Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng dân tộc và các uỷ ban thường trực của quốc hội việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.02 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN THU HUYỀN

HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN THƯỜNG TRỰC CỦA
QUỐC HỘI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp
Mã số: 60 38 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Tô Văn Hòa

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này đã được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của Thầy
giáo - Tiến sĩ Tô Văn Hòa, giảng viên trường Đại học Luật, Hà Nội. Vì thế
trước tiên, luận văn này là món quà bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối
với người Thầy của mình.
Đồng thời, để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn quý
Thầy Cô giáo lớp Cao học Luật khóa XV, Trường Đại học Luật, Hà Nội những người đã truyền đạt, vun đắp kiến thức cho tôi trong suốt những năm
học tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
nhiệt tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu và tạo mọi điều kiện cần


thiết để tôi hoàn thành tốt luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót, có những vấn đề lý luận và thực tiễn đang và sẽ nảy
sinh mà tôi chưa cập nhật được. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý Thầy
Cô và toàn thể bạn đọc để luận văn đạt kết quả cao hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2010
Tác giả luận văn

Đoàn Thu Huyền


2

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

2

MỞ ĐẦU

4

Chương 1:

VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN

8

THƯỜNG TRỰC CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VÀ NGHỊ

VIỆN CÁC NƯỚC

1.1.

Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Ủy
ban thường trực của Quốc hội Việt Nam

9

1.2.

Vị trí của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc
hội Việt Nam

12

1.3.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam

16

1.4.

Cơ cấu tổ chức của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường
trực của Quốc hội Việt Nam

27


1.5.

Vai trò, tổ chức và hoạt động của ủy ban thường trực của nghị
viện một số nước

29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

39

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN TỔ

40

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ
CÁC ỦY BAN THƯỜNG TRỰC CỦA QUỐC HỘI VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1.

Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam

40

2.2.

Đổi mới Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của
Quốc hội Việt Nam trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp

quyền

50

2.3.

Quan điểm và nguyên tắc cơ bản tiếp tục đổi mới tổ chức và

54


3
hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội Việt Nam
2.4.

Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay

55

KẾT LUẬN

68

Phụ lục 1

70


Phụ lục 2

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội là công việc luôn được Đảng quan tâm và coi trọng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng Khoá VIII năm
1997 đã nêu chủ trương “Nghiên cứu thành lập thêm một số Ủy ban của Quốc
hội”. Tiếp tục tinh thần của chủ trương này, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh “đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội...Tổ chức lại một số Ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất
lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội” [5,
tr.126] là một trong số các nhiệm vụ hàng đầu của việc phát huy dân chủ, tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chiến
lược xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến
năm 2020 cũng nhấn mạnh đến mục tiêu đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội đặc biệt là nhấn mạnh về quy trình thủ tục hoạt động của Quốc hội
và các cơ quan của Quốc hội như một biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất
lượng của hệ thống pháp luật. Sau Đại hội Đảng X, Quốc hội khoá XI đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội và
tăng thêm số Ủy ban thường trực của Quốc hội với mục đích chính là thể chế

hoá quan điểm này của Đảng. Điều đó cũng cho thấy về mặt chủ trương đổi
mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
thường trực của Quốc hội có tác động to lớn đến việc đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động của Quốc hội, góp phần xây dựng hiệu quả bộ máy nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vì lý do đó mà trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của


5
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ
ban thường trực của Quốc hội Việt Nam đã được nhiều công trình khoa học
nghiên cứu, như:
- Hội thảo khoa học cải cách bộ máy nhà nước góp phần thưc hiện mục
tiêu hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước (ngày 17 tháng 3 năm 2001), của
Bộ Tư pháp;
- Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, của
PGS. TS. Bùi Xuân Đức, Nhà xuất bản Tư pháp, 2004.
- Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, của PGS. TS. Nguyễn
Đăng Dung, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
- Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, của TS Lê
Thanh Vân, Nhà xuất bản Tư pháp, 2007.
- Một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, của Đặng Đình Luyến, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (2006).
- Luận văn thạc sỹ luật học: Các ủy ban của Quốc hội theo quy định của
pháp luật Việt Nam và cộng hòa Pháp, của Nguyễn Thị Phương Thảo, hướng

dẫn khoa học TS. Phan Trung Lý, GS. Serge.Sur, 2004.
Những công trình, tài liệu này là nguồn tư liệu nghiên cứu, tham khảo có
giá trị, mang tính lý luận và thực tiễn cao về vấn đề xây dựng và hoàn thiện tổ
chức bộ máy nhà nước, tổ chức và hoạt động Quốc hội. Tuy nhiên chưa có
công trình nào đề cập đến hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân


6
tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay ở phạm vi rộng hơn như luận văn đã đề cập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về vai trò
của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam;
phân tích đánh giá thực trạng, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn cũng kiến nghị các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của hệ thống Ủy ban
thường trực của Quốc hội Việt Nam, làm rõ vai trò, tổ chức và hoạt động Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội; tham khảo những kinh
nghiệm tổ chức và hoạt động của Ủy ban của nghị viện một số nước.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban thường trực của Quốc hội để đưa ra các quan điểm, giải pháp hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban

thường trực của Quốc hội có thể đề cập ở nhiều góc độ, mức độ khác nhau,
tuy nhiên, luận văn chỉ đề cập vào những nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt


7
động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt
Nam và không nghiên cứu các Ủy ban lâm thời của Quốc hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức bộ máy nhà nước, về việc tiếp tục xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp
phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, lịch sử, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn khái quát được quá trình hình thành và phát triển và làm sáng
tỏ vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc
và các Ủy ban thường trực của Quốc hội.
- Trên cơ sở đánh giá được thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội và kinh nghiệm nước ngoài,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan này trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 9 tiết.


8

Chương 1

VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN THƯỜNG TRỰC
CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VÀ NGHỊ VIỆN CÁC NƯỚC

Để có cơ sở đưa ra các đề xuất hoàn thiện hệ thống Hội đồng dân tộc và
các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam, chương này tập trung nghiên
cứu hai vấn đề lớn: vai trò của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội Việt Nam theo pháp luật hiện hành và một số đặc điểm chính
trong vai trò của các Ủy ban của nghị viện các nước trên thế giới.
Trước tiên, về mặt khái niệm, ủy ban theo nghĩa chung và phổ biến nhất
là “một nhóm người được một tập thể lớn hơn trao cho những quyền hạn nhất
định để thực hiện một nhiệm vụ hoặc một chức năng cụ thể nào đó” [36,
tr.10]. Trong cơ cấu tổ chức của cơ quan lập pháp nói chung, các ủy ban của
nghị viện được hiểu là “tập hợp các nghị sĩ được phân công làm một số công
việc cụ thể của nghị viện” [36,tr.10]. Các ủy ban mà nghị viện thành lập ra có
thể là các ủy ban tồn tại và hoạt động thường xuyên trong một lĩnh vực nào đó
(hay còn gọi là “ủy ban thường trực”) và ủy ban được thành lập để thực hiện
một công việc cụ thể trong một khoảng thời gian cụ thể (hay còn gọi là “ủy
ban lâm thời”).
Các Ủy ban này, theo điều 21, Luật Tổ chức Quốc hội Việt Nam hiện
hành, đã được định nghĩa là những cơ quan của Quốc hội, gồm các đại biểu
quốc hội, hoạt động chuyên trách, thường xuyên theo nhiệm kỳ, làm việc theo
chế độ tập thể và quyết định theo đa số, thực hiện nhiệm vụ thẩm tra, giám
sát, kiến nghị theo quy định của Luật này. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, Hội đồng dân tộc của Quốc hội có địa vị pháp lý như các Ủy ban, là
một cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Tuy nhiên,
để nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách dân tộc thì Chủ tịch Hội đồng


