Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.84 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NHƯ QUỲNH

NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Tuyết

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo Trường Đại học Luật
Hà Nội, những người đã dạy dỗ, giúp đỡ em trong suốt những năm học tại
trường, đặc biệt là lời cám ơn trân trọng nhất tới thầy giáo, TS.Phạm Văn
Tuyết - Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã
nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành luận văn này.
Cám ơn sự ủng hộ, động viên của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình cùng
người thân đã tạo mọi điều kiện giúp em trong suốt quá trình công tác, học tập
cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.


Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2011
Học viên

Nguyễn Như Quỳnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLHS 1999

Bộ luật Hình sự năm 1999

LHNGĐ 2000

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Nghị quyết 02/HĐTP

Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp
lệnh thừa kế



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG
ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN ......................................................................... 5
1.1. Một số vấn đề chung về người thừa kế .......................................................... 5
1.1.1. Khái niệm người thừa kế......................................................................... 5
1.1.2. Điều kiện để trở thành người thừa kế ...................................................... 6
1.1.3. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế ................................................... 10
1.2. Những vấn đề chung về người không được quyền hưởng di sản .................. 14
1.2.1. Người bị truất quyền hưởng di sản ....................................................... 15
1.2.2. Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của BLDS 2005 . 16
1.3. Quy định về người không được quyền hưởng di sản theo pháp luật Việt Nam
trước đây............................................................................................................ 18
1.3.1. Pháp luật trước năm 1945 .................................................................... 18
1.3.2. Pháp luật từ năm 1945 đến trước khi BLDS 2005 có hiệu lực ............... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 22
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN
HƯỞNG DI SẢN .................................................................................................. 24
2.1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành
vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản ....................................................... 24
2.1.1. Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ người để lại di sản .......... 25
2.1.2. Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản:............. 29
2.1.3. Hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại
di sản ............................................................................................................. 31
2.2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản........ 32
2.2.1. Vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản ................................. 32

2.2.2. Thời hạn vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng................................................. 37
2.3. Hành vi cố ý giết người thừa kế khác nhằm mục đích chiếm đoạt một phần
hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng ...................... 39
2.3.1. Người thừa kế khác ............................................................................... 39
2.3.2. Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng với mục đích chiếm đoạt một phần
hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng .......................... 40
2.4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản ........................... 42
2.4.1. Hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người
để lại di sản .................................................................................................... 43
2.4.2. Hành vi giả mạo, sửa chữa di chúc, huỷ bỏ di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản ...................... 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 48
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC
QUYỀN HƯỞNG DI SẢNHƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ...................... 49
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế liên quan đến người không được
quyền hưởng di sản ............................................................................................ 49


3.2. Những khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế liên
quan đến việc xác định người không được quyền hưởng di sản .......................... 54
3.2.1. Việc chưa hiểu rõ quy định của pháp luật ............................................. 54
3.2.2. Đồng nhất giữa người bị truất quyền hưởng di sản và người không được
quyền hưởng di sản ........................................................................................ 55
3.2.3. Phạm vi những người không được quyền hưởng di sản ......................... 55
3.3. Hướng hoàn thiện pháp luật ........................................................................ 56
3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thừa kế liên quan ....................................... 56
3.3.2. Bổ sung phạm vi người không được quyền hưởng di sản ...................... 57

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 63
LỜI KẾT ............................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 66
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 69


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, các quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội theo đó cũng phát triển...
trong đó phải kể đến là sự mở rộng các quan hệ thừa kế, bởi lẽ trong bất
kỳ một xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng mang một tầm quan
trọng nhất định.
Pháp luật thừa kế ở nước ta đã được quy định ngay từ Bộ luật
Hồng Đức (năm 1483), Bộ Luật Gia Long (1815), đến thời kỳ Pháp
thuộc có Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật
1936, được mở rộng, phát triển và cụ thể hoá trong các bản Hiến pháp
1959 (Điều 19), Hiến pháp 1980 (Điều 27), đến Hiến pháp 1992 (Điều
58): "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công
dân"... Đặc biệt phải kể đến sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 và
2005 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa
kế. Từ năm 1945 đến nay, chế định thừa kế tuy đã được quy định khá
đầy đủ và ngày càng hoàn thiện hơn, nhưng do sự phát triển của xã hội
diễn ra hàng ngày nên vẫn chưa dự liệu hết được rất nhiều tình huống
phức tạp trên thực tiễn. Số vụ tranh chấp dân sự về thừa kế hàng năm, số
vụ án tồn đọng là rất lớn và ngày một gia tăng, nguyên nhân chủ yếu là
do pháp luật thừa kế nói chung và những quy định pháp luật khác liên
quan còn nhiều thiếu sót, chưa thật sự đồng bộ và thống nhất, dẫn đến

những sai sót của Toà án trong việc xác định người thừa kế theo di chúc,
người thừa kế theo pháp luật, người thừa kế thế vị, người không được
quyền hưởng di sản....
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc giải quyết các tranh chấp
về thừa kế trong mỗi vụ án dân sự chính là việc xác định ai là người có
quyền thừa kế di sản? ai không có quyền hưởng di sản?... Với tầm quan


