Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở việt nam và định hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.5 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LA THỊ TUYẾT ANH

THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Ở VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1:TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ LUẬT
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM ........................................... 6
1.1. TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ............................. 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân ............................... 6
1.1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân................................................... 6
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân ............................................. 8
1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân trên thế
giới và ở Việt Nam ..................................................................................... 9


1.1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân trên thế
giới ............................................................................................................. 9
1.1.2.2. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam .......................................................................................................... 11
1.2. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT
NAM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG ............................................ 12
1.2.1. Bối cảnh và quá trình soạn thảo, ban hành Luật thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam ...................................................................................... 12
1.2.1.1. Bối cảnh ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ........ 12
1.2.1.2. Quá trình soạn thảo và ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam .................................................................................................. 14
1.2.2. Đánh giá tác động của Luật thuế thu nhập cá nhân đối với quyền và
lợi ích của các chủ thể có liên quan .......................................................... 15
1.2.2.1. Đối với Nhà nước, cơ quan thuế và công chức ngành thuế .......... 15
1.2.2.2. Đối với người nộp thuế ................................................................ 17


1.2.3. Nguyên tắc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân ............................. 18
1.2.3.1. Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng trong thực hiện Luật thuế thu
nhập cá nhân ............................................................................................ 18
1.2.3.2. Nguyên tắc đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người
nộp thuế.................................................................................................... 18
1.2.3.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả kinh tế trong quá trình áp dụng
Luật thuế thu nhập cá nhân ...................................................................... 19
Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ......................................................................... 21
2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM ..... 21
2.1.1. Các quy định về chủ thể nộp thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thi

hành ......................................................................................................... 21
2.1.2. Các quy định về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn
thi hành .................................................................................................... 24
2.1.3. Các quy định về căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thi
hành ......................................................................................................... 32
2.1.3.1. Căn cứ tính thuế đối với chủ thể là cá nhân cư trú....................... 32
2.1.3.2. Căn cứ tính thuế đối với cá nhân không cư trú ............................ 44
2.1.4. Các quy định về quản lý thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thi hành
................................................................................................................. 47
2.1.4.1. Thủ tục đăng ký thuế thu nhập cá nhân ........................................ 48
Nghĩa vụ đăng ký thuế.............................................................................. 48
2.1.4.2. Thủ tục kê khai thuế thu nhập cá nhân ......................................... 49


2.1.4.3. Thủ tục khấu trừ thuế thu nhập cá nhân........................................... 50
2.1.4.4. Thủ tục xét giảm thuế, hoàn thuế thu nhập cá nhân .......................... 52
2.1.4.5. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp thuế thu nhập cá nhân .... 54
2.1.5. Một số kết luận rút ra từ thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam ....................................................................................... 55
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM............................. 58
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam .................................................................................................. 58
2.2.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân cần đặt trong tiến
trình cải cách hệ thống thuế quốc gia và đáp ứng được các yêu cầu cơ bản
của cải cách hệ thống pháp lý trong bối cảnh hội nhập ............................ 58
2.2.1.2. Ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thuế thu
nhập cá nhân cho phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam và phù hợp với
thông lệ quốc tế ........................................................................................ 61

2.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thuế
thu nhập cá nhân ở Việt Nam ................................................................... 64
2.2.2.1. Đổi mới nội dung công tác tuyên truyền pháp luật thuế thu nhập cá
nhân ......................................................................................................... 64
2.2.2.2. Hoàn thiện các biện pháp tổ chức để bảo đảm thực hiện các quy
định của pháp luật về thuế TNCN ............................................................. 65
2.2.2.3. Cải cách hệ thống hành chính thuế thu nhập cá nhân .................. 69
2.2.2.4. Minh bạch hóa thông tin về kết quả thu thuế và thông tin về quản
lý, sử dụng tiền thuế thu nhập cá nhân ..................................................... 71
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................. 75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Thu nhập cá nhân

: TNCN

Thu nhập doanh nghiệp

: TNDN

Giá trị gia tăng

: GTGT

Mã số thuế

: MST


Công nghệ thông tin

: CNTT


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng đã được áp dụng từ
lâu trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm. Thuế thu nhập cá nhân được
áp dụng lần đầu tiên ở Anh năm 1799 dưới hình thức thu tạm thời nhằm
mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức
ban hành vào năm 1842. Sau đó, thuế thu nhập cá nhân được nhanh chóng
lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Nhật (năm 1887), Mỹ
(năm 1913), Pháp (năm 1914)... Các nước Châu Á như Thái Lan bắt đầu áp
dụng vào năm 1939, ở Phi-líp-pin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đônê-sia năm 1949, Trung Quốc năm 1984. Đến nay, đã có khoảng 180 nước
áp dụng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập cá nhân đã trở thành một
bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của nhiều nước. Các
quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân
là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động
nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền kinh tế mở, sản xuất kinh
doanh trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng mạnh, đời sống kinh tế xã
hội có những bước chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, kèm theo đó là sự phát
sinh chênh lệch về mức sống ngày càng rõ rệt, tiền lương, tiền công của
người lao động giữa các đơn vị, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài có sự khác biệt ngày càng lớn... Trong bối
cảnh đó, Quốc hội uỷ quyền cho Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh

thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày 27/12/1990 và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/04/1991, nhằm động viên sự đóng góp của
những cá nhân có thu nhập cao. Trong quá trình thực hiện đến nay Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có năm lần sửa đổi, bổ
sung vào tháng 6/1994, tháng 2/1997, tháng 7/1999, tháng 5/2001 và tháng
3/2004. Các lần sửa đổi Pháp lệnh thuế TNCN nêu trên đã mở rộng phạm
vi thu thuế thu nhập cá nhân sang các khu vực hưởng lương khác tại các
doanh nghiệp trong nước và một số cơ quan của nhà nước, cá nhân có thu
nhập cao, tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế, nhưng chủ yếu các lần


2
sửa đổi vẫn là sửa mức khởi điểm tính thuế, thuế suất, giãn cách thu nhập
chịu thuế giữa các bậc thuế của biểu thuế. Thuế TNCN nước ta có đóng
góp ngày càng tăng vào tổng số thu từ thuế cho NSNN.
Ngày 21/11/2007, Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân và
chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, thay thế cho Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đây. Ngoài việc tăng thu
ngân sách thì thuế TNCN là một loại thuế điều hoà thu nhập, thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập
thấp trong xã hội. Mặt khác, chúng ta đang trong quá trình hội nhập với
kinh tế thế giới, cần có sự tương đồng với các nước khác về chính sách
thuế, những quy định mới của Luật thuế TNCN sẽ đảm bảo công bằng
trong điều tiết thu nhập của cá nhân và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, việc ban hành Luật
thuế TNCN ở Việt Nam là rất cần thiết, bởi lẽ:
Thứ nhất, ban hành và thực hiện Luật thuế TNCN góp phần tăng
cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô kinh tế - xã
hội.
Thứ hai, việc ban hành Luật thuế TNCN nhằm hoàn thiện hệ thống

chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
Thứ ba, ban hành Luật thuế TNCN nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực
cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, có thể thấy được việc ban hành Luật thuế TNCN là rất cần
thiết. Tuy nhiên, Luật thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 qua một
thời gian áp dụng trong thực tiễn đã bộc lộ những hạn chế như: Luật thuế
TNCN còn có những quy định chưa thật phù hợp về việc hướng dẫn quyết
toán thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công đối với đối tượng là
người Việt Nam và với cả đối tượng là người nước ngoài cư trú, làm việc
tại Việt Nam; Còn có những quy định gây vướng mắc về việc trừ tiền bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với thu nhập nhận tại nước ngoài của người
nước ngoài thuộc đối tượng cư trú theo Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm
y tế của nước ngoài Những quy định về giảm trừ gia cảnh, quy định về thuế
TNCN khi chuyển nhượng bất động sản, chứng khoán hay việc miễn thuế
đối với chuyển nhượng nhà đất, trong trường hợp đối tượng chuyển nhượng


3
có một nhà đất duy nhất, những quy định xung quanh yêu cầu cá nhân khi
thực hiện chuyển nhượng cổ tức bằng cổ phiếu phải có trách nhiệm kê khai
lại với cơ quan thuế nơi cư trú để được tính thuế hay một số mẫu tờ khai
các chỉ tiêu kê khai còn thiếu hoặc chưa phù hợp…. dẫn đến việc cơ quan
thuế và người nộp thuế đều khó khăn trong việc thực hiện pháp luật thuế
TNCN
Như vậy, qua một thời gian ngắn thi hành luật thuế TNCN chúng ta
đã gặp rất nhiều vướng mắc cần được sửa đổi cho phù hợp hơn với tình
hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Xuất phát từ những lý do đó, tác
giả quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Thực tiễn thi hành pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, những quy định về thuế TNCN trong Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao được nghiên cứu trong một số luận văn
thạc sỹ như luận văn “Một số vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân” của
tác giả Vũ Quang Huy (cao học khoá II). Luận văn đã giải quyết khá triệt
để các vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, kể từ khi Luật
thuế TNCN được Quốc hội ban hành ngày 21/11/2007 và chính thức có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thì những nội dung cơ bản của Luật
thuế TNCN chưa được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu đề tài bao gồm các vấn đề
chính sau đây:
- Pháp luật về thuế TNCN của một số quốc gia trong khu vực và trên thế
giới.
- Pháp luật về thuế TNCN của Việt Nam (Luật Quản lý thuế, Luật
thuế TNCN, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và các
văn bản hướng dẫn thi hành).
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, phương pháp
diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp so sánh, khảo sát… Từ đó