9
dân tộc được tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội; được

tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về chính sách dân tộc mà Chủ tịch
Ủy ban không có quyền này [24, đ24]. Vì vậy Hội đồng dân tộc cũng được đề
cập như một Ủy ban thường trực của Quốc hội.
Trong khuôn khổ luận văn này sẽ chỉ đề cập tới Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam hay Ủy ban thường trực của nghị
viện các nước. Và thuật ngữ “Ủy ban”, nếu không có chỉ dẫn khác, sẽ được
hiểu là các Ủy ban thường trực của Quốc hội.
1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Ủy ban
thường trực của Quốc hội Việt Nam
Lịch sử phát triển của hệ thống các Ủy ban thường trực của Quốc hội
nước ta cho thấy hệ thống các cơ quan này đã trải qua một quá trình phát triển
liên tục, lâu dài gắn liền với hoạt động của Quốc hội qua các thời kỳ. Ngay ở
khoá Quốc hội thứ nhất (1946-1960), khi chưa có Luật tổ chức Quốc hội và
Hiến pháp năm 1946 cũng không quy định về việc thành lập và hoạt động của
các Uỷ ban của Nghị viện nhưng Ban thường vụ Nghị viện - cơ quan thường
trực của Nghị viện - đã thành lập ba tiểu ban chuyên môn giúp việc, gồm Tiểu
ban Pháp chế, Tiểu ban Tài chính- Kinh tế và Tiểu ban Kiến nghị, có nhiệm
vụ giúp Ban thường vụ Nghị viện nghiên cứu xem xét các báo cáo của Chính
phủ, dự án sắc luật. Sau ngày miền Bắc được giải phóng năm 1954, Ban
thường vụ Nghị viện đã thành lập mười hai tiểu ban chuyên môn giúp cơ
quan này thẩm tra các dự án luật, dự án sắc lệnh, các báo cáo của Chính phủ
đệ trình Nghị viện, kiến nghị với Nghị viện những vấn đề thuộc lĩnh vực mà
tiểu ban phụ trách. Về bản chất, đây là các tiểu ban có chức năng giúp việc
cho Ban thường trực Quốc hội, nên không được xem như các Ủy ban thường
trực đầu tiên của Quốc hội. Tuy nhiên, các tiểu ban này có thể được coi là


10
mầm mống của các Ủy ban thường trực sau này vì nhiệm vụ của các tiểu ban
và các Ủy ban sau này có nét tương đồng.

Từ năm 1960, theo Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thành lập những Ủy
ban thường trực đầu tiên là Uỷ ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân
sách và những Ủy ban khác mà Quốc hội có thể thành lập nếu xét thấy cần
thiết [18, đ57,58], [19, đ33]. Trên thực tế Quốc hội khoá II (1960-1964) lúc
đầu chỉ thành lập hai Ủy ban là Ủy ban dự án pháp luật và Ủy ban kế hoạch
và ngân sách. Đây chính là tiền thân của Ủy ban pháp luật và Ủy ban tài
chính, ngân sách hiện thời. Năm 1961, Quốc hội thành lập thêm Ủy ban dân
tộc theo Nghị quyết tại kỳ họp ngày 20 tháng 4 năm 1961 và đến năm 1963
thành lập thêm Ủy ban thống nhất theo Nghị quyết ngày 30 tháng 4 năm 1963
[42, tr26].
Quốc hội khoá III ( 1964-1971), có năm Ủy ban của Quốc hội trong đó
có bốn Ủy ban đã được thành lập trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá II và có thêm
một Ủy ban mới là Ủy ban văn hoá, xã hội theo Nghị quyết của Quốc hội
ngày 3/7/1964.
Quốc hội khoá IV( 1971-1975) có thêm Ủy ban đối ngoại theo Nghị
quyết của Quốc hội ngày 9 tháng 2 năm 1974 và mô hình gồm sáu Ủy ban
này được tồn tại cho đến Quốc hội khoá V ( 1975-1976) [42, tr126].
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá VI (1976-1981), nước nhà thống nhất,
Ủy ban thống nhất hoàn thành nhiệm vụ. Ủy ban văn hoá, xã hội đã được tách
thành hai Ủy ban là Ủy ban văn hoá và giáo dục và Ủy ban y tế và xã hội [42,
tr133].
Trong hai nhiệm kỳ khoá VII ( 1981-1987) và khoá VIII (1987-1992),
Quốc hội hoạt động theo Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm


11
1981, lần đầu tiên Quốc hội thành lập các hội đồng là Hội đồng quốc phòng
và Hội đồng dân tộc. Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981
quy định Quốc hội có bảy Ủy ban gồm: Ủy ban pháp luật, Ủy ban kinh tế, kế
hoạch và ngân sách, Ủy ban văn hoá và giáo dục, Ủy ban khoa học và kỹ

thuật, Ủy ban y tế và xã hội, Ủy ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Ủy
ban đối ngoại. Ngoài ra, Quốc hội có thể thành lập các Ủy ban thường trực
khác khi xét thấy cần thiết.
Trong giai đoạn hiến pháp của thời kỳ đổi mới từ năm 1992 đến 2007 có
ba nhiệm kỳ của Quốc hội gồm Quốc hội khoá IX (1992-1997), khoá X
(1997-2002) và khoá XI (2002-2007). Trong đó Quốc hội khóa XI có tám cơ
quan chuyên môn gồm Hội đồng dân tộc và bảy Ủy ban: Ủy ban pháp luật,
Ủy ban kinh tế và ngân sách, Ủy ban các vấn đề xã hội, Uỷ ban khoa học,
công nghệ và môi trường, Uỷ ban văn hoá và giáo dục, thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng, Uỷ ban quốc phòng và an ninh và Ủy ban đối ngoại [24, đ22].
Đến năm 2007, do “cơ cấu tổ chức của các cơ quan của Quốc hội vẫn
chưa hoàn thiện, số lượng đại biểu quốc hội chuyên trách còn hạn chế, trong
khi khối lượng công việc tăng lên gấp bội, tình trạng quá tải công việc đã xuất
hiện trong nhiều năm” [41] cùng với mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới vào những năm 2005, 2006, Quốc hội khoá XI quyết định tách Ủy
ban pháp luật thành Ủy ban tư pháp và Ủy ban pháp luật; Ủy ban kinh tế và
ngân sách thành Ủy ban kinh tế và Ủy ban tài chính và ngân sách. Như vậy,
hiện nay Quốc hội có Hội đồng dân tộc và chín Ủy ban của Quốc hội, bao
gồm: Ủy ban pháp luật; Ủy ban tư pháp; Ủy ban kinh tế; Ủy ban tài chính,
ngân sách; Ủy ban quốc phòng và an ninh; Ủy ban văn hoá, giáo dục, thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban các vấn đề xã hội; Ủy ban khoa học,
công nghệ và môi trường; Ủy ban đối ngoại [25, đ1].


12
Khung pháp luật tổng thể hiện hành về vị trí, nhiệm vụ quyền hạn cụ thể
của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội bao gồm Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội năm 2007, Luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội năm 2003, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân

tộc và các Ủy ban của Quốc hội năm 2004 và các văn bản khác như Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Quy chế hoạt động của Ủy ban
thường vụ Quốc hội năm 2004, Quy chế làm việc của từng Ủy ban và Nội quy
kỳ họp Quốc hội năm 2003.
Nhìn tổng thể lịch sử hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam, có
thể thấy ở thời kỳ đầu của lịch sử lập hiến, với việc mới giành được chính
quyền lại phải đương đầu với việc giữ chính quyền non trẻ, vai trò của Ủy ban
chưa được nhìn nhận rõ. Từ sau Hiến pháp 1959, khi Việt Nam đã giành được
chủ quyền nhất định đối với lãnh thổ, vai trò của Ủy ban ngày càng được
nâng cao, biểu hiện ở chỗ số lượng và mức độ chuyên môn hóa giữa các Ủy
ban ngày càng tăng. Điều này được giải thích là do nhu cầu thực tiễn của công
cuộc xây dựng đất nước, do sự phát triển của kinh tế cùng với sự phát triển và
áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ làm nảy sinh nhiều vấn đề trong
những lĩnh vực mới, đòi hỏi Quốc hội phải giải quyết. Vì lẽ đó, Quốc hội phải
thành lập các Ủy ban trong từng lĩnh vực và ngày càng có xu hướng tương
ứng với từng lĩnh vực của các bộ của Chính phủ, thể hiện sự chuyên môn hoá
ngày càng cao của Ủy ban của Quốc hội.
1.2. Vị trí của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc
hội Việt Nam
Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội ngày càng
có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và trong
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong thời kỳ mới, Quốc hội