2
trọng đó, sự cần thiết nghiên cứu chế định quyền thừa kế, cụ thể là chế
định: “Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp
luật Việt Nam” mang một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số công trình nghiên cứu về chế định quyền thừa kế từ trước
tới nay: Khoá luận tốt nghiệp, Luận văn cao học, Luận án tiến sỹ, một số
bài viết trên các Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và pháp luật... cũng
chủ yếu bàn về vấn đề thừa kế theo pháp luật nói chung trong đó có phân
tích một số quy định về người không được quyền hưởng di sản trong cổ
luật Việt Nam cũng như pháp luật hiện tại: TS.Nguyễn Ngọc Điện
(1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam,
Nxb.Trẻ; TS. Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng, Nxb.CTQG, Hà Nội; TS. Phùng Trung Tập (2008),
Pháp luật thừa kế Việt Nam, Nxb.Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn
(2009), Pháp luật thừa kế Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb.Lao động - xã hội, Hà Nội; TS.Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế
Việt Nam, Bản án và bình luận bản án, Nxb.CTQG... cùng nhiều đề tài
khoa học, bài viết khác nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
hình thức thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam, làm rõ các điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật về
diện và hàng thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam... Tuy nhiên, trong

các công trên, các tác giả nghiên cứu chung về thừa kế, vấn đề người
không được quyền hưởng di sản chỉ là một mục nhỏ trong một số công
trình kể trên. Từ trước đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học hay luận văn, luận án sau đại học nào về vấn đề "Người không được
quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật Việt Nam".
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam
từ trước đến nay về người không được quyền hưởng di sản, từ Quốc triều


3
hình luật thời Lê đến những chế định thừa kế trong BLDS 2005 nhưng
chủ yếu là đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về
người không được quyền hưởng di sản, phân tích thực tiễn áp dụng pháp
luật hiện hành trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế liên quan
tại Toà án, từ đó đưa ra những kết luận nhất định.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, tiếp cận đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và phép biện chứng lịch sử của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm, tư tưởng, đường lối
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành: phương pháp logic,
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
thống kê, so sánh... từ đó nhằm làm sáng tỏ và giải quyết các vấn đề.
5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài đi vào việc xây dựng và hoàn thiện khái niệm, phạm vi
người không được quyền hưởng di sản nhằm làm rõ phạm vi những
người không được quyền hưởng di sản, người thừa kế, người bị truất
quyền thừa kế, người không được chỉ định trong di chúc...; phân tích,
đánh giá để làm rõ quá trình phát triển những quy định của pháp luật về
người không được quyền hưởng di sản, chỉ ra những hạn chế trong

những quy định trên từ đó đưa ra những giải pháp, hướng giải quyết phù
hợp, góp phần hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế nói chung cũng như
quy định về người không được quyền hưởng di sản nói riêng.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Đề tài "Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam" bước đầu đưa ra quan điểm cá nhân về khái niệm
người không được quyền hưởng di sản, phân tích, làm sáng tỏ quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về người không được quyền hưởng di
sản, chỉ rõ hơn nữa những hạn chế tồn tại trong các quy định, đưa ra


4
những kiến nghị để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Điều 643 BLDS năm
2005 cho phù hợp với thực tiễn.
7. Kết cấu luận văn
Nội dung luận văn gồm 3 chương cơ bản:
Chương 1: Lý luận chung về người thừa kế và người không được quyền
hưởng di sản
Chương 2: Pháp luật hiện hành về người không được quyền hưởng di
sản
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về người không được quyền
hưởng di sản - Hướng hoàn thiện pháp luật


5
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ
NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

