyền phát hiện những bản án, quyết
định đã có HLPL không có căn cứ, không đúng pháp luật nhưng không quy
định về quyền kháng cáo tái thẩm. Còn đối với thủ tục phúc thẩm thì ngoài
kháng nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì luật còn cho phép kháng
cáo của bị cáo và các đương sự khác. Đây là điểm đặc biệt của thủ tục phúc
thẩm so với các thủ tục khác khi mà “một giai đoạn trong TTHS không chỉ
phát sinh bởi những căn cứ mang tính quyền lực Nhà nước mà còn thể được
phát sinh căn cứ vào ý chí của người dân” [15, tr. 23].
Cơ sở phát sinh của thủ tục tái thẩm cũng khác với cơ sở phát sinh của
thủ tục giám đốc thẩm. Mặc dù cơ sở phát sinh đều là kháng nghị của những
người tiến hành tố tụng có thẩm quyền, tuy nhiên căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm và tái thẩm là khác nhau. Nếu căn cứ kháng nghị của giám đốc thẩm là
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án thì căn cứ
kháng nghị tái thẩm là những sai lầm trong việc xác định sự thật của vụ án.

Sự thật của vụ án cần được xác định lại khi có những tình tiết mới được phát
hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa
án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Hay nói cách khác,
những tình tiết mới được phát hiện này cho phép nghi ngờ tính xác thực của
bản án hoặc quyết định đã có HLPL.
Hiện nay, có quan điểm cho rằng không cần thiết phải chia làm hai thủ
tục tái thẩm và giám đốc thẩm vì cho rằng giữa hai thủ tục này về cơ bản là
không khác nhau, một số nước trên thế giới cũng quy định chung về hai thủ
tục như Pháp [17], Đức [37]. Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm trái chiều,


14

cho rằng vẫn cần phải chia làm hai thủ tục. Thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm
là hai thủ tục khác nhau do đó sẽ có sự áp dụng khác nhau:
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm, nguyên nhân của sai lầm trong bản án
hoặc quyết định đã có HLPL mà người làm luật phân thành giám đốc
thẩm hay tái thẩm. Nếu sai lầm do yếu tố chủ quan trong việc xử lý vụ
án thì bản án, quyết định có HLPL có thể bị kháng nghị để giải quyết
theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu sai lầm do yếu tố khách quan khi phát
hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc
quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định thì
vụ án có thể xem xét lại theo thủ tục tái thẩm. Tính chất, hậu quả pháp lý
và cách thức khắc phục hai loại sai lầm nói trên không thể đồng nhất
được [11, tr. 2].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng tái thẩm và giám đốc thẩm là
những thủ tục khác nhau về bản chất và đặc điểm cơ bản. Không thể đồng
nhất hai thủ tục này làm một được. Do tính chất khác nhau nên các quy định
về thẩm quyền kháng nghị, căn cứ, thời hạn và thủ tục kháng nghị của hai thủ
tục này là khác nhau. Cụ thể:

Thứ nhất, về chủ thể kháng nghị: Theo quy định của BLTTHS nước ta
hiện nay, thì chỉ duy nhất một loại chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm là
Viện trưởng VKS. Còn trong giám đốc thẩm, ngoài Viện trưởng VKS thì
Chánh án Tòa án cũng có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Bởi vì, trong
thủ tục tái thẩm, căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của vụ án mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định. “Những tình tiết này khồng tồn tại trong hồ sơ vụ án, Tòa án
không thể kiểm tra xác minh những tình tiết này thông qua hoạt động kiểm tra
giám đốc nên không có điều kiện để có thể kháng nghị tái thẩm” [15, tr. 31].
Thứ hai, về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là việc phát hiện
tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết


15

định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Còn căn
cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Đây cũng chính là đặc điểm quan
trọng nhất để phân biệt giữa hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
HLPL là thủ tục tái thẩm với thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ ba, về cách xác định thời hạn kháng nghị tái thẩm. Do tính chất
của các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm khác nhau, cách phát
hiện và thủ tục kháng nghị khác nhau nên cách xác định thời hạn kháng
nghị giữa hai thủ tục này cũng không giống nhau. Thời hạn kháng nghị tái
thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án tính từ khi phát hiện tình
tiết mới còn thời hạn giám đốc thẩm tính từ khi bản án có HLPL. Có sự
khác biệt này, như giải thích của PGS. Nguyễn Văn Hiên là do: nếu sai lầm
do chủ quan của Tòa án trong việc xử lý, đánh giá chứng cứ, áp dụng hình
phạt, tội danh v.v trên cơ sở tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án thì thời hạn
kháng nghị theo hướng bất lợi cho người bị kết án phải được hạn chế trong

một thời gian ngắn nhất định tính từ ngày bản án có HLPL. Đây là nguyên
tắc mà luật tố tụng hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận. Việc thu
thập chứng cứ, phát hiện, chứng minh các tình tiết mới phải được tiến hành
theo đúng thủ tục tố tụng từ khi điều tra. Do đó thời hạn kháng nghị theo
hướng không có lợi cho người bị kết án phải tính từ khi phát hiện ra tình
tiết mới và trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [10, tr. 17].
Thứ tư, về thủ tục kháng nghị tái thẩm cũng khác với giám đốc thẩm, do
căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là việc phát hiện tình tiết mới có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không
biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Cho nên, tái thẩm bắt buộc phải
có thủ tục xác minh tình tiết mới trước khi kháng nghị còn giám đốc thẩm thì
không có giai đoạn này. Đây là điều rất khác nhau giữa giám đốc thẩm và tái
thẩm về thủ tục tiến hành trong thực tiễn tố tụng.


16

Thẩm quyền tái thẩm
Thẩm quyền tái thẩm về cơ bản là xác định theo nguyên tắc là Tòa án
cấp trên trực tiếp có thẩm quyền tái thẩm bản án, quyết định đã có HLPL của
Tòa án cấp dưới.
Khi xét lại bản án, quyết định đã có HLPL thì Hội đồng tái thẩm không
xác định lại sự thật của vụ án, cũng không có quyền ra bản án hoặc tự mình ra
quyết định mới để thay thế cho bản án, quyết định bị kháng nghị của Tòa án
cấp dưới. Tòa án có thẩm quyền tái thẩm chỉ được phán quyết về bản án,
quyết định bị kháng nghị; nếu thấy các tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định thì hủy bản án hoặc quyết định đó; ngược lại nếu
thấy những tình tiết mới được phát hiện không ảnh hưởng đến bản án hoặc
quyết định bị kháng nghị thì giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có HLPL;
nếu có căn cứ đình chỉ vụ án thì hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL và

đình chỉ vụ án.
Thủ tục giải quyết
Do không xét xử lại vụ án về mặt nội dung mà chỉ xem xét tính có căn
cứ của bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án, cho nên Tòa án có
thẩm quyền tái thẩm chỉ xem xét việc xác định sự thật của vụ án của Tòa án
cấp dưới là có căn cứ hay không trên cơ sở hồ sơ vụ án và các tình tiết mới
được phát hiện và xác minh. Trong giai đoạn này, Tòa án không thực hiện
chức năng xét xử vụ án vì thế tái thẩm cũng giống như giám đốc thẩm được
tiến hành theo thủ tục riêng biệt, khác hẳn so với thủ tục sơ thẩm hoặc phúc
thẩm. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử như các nguyên tắc xét
xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo…không điều chỉnh hoạt động tái thẩm, giám đốc thẩm của Tòa án. Tái
thẩm là thủ tục pháp lý để đưa vụ án đã được xét xử, đã có HLPL nhưng có
sai lầm được trở về xét xử lại từ đầu. Cho nên thủ tục tái thẩm là một hình
thức tố tụng nhằm tạo điều kiện pháp lý cho việc khôi phục lại trình tự tố tụng


17

để giải quyết lại vụ án, mà “việc hủy bỏ một bản án hoặc quyết định đã có
HLPL là một việc rất hệ trọng, chỉ có thể do Tòa án cấp cao hơn (hoặc cao
nhất) tiến hành và theo theo một thủ tục nghiêm ngặt được quy định trong luật
TTHS” [15, tr. 35].
Qua việc phân tích dấu hiệu của tái thẩm, chúng tôi xin mạnh dạn đưa
ra khái niệm về thủ tục tái thẩm trong TTHS như sau: Thủ tục tái thẩm là
hình thức pháp lý mà Tòa án có thẩm quyền áp dụng để xét lại bản án hoặc
quyết định hình sự đã có hiệu lực phát luật bị người có thẩm quyền kháng
nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật của vụ án được xác định khách