4
rút ra những ưu điểm, nhược điểm trong quy định của pháp luật Việt Nam
về thuế TNCN; xem xét tính phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế để
hướng tới việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thuế
TNCN.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những
thông tin cơ bản về Luật thuế TNCN, thực trạng thi hành luật thuế TNCN ở
Việt Nam trong thời gian qua. Tác giả sẽ phân tích để tìm ra những ưu,
khuyết điểm của Luật thuế TNCN trong quá trình áp dụng vào thực tế và từ
đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện Luật thuế TNCN.
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, tác giả sẽ phải hoàn thành những nhiệm
vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Thuế nói chung và thuế TNCN nói
riêng.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về thuế TNCN và thực tiễn
áp dụng thuế TNCN ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Phân tích tình hình áp dụng pháp luật thuế TNCN để tìm ra những
điểm chưa phù hợp của pháp luật thuế TNCN khi áp dụng và thực tế và tìm
ra nguyên nhân của sự chưa phù hợp đó.
- Đề xuất những định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
thuế TNCN.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Chúng tôi dự kiến luận văn sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa
học như sau:
Thứ nhất, luận văn sẽ phân tích và làm rõ những điểm còn hạn chế,
bất cập của pháp luật thuế TNCN hiện hành, đồng thời chỉ rõ những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực trạng thi hành luật thuế TNCN ở
Việt Nam trong thời gian qua. Đặc biệt, luận văn sẽ cung cấp những số liệu
mới nhất về thuế TNCN trong hơn một năm áp dụng trên thực tế. Đây là cơ
sở thực tiễn để đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, luận văn sẽ đưa ra một số đề xuất định hướng hoàn thiện


5

pháp luật thuế TNCN trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
dự kiến được triển khai với các nội dung chính sau đây:
Chương 1: Tổng quan về thuế thu nhập cá nhân và pháp luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam và một số kiến nghị.


6
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ
LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
1.1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội
loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn
với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng
thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật
chất để thực hiện những chỉ tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính
trị, nhà nước “trích thủ” một phần của cải xã hội để có được nguồn vật chất
đó. Một trong những phương thức huy động để tạo nên nguồn lực tài chính
này cho Nhà nước chính là thuế.
Dù trải qua nhiều giai đoạn phát triển và được nhận định từ nhiều giác
độ khác nhau, nhưng hiện nay một số định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ
điển vẫn còn đang thịnh hành, kể cả trong điều kiện nèn kinh tế kinh tế thị
trường.
Có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn

hiện nay như sau:
Thuế là khoản đóng góp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; không mang
tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng
để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng, [8, tr.17]
Trong thực tiễn, thuế có nhiều loại khác nhau, tùy thuộc vào căn cứ,
tiêu chí phân loại.
Căn cứ theo đối tượng chịu thuế, thuế được chia thành các loại như:
Thuế tài sản (thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế trước bạ...); thuế thu


7
nhập (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…); thuế hàng
hóa, dịch vụ tiêu dùng (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…).
Căn cứ theo mục đích điều tiết, thuế được chia thành hai loại là thuế
trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của
người nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật
quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Ở đây, theo quy định của
luật, thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Ở đây không có
hiện tượng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác chịu. Thuế trực thu
gồm các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,
thuế sử dụng đất nông nghiệp… Trong các loại thuế trực thu, thuế thu nhập
cá nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu đối với
ngân sách nhà nước.
Thuế gián thu là loại thuế không điều tiết thu nhập của người nộp thuế
mà điều tiết thu nhập của người tiêu dùng, thông qua việc cấu thành số tiền
thuế trong giá cả hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Thuế gián thu có đặc điểm là
người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không đồng nhất với nhau.
Người nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, còn người

chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó, họ mua hàng hoá với giá cả
trong đó có cả thuế. Thuế gián thu gồm các loại thuế điển hình như thuế giá
trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu …
Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường cũng đều coi thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan
trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực
hiện công bằng xã hội. Ở Việt Nam, thuế thu nhập cá nhân dần được hoàn
hiện theo thời gian. Từ năm 1991 đến trước năm 2009, để phù hợp hơn với
tình hình thực tế, thuế TNCN ở Việt Nam được quy định dưới hình thức
thuế thu nhập với người có thu nhập cao. Từ 01/01/2009, Luật thuế TNCN
chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước phát triển quan trọng của sắc thuế