1.1. Một số vấn đề chung về người thừa kế

1.1.1. Khái niệm người thừa kế
Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao gồm tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản (cùng quyền sở
hữu tài sản) của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một
trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền, nghĩa vụ và
phương thức bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của người thừa kế.
Người thừa kế (theo tiếng Anh: heir, tiếng Pháp: héritier, tiếng
Nga: наследник), xuất phát từ danh từ Hán Việt 继承人/jìchéngrén/ đều
để chỉ người kế thừa, người kế tục, người thừa hưởng, người thừa tự... Ở
Việt Nam, BLDS 2005 chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về người thừa
kế, chỉ quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 631). Trên cơ sở đó, một số
tác giả đã đưa ra quan điểm: “Sau khi mở thừa kế, quyền và nghĩa vụ của
người để lại thừa kế sẽ được chuyển cho những người khác theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật. Người được hưởng các quyền phải
gánh chịu các nghĩa vụ đó gọi là người thừa kế” [29, tr.75], “người thừa
kế là người được nhận di sản thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc
hoặc vừa hưởng di sản theo di chúc, vừa được hưởng di sản theo pháp
luật” [23, tr.19]. Như vậy, có thể hiểu Người thừa kế là người được
hưởng các quyền và gánh chịu những nghĩa vụ về tài sản từ một người
đã chết theo ý chí mà người đó thể hiện trong di chúc hoặc theo quy định
của pháp luật.
Người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc


6
nên có thể là bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân, tổ chức nào và trong trường
hợp đặc biệt thì Nhà nước cũng có thể là người thừa kế nếu được người
có tài sản định đoạt trong di chúc. Còn người thừa kế theo pháp luật phải

là những người có một trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng với người để lại di sản, do vậy họ chỉ có thể là cá nhân.
Những người thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật được xác định
theo ba hàng thừa kế quy định tại Điều 676 BLDS 2005.
1.1.2. Điều kiện để trở thành người thừa kế
1.1.2.1. Đối với người thừa kế là cá nhân:
Điều 635 BLDS 2005 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải
là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di
sản chết”. Như vậy, pháp luật không quy định điều kiện về năng lực chủ
thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi) của người thừa kế. Theo đó,
một cá nhân chỉ được coi là người thừa kế khi cá nhân đó còn sống vào
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế, cho dù chỉ cần sống
trong một quãng thời gian ngắn sau khi người để lại di sản chết là đủ tư
cách thừa kế. Một người còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng đến
thời điểm phân chia di sản lại chết (hoặc đã bị tuyên bố chết) thì người
đó vẫn được hưởng di sản, phần di sản được hưởng đó được coi là di sản
và lại được chia cho những người thừa kế của họ. Bên cạnh đó, có
trường hợp người thừa kế không có mặt khi mở thừa kế (do mất tích, biệt
tích nhưng chưa bị tuyên bố chết thì vẫn được suy đoán là còn sống) nếu
họ trở về trước thời điểm di sản được phân chia thì cũng vẫn được coi là
còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thực tế, đối với trường hợp những người có quyền thừa kế di sản
của nhau chết trong cùng một thời điểm hay chết cách nhau một khoảng


7
thời gian rất ngắn (trong các vụ tai nạn máy bay, đắm thuyền, vụ nổ,

thiên tai, do thảm hoạ chiến tranh, do cùng nhau tự tử, cùng bị người
khác giết hại...), trên giấy chứng tử của họ lại không ghi cụ thể giờ, phút
chết, do vậy việc xác minh thời điểm chết của từng người rất khó khăn,
phức tạp. Điều 644 BLDS quy định: trong trường hợp những người có
quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc
được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được
người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di
sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng. Bộ luật dân sự
Pháp đã áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý: “Nếu những người đó đều
dưới 15 tuổi, người hơn tuổi được coi là chết sau, nếu họ đều trên 60
tuổi thì người ít tuổi hơn được coi là chết sau. Nếu những người đó có
người dưới 15 tuổi, có người trên 60 tuổi thì người ít tuổi hơn được coi
là chết sau. Nếu những người đó cùng tuổi hoặc hơn kém nhau không
quá một năm thì nam giới được coi là chết sau”, đây cũng là một nguyên
tắc cần xem xét và áp dụng trong BLDS Việt Nam để xác định quyền
thừa kế đối với những người này.
Nếu một người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế thì
phải thành thai trước khi người để lại di sản chết mới được quyền hưởng
di sản. Nhưng ranh giới để xác định việc còn sống hay đã chết đối với
một đứa trẻ được sinh ra rồi chết là một vấn đề phức tạp, điều này chưa
được ghi nhận rõ trong BLDS, liệu một đứa trẻ sau khi sinh ra sống được
năm phút, mười phút, một giờ, hai giờ hay một, hai ngày, một tháng, một
năm... mới được coi là sinh ra và còn sống, hiện tại, chúng ta chỉ có thể
áp dụng vấn đề này tại một số văn bản pháp quy. Theo quy định tại Điều
23 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về
đăng ký và quản lý hộ tịch thì: “Trẻ em sinh ra sống được từ 24 giờ trở
lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử. Nếu
cha, mẹ không đi khai sinh và khai tử, thì cán bộ tư pháp hộ tịch tự xác