quan, toàn diện và đầy đủ.
1.2. Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC TÁI THẨM
1.2.1. Ý nghĩa chính trị, xã hội của thủ tục tái thẩm
- Ý nghĩa chính trị của thủ tục tái thẩm
Quy định về thủ tục tái thẩm là cơ chế đảm bảo nâng cao trách nhiệm
của Nhà nước đối với công dân, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm
minh, công bằng, bảo vệ triệt để các quyền cơ bản nhất của công dân. Bên
cạnh đó, chế định tái thẩm còn góp phần bảo đảm hiệu quả hoạt động và tính
độc lập của các cơ quan tư pháp, qua đó, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân…đây là những nhân tố cơ bản
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
đổi mới của nước ta hiện nay. Đặc biệt là trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi
mà hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mang tính quyền lực Nhà
nước rất cao, ảnh hưởng quyết định các quyền cơ bản của công dân như
quyền sống, quyền tự do thân thể…
Có thể nói, bằng việc xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL
khi xuất hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án


18

hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó, tái thẩm đã góp phần đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn có
căn cứ, đảm bảo cho pháp luật được áp dụng một cách đúng đắn và thống
nhất trong hoạt động xét xử. Pháp luật được thực thi một cách nghiêm
minh sẽ đảm bảo quyền công bằng cho người dân trước pháp luật, đảm bảo
cho pháp luật ngày càng thể hiện và nắm giữ vai trò tối thượng trong đời
sống nhà nước cũng như đời sống xã hội - đây là yếu tố tiên quyết trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
- Ý nghĩa xã hội của thủ tục tái thẩm

Phương châm chính của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan, sai người vô tội. Nhưng trong thực tiễn điều
tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự cho thấy vì những lý do khác nhau nên
vẫn còn tình trạng oan, sai, để lọt tội phạm hoặc người phạm tội. Nếu những
sai sót và vi phạm này không được sửa chữa thì bản án hoặc quyết định đó
của Tòa án sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ của luật hình sự, không bảo vệ được
lợi ích của xã hội, quyền lợi của mọi công dân. Từ đó, khiến cho người dân
mất lòng tin vào các cơ quan tư pháp cũng như mất lòng tin vào Đảng và Nhà
nước. Do vậy, BLTTHS quy định về thủ tục xét lại bản án hoặc quyết định đã
có HLPL để nhằm sửa chữa những sai sót đó. Vì lẽ đó, thủ tục tái thẩm góp
phần đảm bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động
xét xử của Tòa án, góp phần đảm bảo uy tín của cơ quan tư pháp nói chung và
của Tòa án nói riêng. Đồng thời, với việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL theo thủ tục tái thẩm sẽ tránh được tình trạng oan, sai, xử lý đúng người,
đúng tội, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn định trật
tự xã hội. Như luật sư Đặng Văn Doãn đã viết: “Nếu công tác giám đốc thẩm,
tái thẩm làm được tốt, nếu việc xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL


19

được làm đúng đắn, kịp thời thì đó là một đảm bảo vững chắc của việc
nghiêm chỉnh thi hành pháp luật, củng cố tăng cường pháp chế, đấu tranh hiệu
quả chống tội phạm, nâng cao uy tín của chính quyền và chế độ” [1, tr. 10].
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý của thủ tục tái thẩm
Tái thẩm có ý nghĩa pháp lý đặc biệt trong TTHS. Thông qua thủ tục tái
thẩm thì hiệu lực bắt buộc của các bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng
có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án mới có

thể được hủy bỏ. Qua đó khôi phục trình tự tố tụng đối với vụ án, để có thể
xác định sự thật của vụ án. Chính vì vậy, các quyết định của Tòa án có thẩm
quyền tái thẩm hoặc là cơ sở pháp lý để khẳng định tính có căn cứ của bản án
hoặc quyết định đã có HLPL (quyết định giữ nguyên bản án hoặc quyết định
đã có HLPL); hoặc là cơ sở hủy bỏ HLPL của bản án hoặc quyết định đã có
HLPL, từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án (quyết định hủy bản án hoặc
quyết định có HLPL và đình chỉ vụ án); hoặc khôi phục lại trình tự tố tụng đối
với vụ án (quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL để điều tra lại,
xét xử lại). Tái thẩm là biện pháp tố tụng góp phần đảm bảo cho vụ án hình sự
được giải quyết đúng đắn.
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VỀ THỦ TỤC TÁI THẨM.
1.3.1. Tính chất của tái thẩm
Việc xác định rõ tính chất của tái thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định các quy định khác của BLTTHS về tái thẩm cũng như giúp cho việc
phân định rõ thủ tục tái thẩm với các thủ tục tố tụng khác, đặc biệt là với thủ
tục giám đốc thẩm. Quy định về tính chất của thủ tục tái thẩm tại Điều 260
BLTTHS năm 1988 được kế thừa và giữ nguyên tại điều 290 BLTTHS năm
2003 như sau: “Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết
định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát
hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà
Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó”.