8
này. Theo đó, khái niệm thuế TNCN ở Việt Nam cũng dần được bổ sung
đầy đủ hơn như sau:
Thuế TNCN là khoản đóng góp bằng tiền mà cá nhân có đủ điều kiện
theo luật định phải nộp cho Nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không
hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế.
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu vì nó đánh trực tiếp
vào thu nhập của cá nhân. Với loại thuế này, cá nhân khó có thể chuyển
gánh nặng thuế sang cho chủ thể khác.
Thu nhập cá nhân là tổng số tiền, hàng hoá, dịch vụ mà một cá nhân
nhận được trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Thu nhập tính thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế là thu nhập tính
được sau khi đã giảm trừ các khoản chi phí liên quan để tạo ra thu nhập,
các khoản giảm trừ mang tính chất xã hội và các khoản giảm trừ khác. [9,
tr.138]
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân

Thuế Thu nhập cá nhân có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào
thu nhập của người nộp thuế. Do người nộp thuế đồng thời là người chịu
thuế nên khó có thể chuyển gánh nặng thuế sang cho người khác.
Hai là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì nó
liên quan trực tiếp đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến
hầu hết mọi cá nhân trong xã hội. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất “trực
thu” của thuế TNCN.
Ba là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế luôn gắn liền với chính sách
xã hội của mỗi quốc gia mặc dù các quốc gia hiện nay vẫn luôn hướng tới
một hệ thống chính sách thuế mang tính trung lập. Khi tính thuế TNCN có
xem xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế bằng việc quy định một
số khoản được giảm trừ có tính chất xã hội trước khi tính thuế.


9
Bốn là, thuế thu nhập cá nhân thường được tính theo biểu thuế luỹ tiến
từng phần do thuế thu nhập cá nhân được đánh theo nguyên tắc “khả năng
nộp thuế” và cũng xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là
điều tiết mạnh người có thu nhập cao, động viên sự đóng góp của những
người có thu nhập thấp, thu nhập trung bình trong xã hội.
Năm là, thuế thu nhập cá nhân không bóp méo giá cả hàng hoá, dịch
vụ. Thuế thu nhập cá nhân không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán)
hàng hoá, dịch vụ nên nó không tạo ra sự sai lệch giá cả hàng hoá, dịch vụ
khi lưu thông trên thị trường.[9, tr.139-140]
1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân
trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân
trên thế giới
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế phổ biến trên thế giới và đã có lịch

sử hàng trăm năm. Thời kỳ mới ban hành, các nước thường đánh thuế vào
đối tượng dễ đo lường được như đánh trên đất đai, tài sản, hàng hoá... Cho
đến nay đã có 180 nước áp dụng thuế thu nhập cá nhân. [9, tr.137]
Thuế thu nhập cá nhân đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm
1797, sau đó là Anh Quốc vào năm 1799. Hoa Kỳ áp dụng loại thuế này
muộn hơn nhưng cũng từ năm 1864. Các nước Châu Âu còn lại, các nước
như Australia, Niu-Di-lân, Nhật Bản cũng áp dụng thuế thu nhập cá nhân
vào nửa cuối thế kỷ 19. Các nước Châu Á như: Thái Lan áp dụng năm
1939, Philippin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-xia năm 1949,
Trung Quốc năm 1984; Những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế
chuyển đổi như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992... [ 9,
tr.137]
Thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết cá nhân
có thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế rất đa dạng, bao gồm: thu nhập
từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như
cho vay, tham gia mua cổ phần, góp vốn liên doanh; thu nhập từ chuyển


10
nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về trúng thưởng, từ
tiền bản quyền; thu nhập từ quà biếu, quà tặng, thừa kế... Do đặc điểm của
thuế TNCN là có tính đến khả năng của người nộp thuế, hướng tới mục tiêu
công bằng xã hội nên bên cạnh các loại thu nhập chịu thuế, luật thuế của
nhiều nước có quy định cụ thể một số khoản thu nhập không chịu thuế, một
số khoản thu nhập được miễn thuế cùng với quy định về giảm trừ gia cảnh.
Về nội dung chính sách thuế, các vấn đề cơ bản mà Luật thuế TNCN
của các nước thường đề cập là: (i) Đối tượng nộp thuế; (ii) Thu nhập chịu
thuế; (iii) Thu nhập không chịu thuế; (iv) Quy định về giảm trừ gia cảnh;
(v) Biểu thuế (trong đó thường thiết kế biểu thuế suất luỹ tiến từng phần
đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương tiền công, thuế suất toàn phần