8
định nội dung để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử.
Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử phải
ghi rõ “Trẻ chết sơ sinh””; như vậy có thể gián tiếp hiểu rằng một đứa
trẻ sinh ra sống được từ 24 giờ trở lên thì được coi là sinh ra và còn
sống, và nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế thì sẽ được
hưởng di sản. Còn việc cá nhân đó phải thành thai trước khi người để lại
di sản chết chủ yếu để xác định mối quan hệ huyết thống giữa người
thừa kế theo pháp luật với người để lại di sản, người sinh ra còn sống và
đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế mặc nhiên được coi là có quan
hệ huyết thống với người để lại di sản. Pháp luật Việt Nam trước đây đều
áp dụng sự phỏng đoán: trẻ em sinh ra trong thời hạn 300 ngày sau thời
điểm mở thừa kế thì được coi là thành thai và có thể hưởng di sản, quy
định tương tự ở Pháp là thời gian tối đa 300 ngày, ở Đức 302 ngày còn ở
Hà Lan là 306 ngày [12, tr.84-85] - thông thường nhiều hơn so với quan
niệm truyền thống “9 tháng 10 ngày”. Theo đó, Điều 63 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 quy định: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
hoặc con do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ
chồng...” và Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã
xác định theo phương pháp suy đoán một thai nhi tồn tại tối đa là 300
ngày kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu trong khoảng thời gian này, đứa trẻ
được sinh ra thì mặc nhiên sẽ được coi là thành thai trước thời điểm mở
thừa kế, là người thừa kế của người để lại di sản1. Trên thực tế, đứa trẻ
sinh ra sau thời hạn này, nếu có chứng cứ chứng minh là con đẻ của
người đã chết thì vẫn được quyền hưởng di sản (thông qua việc xét
nghiệm ADN để xác định quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ và con...).

1


Điều 21. Xác định con chung của vợ chồng

...2. Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết
định của Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai
người.


9
Cá nhân là người thừa kế theo di chúc nhưng chưa sinh ra vào thời
điểm người lập di chúc chết và cũng chưa sinh ra vào thời điểm vụ thừa
kế được giải quyết (tất nhiên là đã thành thai trước khi người để lại di
chúc chết) thì phần di sản của cá nhân đó được dành ra và giao cho một
người quản lý để khi người đó sinh ra nếu còn sống sẽ được hưởng. Nếu
cá nhân là người được chỉ định trong di chúc không còn vào thời điểm
mở thừa kế nhưng đã có con thì con của họ không được thừa kế thế vị
phần di sản mà nếu còn sống họ sẽ được hưởng theo di chúc nhưng sẽ
được thừa kế thế vị phần di sản mà nếu còn sống, họ sẽ được hưởng theo
pháp luật [30, tr.236-237].
1.1.2.2. Đối với người thừa kế là cơ quan, tổ chức:
Người thừa kế theo di chúc nếu là tổ chức (cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hợp tác xã... ) thì phải tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, nếu một tổ chức được chỉ định
trong di chúc còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nhưng không còn tồn
tại vào thời điểm phân chia di sản (do việc hợp nhất, sáp nhập, chia, tách,
giải thể pháp nhân hoặc do phá sản) thì di sản khi chia vẫn thuộc về cơ
quan, tổ chức đó hay thuộc về một cá nhân, tổ chức nào đó hay di sản sẽ
được coi là tài sản vô chủ và thuộc vể Nhà nước? Và trong trường hợp
pháp nhân đó bị giải thể, bị tuyên bố phá sản trước thời điểm mở thừa
kế, nhưng sau thời điểm mở thừa kế lại được thành lập lại theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì pháp nhân đó có được

quyền thừa kế di sản không?, về vấn đề này BLDS cũng không có quy
định rõ. Có thể thấy, đối với pháp nhân, tổ chức do hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách (thay đổi phương thức tồn tại) thì quyền và nghĩa vụ của pháp
nhân, tổ chức đó được chuyển giao cho pháp nhân mới (Điều 94, 95, 96.
97 BLDS 2005), do đó phần di sản mà pháp nhân, tổ chức này được
hưởng sẽ thuộc về pháp nhân mới. Nhưng đối với trường hợp pháp nhân,
tổ chức đã bị giải thể hoặc phá sản, năng lực chủ thể của pháp nhân, tổ