13
Việt Nam đang đứng trước một số thách thức và vấn đề lớn đòi hỏi phải giải
quyết là:
Thứ nhất là sự phân công lao động. Quốc hội Việt Nam là diễn đàn quá
lớn mà tại phiên toàn thể, với thời gian ngắn người ta không thể tiến hành tất
cả khối lượng lớn các công việc đòi hỏi sự chi tiết, kỹ thuật và những vấn đề

có tính chuyên môn cao. Một giải pháp được đưa ra là chia nhỏ các công việc
của Quốc hội và phân công cho những nhóm người nhất định có trình độ
chuyên môn tiến hành nghiên cứu và trình lên phiên thảo luận toàn thể.
Phương án này giúp tiết kiệm tối đa chi phí và thời gian của Quốc hội.
Thứ hai là nhu cầu cung cấp thông tin. Để quyết định một vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội, các đại biểu cần phải được cung cấp
thông tin chuyên môn, đôi khi là thông tin mang tính chuyên ngành hẹp. Các
Ủy ban thường trực gồm các đại biểu có năng lực chuyên sâu là giải pháp tối
ưu giúp thu thập thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau, xử lý và cung
cấp cho Quốc hội cũng như các đại biểu quốc hội.
Thứ ba là đòi hỏi về tính chuyên nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hóa và
đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội ngày càng phát triển, hoạt động của Quốc
hội ngày càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, Quốc hội Việt Nam
hoạt động không thường xuyên, đa số đại biểu quốc hội làm việc kiêm nhiệm.
Vì vậy, Quốc hội cần phải thành lập ra cơ quan giúp việc thường trực, hoạt
động thường xuyên và chuyên trách giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng
của mình.
Thứ tư là tính kịp thời trong các quyết định của Quốc hội. Trong nhiều
tình huống các quyết định của Quốc hội vừa đòi hỏi sự cấp thiết, vừa đòi hỏi
sự chính xác. Các Ủy ban với cơ cấu gọn nhẹ, thành phần gồm các chuyên gia


14
tinh thông về nghiệp vụ, am hiểu về những lĩnh vực chuyên môn sẽ giúp
Quốc hội đưa ra được các quyết định một cách kịp thời và sáng suốt nhất.
Với những lý do nêu trên, có thể thấy, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
thường trực là những cơ quan giúp việc không thể thiếu trong tổ chức của
Quốc hội, đóng vai trò quyết định tới hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Vị trí
này của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội đã được
khẳng định một cách rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

Theo đó, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là những cơ quan
thường trực của Quốc hội, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa
số. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo
công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội [24, đ21].
Các thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội do
Quốc hội quyết định số lượng thành viên và bầu trong số các đại biểu Quốc
hội. Quốc hội cũng có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với các thành viên
của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội [24, đ24- đ25].
Từ góc độ pháp lý, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội hoạt
động thường xuyên, liên tục trong suốt nhiệm kỳ của mình và đóng vai trò là
các cơ quan chuyên môn, tư vấn và giúp việc cho Quốc hội trong các lĩnh vực
thuộc chức năng của Quốc hội. Các cơ quan trong bộ máy hành pháp và tư
pháp đều phải chịu sự giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội. Các dự án luật, các báo cáo của cơ quan nhà nước khác trước khi trình
Quốc hội đều phải được Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội thẩm
tra. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn được giao có quyền kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc


15
hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước và các chính sách
biện pháp giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước.
Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội đều là cơ quan của Quốc hội. Tuy nhiên, trong khi các Ủy ban thường trực
được coi là các cơ quan tư vấn, giúp việc, xem xét các vấn đề cụ thể thì Ủy
ban thường vụ Quốc hội có vai trò chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của
các Ủy ban thường trực, [24, đ7], [21, đ91] phân công cơ quan thẩm tra các
dự án luật, dự án pháp lệnh và cho ý kiến về các dự án này trước khi trình ra
Quốc hội [24, đ9]. Cơ quan này cũng được giao một số quyền hạn nhất định