đối với đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, tiền
bản quyền và một số loại thu nhập chịu thuế khác).
Về quản lý, thu nộp thuế, đại bộ phận thu nhập chịu thuế được các
nước áp dụng phương pháp khấu trừ thuế tại nguồn, theo đó người chi trả
thu nhập giữ lại tiền thuế để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi trả thu
nhập cho người nhận.
Thuế thu nhập cá nhân đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ
thống chính sách thuế của nhiều nước. Các quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực
hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên,
đặt ra mức thuế cao hay thấp, đánh vào tổng thu nhập hay đánh vào từng
khoản thu nhập khác nhau của các chủ thể thường phụ thuộc vào quan điểm
điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong chính sách kinh tế, xã hội của
từng nước trong từng thời kỳ nhất định. Ở các nước phát triển, thuế thu
nhập cá nhân thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu từ thuế (Thuế thu
nhập cá nhân chiếm tỷ trọng gần 40% trong tổng thu thuế của Ngân sách
Liên bang Mỹ, Tây Ban Nha 38%, Anh 35%, Đan Mạch 50%) [9, tr.144] và
được xem là một loại thuế rất quan trọng, là công cụ đảm bảo tính công
bằng, tính hiệu quả kinh tế và hội nhập. Chính vì vai trò và tỷ trọng của


11
thuế thu nhập cá nhân trong tổng số thu từ thuế của các nước lớn như vậy
nên nhiều nước đã gọi thuế thu nhập cá nhân là “Nữ hoàng” hoặc “Vua”
của các loại thuế.
1.1.2.2. Lược sử hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện cơ chế kinh tế mở, sản

xuất kinh doanh trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng mạnh, đời sống
kinh tế xã hội có những bước chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, kèm theo đó
là sự phát sinh chênh lệch về mức sống ngày càng rõ rệt, tiền lương, tiền
công của người lao động giữa các đơn vị, nhất là khu vực kinh tế quốc
doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có sự khác biệt ngày càng lớn.
Trong bối cảnh đó, hệ thống chính sách thuế được cải cách bước 1
(năm 1990), bên cạnh Luật Thuế lợi tức áp dụng đối với cơ sở sản xuất,
kinh doanh, Quốc hội uỷ quyền cho Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày 27/12/1990 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/1991, nhằm động viên sự đóng góp của
những cá nhân có thu nhập cao. Trong quá trình thực hiện đến nay Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có năm lần sửa đổi, bổ
sung vào tháng 6/1994, tháng 2/1997, tháng 7/1999, tháng 5/2001 và tháng
3/2004.
Các lần sửa đổi Pháp lệnh thuế TNCN nêu trên đã mở rộng phạm vi
thu thuế thu nhập cá nhân sang các khu vực hưởng lương khác tại các
doanh nghiệp trong nước và một số cơ quan của nhà nước, cá nhân có thu
nhập cao, tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế, nhưng chủ yếu các lần
sửa đổi vẫn là sửa mức khởi điểm tính thuế, thuế suất, giãn cách thu nhập
chịu thuế giữa các bậc thuế của biểu thuế.


12
Ngày 21/11/2007, Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân và
chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, thay thế cho “Thuế thu
nhập với người có thu nhập cao” trước đây.
Luật thuế TNCN quy định người nộp thuế là cá nhân người Việt Nam,
người nước ngoài có thu nhập chịu thuế bao gồm cả cá nhân tự kinh doanh
và chủ hộ gia đình hoặc người đại diện hộ gia đình. Việc chuyển cá nhân,
hộ kinh doanh hiện đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và mở rộng thêm

các đối tượng có thu nhập từ đầu tư vốn và tài sản vào nộp thuế thu nhập cá
nhân sẽ đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của cá nhân và phù hợp
với thông lệ quốc tế.
1.2. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở
VIỆT NAM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG
1.2.1. Bối cảnh và quá trình soạn thảo, ban hành Luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam
1.2.1.1. Bối cảnh ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
Ở nước ta, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, thu nhập
của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên, nhưng khoảng cách chênh lệch về
thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập
thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến
năm 2004, khoảng cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần) [ 9, tr.139].
Như vậy, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần đảm bảo tính hợp
lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và thu hẹp khoảng cách
chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm
được thông tin về thu nhập của cá nhân. Thông qua đó, vừa thực hiện động
viên nguồn lực vừa góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Trước đây, Việt Nam chưa có Luật thuế TNCN hoàn chỉnh để điều tiết
thống nhất các khoản thu nhập của cá nhân. Thu nhập của cá nhân được
điều chỉnh bởi các luật và pháp lệnh thuế khác nhau như: Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
và Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Chính sách động viên thuế đối với