10
chức đó đã chấm dứt, các thành viên cũng không có tư cách chủ thể, di
sản sẽ được chia theo pháp luật (áp dụng tương tự đối với trường hợp di
chúc không có giá trị pháp luật).
1.1.3. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
1.1.3.1. Quyền nhận di sản thừa kế và thực hiện nghĩa vụ tài sản
tương ứng với phần di sản được nhận:
Người thừa kế dù là thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật thì
đều có quyền nhận di sản và phải thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng
với phần di sản được nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác: “Kể từ
thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại” (Điều 636 BLDS 2005); “Những người hưởng
thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản
do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” (Khoản 1 Điều
637 BLDS 2005). Nói chung, các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các quan
hệ nghĩa vụ, từ hành vi pháp lý của người để lại di sản sẽ được chuyển
cho người thừa kế; quyền nhận di sản thừa kế chính là việc pháp luật cho
phép người thừa kế bằng ý chí tự nguyện của mình, tự do lựa chọn việc
nhận hay không nhận di sản đó. Các quyền, nghĩa vụ này có trở thành
quyền, nghĩa vụ của người thừa kế hay không còn phụ thuộc vào hành vi
từ chối hay nhận di sản của người thừa kế. Nếu người thừa kế là người

chưa thành niên, người không có hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì
nghĩa vụ của họ do người đại diện thực hiện. Trường hợp Nhà nước, cơ
quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Đối với những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc (Điều 669 BLDS năm 2005), họ là người thừa kế theo pháp luật
nên cũng phải thực hiện một phần nghĩa vụ của người chết.
Người thừa kế đã nhận di sản thì phải thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại trong phạm vi di sản nói chung và trong phạm vi


11
phần di sản mà họ được nhận (Điều 637 BLDS 2005). Nếu người để lại
di sản có để lại nghĩa vụ tài sản nhưng trong di chúc không nói rõ ai phải
thực hiện nghĩa vụ đó thì mỗi người thừa kế phải thực hiện một phần
nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần di sản mà người đó được hưởng trên
toàn bộ khối di sản. Nếu người để lại di chúc đã xác định rõ tỷ lệ nghĩa
vụ tài sản mà từng người thừa kế phải thực hiện thì mỗi người thừa kế
phải thực hiện phần đó trong phạm vi di sản mà họ được nhận. Còn nếu
người chết có để lại nghĩa vụ tài sản mà di sản chưa được chia thì những
người thừa kế phải bằng di sản đó thực hiện các nghĩa vụ trước khi chia
di sản, phần di sản còn lại mới được đem chia. Trường hợp di sản đã
được chia theo pháp luật cho người thừa kế thì mỗi người thừa kế đã
nhận di sản phải thực hiện một phần nghĩa vụ tài sản bằng nhau nhưng
tổng giá trị nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế phải thực hiện không vượt
quá tổng giá trị di sản mà người chết để lại [30, tr.100].
1.1.3.2. Quyền từ chối nhận di sản:
Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản (Điều 642 BLDS
2005) trong thời hạn 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, trừ trường hợp
việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối

với người khác (viện cớ từ chối để tránh việc trả các khoản nợ khi đã đến
hạn, tiền công lao động, tiền bồi thường thiệt hại...). Thực tế, nhiều
trường hợp người có quyền nhận di sản tự biết mình đã là người có điều
kiện kinh tế hơn những người thừa kế theo pháp luật cùng hàng được
hưởng và sự từ chối này nhằm làm tăng kỷ phần di sản được hưởng của
những người thừa kế cùng hàng được hưởng khác [23, tr.20]. Về mặt
hình thức, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, phải báo
cho người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ
quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa
điểm mở thừa kế.
Việc từ chối nhận di sản đã được quy định ngay từ trong cổ luật,