như: ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao, giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh [24, đ6- đ7], thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Đây cũng là cơ quan khá đặc thù trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội Việt
Nam so với hầu hết nghị viện các nước.
Vị trí, vai trò tư vấn, giúp việc của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban được
thể hiện rõ trong quy trình tiến hành các kỳ họp của Quốc hội. Quốc hội họp
thường lệ mỗi năm hai kỳ, trừ trường hợp họp bất thường theo yêu cầu của
Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại
biểu yêu cầu hoặc theo quyết định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội [24, đ62].
Các vấn đề trong chương trình kỳ họp sẽ được thảo luận và quyết định tại
phiên toàn thể, tuy nhiên khi cần thiết Quốc hội quyết định thảo luận tại Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội [24, đ68]. Tại kỳ họp, Chủ tịch
Quốc hội có thể mời Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc
hội và thành viên khác có liên quan trao đổi những vấn đề cần thiết để trình
Quốc hội xem xét, quyết định [22, đ13]. Tại kỳ họp, Quốc hội cũng nghe Ủy
ban trình bày báo cáo công tác, báo cáo thẩm tra về dự án luật, các dự án,
công trình quan trọng quốc gia trước khi biểu quyết [24, đ73-đ75].


16
Tóm lại, với vị trí là cơ quan thường trực do Quốc hội thành lập, Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban giữ vai trò như một cơ quan giúp việc, thư ký cho
Quốc hội, giữ vai trò là đầu mối liên hệ giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội và cơ quan nhà nước khác trong việc giải quyết công việc của Quốc
hội.
1.3 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban thường trực của Quốc hội Việt Nam
“Chức năng của một cơ quan là những phương diện, loại hoạt động cơ
bản để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình” [3,tr168]. Theo pháp luật
hiện hành, Quốc hội có ba chức năng là: (1) lập hiến và lập pháp; (2) quyết

định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội, hoạt động của công
dân; và (3) giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với vị
trí là cơ quan giúp việc thường trực của Quốc hội, chức năng của Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội luôn bám sát và phục vụ việc
thực hiện các chức năng của Quốc hội. Trên cơ sở đó, pháp luật hiện hành
quy định Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội có các
chức năng thẩm tra, giám sát và đưa ra kiến nghị. Trong đó có thể thấy thẩm
tra và giám sát là hai phương diện hoạt động chính của các Ủy ban thường
trực còn chức năng kiến nghị được coi là một chức năng phái sinh từ hai chức
năng trên. Kết quả thu được từ việc thực hiện chức năng thẩm tra và giám sát
sẽ được Ủy ban của Quốc hội đưa ra các kiến nghị giúp Quốc hội thực hiện
tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong hoạt động lập pháp của Quốc hội,
Hội đồng và Ủy ban có chức năng thẩm tra các dự án luật. Để giúp Quốc hội
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Hội đồng và Ủy ban tiến
hành thẩm tra các báo cáo, các đề án và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề


17
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.Trong hoạt động giám sát, Ủy
ban có chức năng thẩm tra các báo cáo phục vụ hoạt động giám sát tối cao, tự
mình giám sát và thực hiện quyền kiến nghị. Như vậy, rõ ràng là các chức
năng của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban đều có mục đích và gắn liền với
việc việc thực hiện tốt chức năng của Quốc hội.
Để thực hiện các chức năng của mình, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
được pháp luật trao cho những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Các nhiệm vụ,
quyền hạn này cũng như quy trình, thủ tục cụ thể thực hiện chúng sẽ được
phân tích dưới đây.
1.3.1 Các nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng thẩm tra của

Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam
Thẩm tra có nghĩa là “xem xét có đúng không” [3, tr764]. Thẩm tra của
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam là việc xem xét các
vấn đề trước khi trình ra Quốc hội về tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi của vấn
đề đó.
Để thực hiện chức năng thẩm tra, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban có
nhiệm vụ và cũng là quyền hạn thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án
pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy
ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý
kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh [24, đ21].
Các vấn đề được thẩm tra (đối tượng thẩm tra)
Đối tượng thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban là các dự án luật,
pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, các báo cáo, dự
án khác thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách hoặc theo sự phân công
của Ủy ban thường vụ Quốc hội [24, đ72], [23, đ41]. Khi tiến hành thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban sẽ tập trung vào