13
thu nhập của cá nhân trong thời gian qua nhìn chung là phù hợp với điều
kiện kinh tế, lịch sử cũng như thực hiện được chính sách của Đảng và Nhà
nước giao phó.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển KT-XH và hội nhập kinh tế quốc

tế, các chính sách thuế đối với thu nhập của cá nhân ở nước ta hiện hành
còn bộc lộ một số mặt hạn chế như: Mức điều tiết về thuế còn chưa hợp lý,
cùng là thu nhập của cá nhân nhưng được điều chỉnh bởi các sắc thuế khác
nhau. Điều này thể hiện chỗ, mức điều tiết về thuế của cá nhân có thu nhập
từ kinh doanh và cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công còn chưa
công bằng. Việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cá nhân kinh
doanh như đối với pháp nhân là chưa phù hợp với đặc điểm của hộ kinh
doanh. Mức điều tiết mang tính chất bình quân, chưa xét đến yếu tố hoàn
cảnh của người nộp thuế. Việc áp dụng ngưỡng khởi điểm chịu thuế chung,
không phân biệt người nộp thuế là độc thân hay có gia đình là phù hợp với
thực tiễn của nước ta song chưa bảo đảm công bằng giữa cá nhân có cùng
thu nhập nhưng có hoàn cảnh gia đình khác nhau: người phải nuôi dưỡng
con, cha, mẹ cũng phải nộp thuế như người độc thân.
Với xu thế hội nhập toàn cầu thì nhược điểm này cần được khắc phục
khi xây dựng Luật thuế TNCN. Chính sách thuế đối với thu nhập của cá
nhân còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, theo quy định của
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao thì cùng là thu nhập
của cá nhân nhưng lại được điều chỉnh bởi các luật thuế khác nhau (thu
nhập từ hoạt động kinh doanh của cá nhân phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp nhưng thu nhập của cá nhân không phát sinh từ hoạt động kinh
doanh thì lại phải chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao). Trong
khi đó hầu hết các nước trên thế giới đều quy định rằng tất cả thu nhập chịu
thuế của pháp nhân sẽ điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (hay
thuế thu nhập công ty), còn các thu nhập chịu thuế của cá nhân sẽ được
điều chỉnh bởi Luật thuế TNCN. Ngoài ra, biểu thuế luỹ tiến từng phần áp
dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công cũng còn chưa hợp lý, thuế
suất còn cao so với các nước trong khu vực.


14

Mặc dù thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (gọi tắt là thuế
TNCN) không phải là hình thức mới mẻ ở nước ta, nhưng để có được một
Luật thuế phù hợp với điều kiện ở Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy, trước
sự phát triển mạnh mẽ của thị trường và các thành phần kinh tế, yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thu nhập của các cá nhân sẽ ngày
càng đa dạng, việc ban hành Luật thuế TNCN trên cơ sở thống nhất ba sắc
thuế nêu trên sẽ góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu
nhập và điều tiết vĩ mô nền KT-XH.
Trước bối cảnh kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong
thời gian qua, ngày 21/11/2007, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế thu nhập
cá nhân và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, thay thế
cho Pháp lệnh thuế thu nhập với người có thu nhập cao trước đây.
1.2.1.2. Quá trình soạn thảo và ban hành Luật thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam
Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập
cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công
bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính
sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều
tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã
thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu:
“Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu
trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và
tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Thực hiện các Nghị quyết này, Chính phủ đã
có Quyết định số 201/QĐ-TTg triển khai thực hiện Chiến lược cải cách thuế,
trong đó thuế thu nhập cá nhân được xác định ban hành vào năm 2007.
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau
gần một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày
20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt Nam



15
khoá XII đã thông qua Luật thuế Thu nhập cá nhân. Luật này có hiệu lực
thi hành từ 1/1/2009.
Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể
nói, đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến
nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm
mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay.
1.2.2. Đánh giá tác động của Luật thuế thu nhập cá nhân đối với
quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan
1.2.2.1. Đối với Nhà nước, cơ quan thuế và công chức ngành thuế
Đối với Nhà nước, cơ quan thuế và công chức ngành thuế, thuế thu
nhập cá nhân có những tác động cơ bản sau đây:
- Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan
trọng và ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, khả năng tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước cao, nhất là ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, Thuế TNCN có độ co giãn theo thu nhập tương đối lớn nên
cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư
cũng không ngừng tăng lên. Nếu có chính sách động viên hợp lý, ổn định
thì không cần phải thường xuyên thay đổi mà vẫn thu được một mức thu
mong muốn. Do sự ổn định trong mức huy động thuế nên đã tạo ra một môi
trường phù hợp với mục tiêu đầu tư kinh tế dài hạn của quốc gia, góp phần
khuyến khích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi
nhuận nhiều, tạo ra mức thu nhập ngày càng cao từ đó tạo nguồn thu ngày
càng tăng trưởng cho ngân sách nhà nước.
Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an
ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế... cũng

ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến
cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong


16
nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân
sách nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng
thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng số thu ngân sách
tại các nước trong khối ASEAN, như: Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Phi-lip-pin...
khoảng 12-16%, các nước đang phát triển khoảng 13 - 14%, các nước phát
triển như: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức... khoảng 30-40% [ 9, tr.144] . Tỷ
trọng thuế thu nhập của cá nhân (bao gồm cả 3 sắc thuế như đã nêu ở trên)
tại Việt Nam hiện nay khoảng 4,1%, riêng thuế TNCN đã đóng góp nguồn
thu và ngân sách nhà nước ngày càng tăng: năm 1991 là 62 tỷ, năm 1992 là
153 tỷ, đến năm 1998 là 1.550 tỷ, năm 2005 là 4.400 tỷ và năm 2006 là
5.100 tỷ, năm 2007 là 7.015 tỷ đồng, năm 2008 khoảng 14.000 tỷ đồng,
năm 2009 khoảng 13.300 tỷ đồng. [ 9, tr.144]
- Thuế thu nhập cá nhân là công cụ kinh tế vĩ mô được Nhà nước sử
dụng điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm.
Thuế TNCN không chỉ là công cụ huy động nguồn thu ngân sách nhà
nước, thực hiện công bằng xã hội, mà còn là một trong những công cụ quan
trọng của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua mức
thuế TNCN và chế độ miễn giảm thuế có thể khuyến khích đầu tư, tiết
kiệm…
Như đã phân tích, Thuế thu nhập cá nhân động viên trực tiếp vào thu
nhập của cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được
căn cứ trên các nguyên tắc “lợi ích”, “công bằng” và “khả năng nộp thuế”.
Việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công
bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng

cách chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư; đồng thời Nhà nước sẽ
nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân. Thông qua đó, vừa thực hiện
động viên nguồn lực vừa góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.


17
- Thuế thu nhập cá nhân góp phần giúp cơ quan thuế và công chức
thuế quản lý thu nhập dân cư.
Thông qua việc kiểm tra, xác minh thu nhập tính thuế TNCN, cơ quan
thuế cũng như công chức thếu có thể phát hiện những khoản thu nhập hợp
pháp, không hợp pháp để có những biện pháp xử lý phù hợp. Qua tài liệu,
số liệu về thuế TNCN giúp cho Chính phủ có thêm cơ sở để đánh giá khái
quát về tình hình thu nhập xã hội, về cơ cấu thu nhập dân cư để đề ra các
chính sách kinh tế-xã hội phù hợp.
Qua thời gian thực hiện thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở
Việt Nam, bước đầu đã tạo cho mọi người dân làm quen với việc kê khai
thu nhập và nhận thức được trách nhiệm về đóng thuế thu nhập, một loại
thuế phổ biến trên thế giới và cũng là tiền đề trong quá trình hoàn thiện
chính sách thuế thu nhập cá nhân ở Việt nam.
1.2.2.2. Đối với người nộp thuế
Đối với người nộp thuế, tác động chính của thuế thu nhập cá nhân thể
hiện ở chỗ: Thuế thu nhập cá nhân là công cụ góp phần thực hiện công
bằng xã hội, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập giữa những người có thu
nhập cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của một quốc
gia. Mặc dù về quan điểm hoàn thiện chính sách thuế là cần phải xây dựng
một chính sách thuế có tính trung lập, không nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau, nhưng trong thực tế chưa có quốc gia nào tách rời hẳn chính sách
thuế thu nhập cá nhân với một số chính sách xã hội. Sự công bằng được
biểu thị bởi biểu thuế luỹ tiến từng phần, mức điều tiết về thuế tăng dần

đều, người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều. Chính sách xã hội thể hiện
thông qua cơ chế chiết trừ gia cảnh và một số khoản giảm trừ trước khi tính
thuế. Như vậy, thuế TNCN đem lại sự công bằng tương đối cho người nộp
thuế.


18
Ngoài ra, với những quy định mới về giảm trừ gia cảnh, Luật thuế
TNCN còn giảm gánh nặng về nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế.
1.2.3. Nguyên tắc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân
Luật thuế TNCN cũng như các luật thuế khác đều có sự tác động
mạnh mẽ và trực tiếp tới quyền lợi của nhà nước và người nộp thuế. Vì
vậy, nguyên tắc áp dụng luật thuế TNCN cũng như nguyên tắc áp dụng các
luật thuế khác là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và người
nộp thuế, đảm bảo đạt được mục tiêu của nhà nước trong việc thu thuế
nhưng vẫn được sự ủng hộ của người dân.
1.2.3.1. Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng trong thực hiện Luật
thuế thu nhập cá nhân
Áp dụng thuế TNCN phải đảm bảo công bằng. Nội dung của nguyên
tắc này là việc áp dụng thuế TNCN phải đảm bảo mọi đối tượng thuộc diện
chịu thuế TNCN đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan
đến thuế TNCN như nhau phải được đối xử về thuế TNCN như nhau.
Trong trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, tính công bằng vẫn được
đảm bảo. Đó là nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác nhau
nhưng cùng loại phải được đối xử với nhau tương xứng [7, tr.118-19].
Nguyên tắc này phải được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống văn bản
pháp luật về thuế TNCN từ luật, nghị định, thông tư hay công văn hướng
dẫn thực hiện. Nguyên tắc đảm bảo công bằng không chỉ là nguyên tắc
xuyên suốt của hệ thống pháp luật thuế TNCN mà còn là nguyên tắc hàng
đầu của hệ thống văn bản pháp luật về thuế nói chung vì đây là nguyên tắc