12
được cụ thể hoá trong Điều 31 Pháp lệnh thừa kế năm 1990, mục 8 Nghị
quyết 02/HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày
19/10/1990 (Nghị quyết 02/HĐTP) qua việc “khước từ quyền hưởng di
sản”:
Khước từ quyền hưởng di sản là việc người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật hoàn toàn từ bỏ quyền hưởng di sản.
Việc người thừa kế nhường quyền hưởng di sản cho người
thừa kế theo di chúc hoặc cho người thừa kế theo pháp luật
cũng được coi là khước từ quyền hưởng di sản. Toà án không
chấp nhận việc người thừa kế khước từ quyền hưởng di sản,
nếu thấy việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ của bản thân về trả nợ, bồi thường thiệt hại, đóng góp
phí tổn nuôi con hoặc cấp dưỡng cho vợ, chồng sau khi ly
hôn...
Hành vi từ chối của người thừa kế thể hiện ý chí không nhận phần
di sản mình được hưởng mà không cần phải nêu rõ lý do. Nhưng chỉ

những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mới có quyền từ chối
nhận di sản; người đại diện cho người chưa thành niên, người mất, hạn
chế năng lực hành vi dân sự cũng không thể thay mặt người thừa kế từ
chối nhận di sản, bởi lẽ việc từ chối đó sẽ gây thiệt hại cho người được
đại diện. Từ chối nhận di sản là từ bỏ một hành vi dân sự (hành vi nhận
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật), từ chối nhận di sản cũng không
có nghĩa là họ từ bỏ quyền thừa kế. Đương nhiên, nếu người thừa kế bị
cưỡng ép, đe doạ hoặc bị lừa dối hay nhầm lẫn nên phải từ chối nhận di
sản thì việc từ chối đó cũng không có hiệu lực.
Từ chối nhận di sản khác với từ chối quyền thừa kế. Nếu người
thừa kế theo di chúc cũng đồng thời là người thừa kế theo pháp luật thì
họ có thể từ chối nhận di sản theo di chúc hoặc từ chối nhận di sản theo
pháp luật hoặc từ chối nhận di sản cả theo di chúc lẫn theo pháp luật (lúc


13
này họ đã từ chối toàn bộ quyền hưởng thừa kế). Khi người thừa kế từ
chối toàn bộ quyền hưởng thừa kế, phần di sản mà họ từ chối sẽ được
chia theo pháp luật.
Khi đã từ chối nhận di sản và việc từ chối đó có hiệu lực thì người
thừa kế cũng sẽ không được hưởng di sản và cũng không phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại; do đó, những người thừa kế của
người từ chối nhận di sản cũng không có quyền hay nghĩa vụ gì đối với
phần di sản bị từ chối này.
1.1.3.3. Quyền nhường quyền nhận di sản cho người khác:
Ngoài việc từ chối nhận di sản, người thừa kế còn có thể nhường
quyền nhận di sản của mình cho người khác. Việc nhường quyền không
phải là từ chối nhận di sản bởi lẽ người nhường quyền hưởng di sản thì
trước hết phải nhận phần di sản của mình rồi mới quyết định nhường kỷ
phần của mình cho người khác được; nhưng cũng không thể hiểu việc

nhường quyền là chuyển giao quyền yêu cầu. Có thể hiểu việc nhường
quyền nhận di sản là giữa những người thừa kế đã thực hiện một giao
dịch tặng, cho mà đối tượng là quyền tài sản [29, tr.79], việc nhường
quyền cũng không phải là chuyển giao quyền yêu cầu vì người có quyền
cũng không thể cho phép người thứ ba yêu cầu người có nghĩa vụ thực
hiện.
1.1.3.4. Xác định quyền sở hữu của người thừa kế đối với di sản
Thực tế, người thừa kế được coi là đã nhận di sản khi không từ
chối việc nhận di sản hoặc sau thời hạn sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế
mà họ không thực hiện việc từ chối nhận di sản thì cũng coi như là đồng
ý nhận di sản. Nhưng người thừa kế không đương nhiên là chủ sở hữu
đối với di sản thừa kế từ thời điểm mở thừa kế hay thời điểm phân chia
di sản. Điều 636 BLDS 2005 cũng chỉ xác định người thừa kế có các
quyền... kể từ thời điểm mở thừa kế mà không quy định di sản thuộc
quyền sở hữu của người thừa kế kể từ thời điểm mở thừa kế, hơn nữa