18
các nội dung như phạm vi, đối tượng điều chỉnh, tính khả thi của những nội
dung dự thảo và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, sự phù hợp và tính
thống nhất của nội dung dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Hiến pháp và hệ thống pháp luật.
Ngoài các đối tượng thẩm tra được quy định chung như trên, Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội còn có quyền thẩm tra hoặc chủ trì thẩm
tra các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên trách của mình, cụ thể:
- Uỷ ban pháp luật thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan
ngang bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt;
báo cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

[25, đ1];
- Ủy ban tư pháp thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác phòng,
chống tham nhũng, công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật, tội
phạm, công tác thi hành án; báo cáo công tác của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao [25, đ1];
- Ủy ban kinh tế thẩm tra chương trình, dự án, kế hoạch nhà nước về phát
triển kinh tế- xã hội; báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội [25, đ1];
- Ủy ban tài chính, ngân sách thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước,
phương án phân bổ ngân sách trung ương và tổng quyết toán ngân sách nhà
nước [25, đ1];
Một điểm mới trong nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban thường trực sau khi Luật tổ chức Quốc hội được sửa đổi năm 2007 là
các cơ quan này trong phạm vi, nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm
tham gia thẩm tra với Ủy ban kinh tế, Ủy ban tài chính, ngân sách, Ủy ban


19
pháp luật trong các lĩnh vực chuyên trách kể trên của từng Ủy ban; tham gia
thẩm tra với Ủy ban tư pháp thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác
phòng, chống tham nhũng [25, đ1]. Ngoài ra, Ủy ban pháp luật tham gia thẩm
tra để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật,
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật; Ủy ban về các vấn đề
xã hội tham gia thẩm tra để bảo đảm bình đẳng giới khi dự án, dự thảo đó có
nội dung liên quan đến bình đẳng giới [25, đ1].
Quy trình và phương thức thẩm tra
Quy trình và phương thức tiến hành thẩm tra của Hội đồng dân tộc và
các Ủy ban thường trực của Quốc hội được pháp luật hiện hành quy định khá
rõ ràng, bao gồm một số bước chính sau.
Bước 1: Chuẩn bị thẩm tra. Để chuẩn bị cho việc thẩm tra, Thường trực

Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội giao cho Tiểu ban hoặc
thành viên Hội đồng, Ủy ban nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo báo cáo những vấn đề liên quan;
tổ chức lấy ý kiến chuyên gia; tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan, tổ chức chủ
trì soạn thảo tổ chức hội thảo, khảo sát thực tế [27,21].
Bước 2: Tiến hành các hoạt động thẩm tra
Hoạt động thẩm tra được thực hiện tại các phiên họp toàn thể của cơ
quan chủ trì thẩm tra. Trường hợp thẩm tra các dự án luật, dự thảo nghị quyết
của Quốc hội trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến thì có thể tổ chức
phiên họp Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban để thẩm tra sơ bộ [23,
đ44].
Thành phần tham gia cuộc họp thẩm tra gồm: cơ quan chủ trì thẩm tra,
đại diện cơ quan tham gia thẩm tra hoặc thường trực cơ quan tham gia thẩm
tra, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và


20
đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản được cơ quan
chủ trì mời nếu cần thiết [23, đ41- đ44].
Phiên họp thẩm tra diễn ra theo trình tự sau:
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, báo
cáo trình bày về dự án, dự thảo, báo cáo.
- Đại biểu tham dự phiên họp nêu câu hỏi và đại diện cơ quan, tổ chức,
đại biểu Quốc hội trình dự án trình bày bổ sung để làm rõ vấn đề mà Hội
đồng, Ủy ban, đại biểu tham dự phiên họp thẩm tra nêu ra hoặc yêu cầu;
- Đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban phát biểu
ý kiến; đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban tham gia
thẩm tra và đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự phiên họp phát biểu ý
kiến;
- Thành viên Hội đồng, Ủy ban thảo luận;

- Chủ tọa phiên họp kết luận; đối với những vấn đề quan trọng và cần
thiết thì chủ tọa phiên họp lấy biểu quyết [27, đ11].
Bước 3: Báo cáo thẩm tra
Sau phiên họp thẩm tra, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy
ban xây dựng báo cáo thẩm tra trình Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về
những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra, đề xuất những nội dung cần sửa đổi,
phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra và của các cơ
quan tham gia thẩm tra [27, đ24], [23, đ45].
Sau khi được lập, báo cáo thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh được trình cho
Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến, và khi đó, đại diện của Ủy