hiến định.
Nguyên tắc đảm bảo công bằng còn thể hiện ở chỗ những đối tượng
thuộc diện ưu đãi, miễn giảm thuế TNCN như nhau thì phải được ưu đãi,
miễn giảm số thuế như nhau, tránh tình trạng ưu đãi, miễn giảm thuế không
thống nhất và không công bằng gây thất thoát ngân sách nhà nước và gây
hiệu ứng không tốt trong dân chúng.
1.2.3.2. Nguyên tắc đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và


19
người nộp thuế
Áp dụng luật thuế TNCN phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà
nước và người nộp thuế TNCN. Nội dung của nguyên tắc này là việc áp
dụng thuế TNCN phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng
không được để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng. Đây là
yêu cầu quan trọng để đảm bảo tính “trung lập” của thuế [ 7, tr.19]. Thực
hiện nguyên tắc này, nhà nước sẽ không tạo ra những quy định khiến người
nộp thuế phải gánh chịu nghĩa vụ thuế một cách nặng nề. Điều này xuất
phát từ đạo lý là thuế TNCN đánh vào một số lượng không nhỏ người dân
có thu nhập cao trong xã hội, đối tượng nộp thuế TNCN là rất rộng và theo
tốc độ phát triển của xã hội thì số lượng người nộp thuế TNCN ngày càng
lớn, nếu phải trả số thuế quá lớn sẽ khiến đời sống người dân bị ảnh hưởng,
nguy cơ trốn thuế sẽ tăng cao, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, việc xác định thế nào là cân bằng giữa lợi ích của nhà nước
và người nộp thuế TNCN là không đơn giản. Nguyên tắc này có ý nghĩa
pháp lý quan trọng trong việc xác định những nội dung cơ bản của luật thuế
TNCN như xác định đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, căn cứ tính
thuế và biểu thuế suất. Việc ban hành luật thuế TNCN phải dựa trên căn cứ
là việc tính toán số tiền thuế người dân phải trả chứ không chỉ xuất phát từ
nhu cầu chi tiêu của Chính phủ.

1.2.3.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả kinh tế trong quá trình
áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân
Áp dụng luật thuế TNCN phải đảm bảo tính kinh tế và tính hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng luật thuế TNCN phải đơn giản, rõ
ràng, dễ hiểu, minh bạch và giảm chi phí cho mọi chủ thể liên quan.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi các quy định của Luật thuế phải có tính ổn
định cao, dễ tiếp cận và dễ hiểu, dễ thực hiện. Mặt khác, việc tổ chức bộ
máy hành thu phải được tổ chức sao cho chi phí quản lý thu thuế TNCN
không cao hơn mức chi phí cho phép trong mục tiêu đề ra. Ngoài ra, việc
áp dụng luật thuế TNCN cũng phải tính tới mối tương quan giữa tổng thu


20
dự tính đạt được và chi phí phải trả cho việc thu và quản lý thuế TNCN.
Kết luận chương 1
Việc ban hành luật thuế TNCN là rất cần thiết vì bất kỳ một quốc gia
nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế thu nhập cá
nhân là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu
cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Ở Việt Nam, thuế thu nhập
cá nhân dần được hoàn hiện theo thời gian. Từ năm 1991 đến trước năm
2009, để phù hợp hơn với tình hình thực tế, thuế TNCN ở Việt Nam được
quy định dưới hình thức Thuế thu nhập với người có thu nhập cao. Từ
01/01/2009, Luật thuế TNCN chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước phát
triển quan trọng của sắc thuế này. Luật thuế TNCN có vai trò quan trọng
đối với nhà nước, cơ quan thuế, công chức thuế và người nộp thuế. Thuế
TNCN là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng và ổn định cho ngân
sách nhà nước, là công cụ kinh tế vĩ mô được nhà nước sử dụng để điều tiết
thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm, thuế TNCN góp phần giúp cơ quan thuế
và công chức thuế quản lý thu nhập dân cư đồng thời góp phần thực hiện
công bằng xã hội, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập giữa những người có

thu nhập cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội. Với vai trò
quan trọng như vậy, thuế TNCN ngày càng khẳng định được vị trí quan
trọng trong hệ thống thuế của nước ta, số thu của thuế TNCN ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số thu ngân sách nhà nước.


×