14
pháp luật hiện nay còn quy định việc người thừa kế khi hưởng di sản
phải làm thủ tục đăng ký, nộp thuế trước bạ, sang tên đối với tài sản là
bất động sản. Như vậy, người thừa kế chỉ được coi là chủ sở hữu hợp
pháp của di sản thừa kế từ thời điềm nhận di sản thừa kế đối với di sản
thừa kế là động sản mà pháp luật quy định không cần đăng ký; còn đối
với di sản là bất động sản hoặc những tài sản là động sản mà phải đăng
ký, sang tên thì quyền sở hữu của người thừa kế chỉ phát sinh từ thời
điểm họ đã hoàn thành thủ tục đăng ký, trước bạ, sang tên đối với tài sản
đó.
1.2. Những vấn đề chung về người không được quyền hưởng
di sản
Trong quan hệ thừa kế, những người thuộc diện và hàng thừa kế

của người chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc theo lẽ
thường sẽ là những người được hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, người
thừa kế muốn được hưởng di sản thì cần phải là người xứng đáng được
hưởng; nếu trên thực tế, do họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ, bổn
phận của mình, đã có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội,
xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm... của người để
lại di sản và những người khác (phạm vào những điều cấm của pháp
luật). Và vì vậy, những người thừa kế trong những tình trạng nói trên sẽ
bị tước quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, có thể
người thừa kế không vi phạm các quy định của pháp luật (không thuộc
các trường hợp trên) nhưng vẫn không được quyền hưởng di sản nếu họ
đã bị người để lại di sản truất quyền thừa kế. Trên thực tế, còn có trường
hợp một người không được người lập di chúc chỉ định cho hưởng một
phần di sản nào, tuy nhiên, người không được chỉ định hưởng di sản
trong di chúc vẫn có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật, không bị mất
tư cách người thừa kế nên phạm vi người không được quyền hưởng di
sản chỉ bao gồm: người đã bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản


15
(theo Khoản 1 Điều 648 BLDS 2005) và người bị tước quyền thừa kế
(người không được quyền hưởng di sản theo Khoản 1 Điều 643 BLDS
2005). Người đã bị người lập di chúc truất quyền thừa kế hay bị pháp
luật tước quyền thừa kế thì sẽ không được quyền hưởng di sản cả theo di
chúc lẫn theo pháp luật của người đó.
1.2.1. Người bị truất quyền hưởng di sản
Truất quyền thừa kế là một “sự trừng phạt” của người để lại thừa
kế đối với người thừa kế, không cho họ hưởng di sản của mình, thông
thường là giữa người thừa kế và người để lại di sản tồn tại một mâu
thuẫn nào đó nên khi lập di chúc, người để lại di sản đã truất quyền thừa

kế của một hoặc những người này. Khi bị truất quyền thừa kế thì người
đó sẽ không còn quyền hưởng di sản cả theo di chúc lẫn theo pháp luật,
nghĩa là không được hưởng di sản của người để lại thừa kế. Nhưng, nếu
một người không được chỉ định trong di chúc thì vẫn có quyền hưởng
thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật nếu họ thuộc diện và hàng
thừa kế; nếu di chúc không có hiệu lực hay vô hiệu một phần, khi người
thừa kế trong di chúc từ chối hưởng di sản hoặc đã chia tài sản theo di
chúc mà vẫn còn thì di sản còn lại đó được chia theo pháp luật, họ vẫn có
thể được hưởng di sản theo pháp luật.
Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được chỉ
định trong di chúc tuy cả hai trường hợp trên đều là người không được
người để lại di chúc cho hưởng di sản. Người không được người để lại di
chúc cho hưởng di sản có thể không phải là người bị truất quyền, mặt
khác, người bị truất quyền là người không được người để lại di chúc cho
hưởng di sản. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất
quyền hưởng di sản của người thừa kế. Thông thường thì người lập di
chúc sẽ chỉ định cho cá nhân (những người thân thích hoặc kể cả những
người khác không có mối quan hệ nào với mình), tổ chức hay Nhà nước
là người hưởng di sản và cũng có quyền truất quyền hưởng di sản cùa


16
người thừa kế theo pháp luật (những người thuộc diện và hàng thừa kế
của mình như cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột...) mà không bắt
buộc phải nêu lý do, từ đó chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo
luật không được hưởng di sản; tuy nhiên việc truất quyền thừa kế này
vẫn phải được ghi rõ trong di chúc là truất quyền thừa kế của ai hoặc
không cho ai hưởng di sản. Còn nếu một cá nhân không được nhắc đến
trong di chúc thì cũng không có nghĩa là họ bị truất quyền hưởng thừa
kế.