21
ban chủ trì thẩm định sẽ phải có mặt để trình bày về báo cáo thẩm tra và kiến
nghị những nội dung đề nghị đưa ra Quốc hội thảo luận [23, đ49].
Khi hồ sơ dự án luật, pháp lệnh đã được chuẩn bị sẵn sàng để chuyển
sang Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua, vai trò là cơ quan
thẩm tra, giúp việc của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực càng thể
hiện rõ hơn. Nếu dự án luật, pháp lệnh được thảo luận và thông qua tại một kỳ
họp của Quốc hội hay phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc hay các Ủy ban thường trực của Quốc hội với tư cách cơ quan chủ trì
thẩm tra hoặc thẩm tra dự thảo văn bản sẽ có trách nhiệm trình bày báo cáo
thẩm tra và đề xuất các nội dung cụ thể để Quốc hội hay Ủy ban thường vụ
Quốc hội thảo luận trước khi thông qua. Nếu dự án luật, pháp lệnh cần phải
được thông qua trong hai kỳ họp hoặc phiên họp, vai trò của Hội đồng và Ủy
ban thường trực ngoài việc trình bày báo cáo thẩm tra và đề xuất các nội dung
thảo luận sẽ còn là cơ quan trực tiếp chủ trì chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo giữa
hai lần họp để phục vụ cho việc Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội
thông qua vào kỳ họp hay phiên họp sau [23, đ52-54]. Riêng Thường trực của

Ủy ban pháp luật còn có trách nhiệm rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn
bản, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo
với hệ thống pháp luật [23, đ52-54].
Như vậy là theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiệm vụ quyền hạn
của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội thể hiện rất rõ
vai trò thẩm tra, thư ký và hỗ trợ của các cơ quan này đối với việc thực hiện
các chức năng tương ứng của Quốc hội, đặc biệt là chức năng lập hiến, lập
pháp và hoạt động ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.


22
1.3.2 Các nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng giám sát của Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội Việt Nam
“Giám sát” được hiểu là “theo dõi việc thực hiện những điều đã cam kết,
quy định” [3, tr327]. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “Giám sát là
việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội” [26,
đ2].
Khác với đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội là toàn bộ bộ máy nhà
nước trong đó tập trung nhất là những cơ quan nhà nước cao nhất, đối tượng
chịu sự giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao [26, đ3].
Căn cứ vào từng lĩnh vực được giao mà Hội đồng dân tộc và Ủy ban của
Quốc hội tiến hành giám sát đối với các nội dung sau:
(1) việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ,
cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

(2) các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ thưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã
hội; và
(3) việc thực hiện ngân sách nhà nước, công tác phòng ngừa tham nhũng
và việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng [25, đ1].


23
Trong lĩnh vực này, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban có nhiệm vụ và
quyền hạn thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc
hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban cũng có
quyền kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc
bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn [24, đ21].
Phương thức giám sát:
Hội đồng và các Ủy ban thực hiện các phương thức giám sát sau:
- Thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách
hoặc theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội thuộc lĩnh vực mình phụ trách;
- Yêu cầu chủ thể bị giám sát báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội
đồng, Ủy ban phụ trách.
- Tổ chức đoàn nghiên cứu đi khảo sát thực tế;
- Cử thành viên của mình đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác
minh về vấn đề mà Hội đồng, Ủy ban quan tâm;

- Nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân thuộc lĩnh vực mình phụ trách;
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội


24
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội được thể hiện chủ yếu dưới hình thức kiến nghị, bao gồm:
- Kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ thể chịu sự giám sát
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc
thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật mới;
- Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về
những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Trong trường hợp
những chủ thể này không trả lời kiến nghị trong vòng mười lăm ngày hoặc
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban không tán thành với nội dung đó thì Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có quyền kiến nghị với Chủ tịch
Quốc hội yêu cầu người nhận được kiến nghị trả lời tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; đối với Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì đề nghị Thủ tướng
Chính phủ xem xét.
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm
dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm,
khôi phục lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân bị vi phạm.

- Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị Ủy ban thường vụ
Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không


×