20

Theo quy định trên, tính chất của thủ tục tái thẩm theo BLTTHS Việt
Nam được xác định bởi các nội dung:
- Về đối tượng của thủ tục tái thẩm: bản án hoặc quyết định của Tòa án
đã có HLPL. Hệ thống Tòa án của Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc hai
cấp xét xử, Tòa án có thẩm quyền tái thẩm không xét xử lại vụ án mà chỉ xét

lại tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL.
- Theo luật TTHS Việt Nam, cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục tái thẩm
chỉ có thể là kháng nghị của những người có thẩm quyền theo các trình tự và
thủ tục do BLTTHS quy định và không quy định về quyền kháng cáo tái thẩm.
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết
định đã có HLPL mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó. Tức là, những tình tiết này không hề có trong hồ sơ vụ án cho nên Tòa án
không hề biết khi ra bản án hoặc quyết định đó. Những tình tiết đã được biết
đến trong quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tố điều tra đến trước khi Tòa
án ra quyết định hoặc bản án đã có HLPL không được coi là các tình tiết mới.
Những tình tiết này phải có giá trị có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định đó. Nếu những tình tiết mới mà không có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án thì không
thuộc trường hợp phải xét lại theo thủ tục tái thẩm.
1.3.2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1.3.2.1 Đối tượng của kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Tái thẩm là thủ tục đặc biệt của TTHS. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền tái
thẩm không xét xử lại vụ án mà chỉ xem xét việc áp dụng pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án đúng hay không thông qua việc xét lại bản án hoặc quyết
định đã có HLPL. Như vậy, theo quy định của BLTTHS Việt Nam, đối tượng
của kháng nghị tái thẩm phải là các bản án, quyết định đã có HLPL.


21

Đồng thời, BLTTHS năm 2003 cũng chỉ rõ bản án, quyết định có
HLPL là: Bản án sơ thẩm có HLPL kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết
định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (Điều 238); bản án, quyết định và những
phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng

nghị thì có HLPL kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (Điều 240);
bản án phúc thẩm có HLPL kể từ ngày tuyên án (Điều 248); quyết định phúc
thẩm có HLPL kể từ ngày ra quyết định. Và những quyết định của Tòa án cấp
giám đốc thẩm, tái thẩm.
BLTTHS năm 2003 chỉ đưa ra điều kiện hạn chế đối tượng kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm đó là quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
1.3.2.2 Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Thủ tục tái thẩm cùng với thủ tục giám đốc thẩm là những thủ tục tố tụng
đặc biệt được quy định trong phần thứ sáu của BLTTHS năm 2003, là thủ tục
xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án bị kháng nghị
nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ của chúng. Chính vì vậy giữa hai
thủ tục này có nhiều điểm tương đồng, trong đó có nhiều quy định được áp
dụng chung cho cả thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm như: quy định về đối
tượng kháng nghị, thẩm quyền xét lại, thủ tục phiên tòa…Tuy nhiên, đây vẫn
là hai thủ tục khác nhau, và sự khác nhau cơ bản, rõ nét nhất giữa hai thủ tục
tố tụng này được thể hiện ở căn cứ kháng nghị. Pháp luật quy định những tình
tiết mới được phát hiện được coi là căn cứ kháng nghị tái thẩm phải là những
tình tiết có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có
HLPL mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Như vậy, điều kiện cần và đủ để một bản án hoặc quyết định đã có
HLPL được đưa ra kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là phải có: Thứ nhất là
phát hiện và xác minh được tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
bản án hoặc quyết định. Thứ hai Tòa án phải không biết được những tình tiết
này khi ra bản án hoặc quyết định đó.


×