Đối với những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc (quy định tại Điều 669 BLDS 2005) vẫn được quyền hưởng di sản
thừa kế (bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo luật) cho dù đã bị
người lập di chúc truất quyền hưởng di sản, họ chỉ không được quyền
hưởng di sản nếu từ chối nhận di sản hoặc rơi vào một trong các trường
hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLHS 2005 (bị pháp luật tước
quyền thừa kế).
1.2.2. Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của
BLDS 2005
Theo Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì phạm vi người không
được quyền hưởng di sản chỉ là những người bị pháp luật tước quyền
thừa kế do đã có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến sức khoẻ, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm... của người để lại di sản và những người
thừa kế khác, có những hành vi không xứng đáng với bổn phận của
mình, người có hành vi như vậy không xứng đáng được hưởng di sản
của người để lại thừa kế, cũng có thể gọi đây là những người bất xứng,
người không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật. Đây là những
người đã bị kết án về một trong các hành vi quy định tại điểm a, c Khoản
1 Điều 643 (hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ người để
lại di sản; hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; hành vi cố ý


17
xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng), hoặc đã
thực hiện một trong các hành vi quy định tại điểm b, d Khoản 1 Điều 643
BLDS 2005, cho dù không bị kết án về những hành vi này (hành vi vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; hành vi lừa
dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc,

giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản). Theo quy định
của pháp luật thì những ngừoi này sẽ không được quyền hưởng di sản.
Những người này đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định họ là
người thừa kế của người để lại di sản (vì họ thuộc diện và hàng thừa kế
theo pháp luật của người để lại di sản hoặc đã được người để lại di sản
lập di chúc cho họ hưởng thừa kế). Tuy nhiên, nhằm tôn trọng ý chí của
người để lại di sản nên những người nói trên vẫn được hưởng di sản “...
nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn
cho họ hưởng di sản theo di chúc” (Khoản 2 Điều 643 BLDS 2005). Đối
với những người không được quyền hưởng di sản theo quy định của
BLDS 2005 họ chỉ đương nhiên không được quyền hưởng di sản khi di
sản được chia theo pháp luật (về nguyên tắc, việc tước quyền hưởng di
sản thừa kế của những người nói trên vẫn thực hiện trong trường hợp
thừa kế theo di chúc lẫn theo pháp luật). Khi xác định suất thừa kế theo
pháp luật để tính kỷ phần cho những người được thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005,
họ không là tham số trong số chia để tính nhân suất.
Như vậy, những người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa
rộng bao gồm cả người bị truất quyền hưởng di sản và người bị tước
quyền hưởng thừa kế (tất nhiên loại trừ những người được hưởng thừa
kế theo Điều 669 BLDS 2005). Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu, phân tích phạm vi những người bị tước quyền thừa kế (người không


18
được quyền hưởng di sản theo Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005).
1.3. Quy định về người không được quyền hưởng di sản theo
pháp luật Việt Nam trước đây
1.3.1. Pháp luật trước năm 1945

Pháp luật của chế độ thực dân phong kiến từ trước năm 1945 đã có
những quy định về người không được quyền hưởng di sản và gọi đó là
những người bất xứng hưởng di sản. Chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông năm
Quang Thuận thứ năm (1464) có quy định: “Con cháu mà làm trái luật
pháp, ham mê rượu chè, trai gái, cờ bạc, chọi gà, săn bắn hay đánh cờ,
ra ngoài phóng đãng, về nhà chửi bố mẹ, ông bà, họ hàng, thì thuộc loại
phá gia chi tử, bố mẹ phải dạy bảo nếu không thì có thể làm giấy từ coi
như người ngoài, khi cha mẹ về già có chia của cho con thì con bị mất
phần hưởng” [12, tr.118-119]. Trong các BLDS thời Pháp thuộc đều quy
định rõ những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật có hành vi
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của người để lại di sản hoặc ông bà,
cha mẹ của người đó, người thừa kế không tố giác tội xâm phạm đến tính
mạng của người để lại di sản thừa kế, những người có hành vi trên được
coi là bất xứng hưởng di sản. Điều 313 BLDS Bắc Kỳ năm 1931 và Điều
306 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật năm 1936 đều dự liệu những trường
hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản, trong đó thì phạm vi
những người không được quyền hưởng di sản được hiểu theo nghĩa rộng
(bao gồm người bị truất quyền thừa kế và người bị tước quyền thừa kế):
- Người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được
hưởng di sản của người lập di chúc;
- Người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản
hoặc với danh nghĩa chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm;
- Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà
không tố giác với Toà án nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ,
chồng hoặc thân thuộc gần với người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì


19
đã không tố giác;
- Người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu khống

ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng
tội hay thường tội....
Theo đó, án lệ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1945 cũng quy
định những trường hợp người vợ goá bị coi là bất xứng, không được
quyền hưởng di sản khi không để tang chồng; sống thiếu đạo đức và đã
công khai gây tai tiếng cho gia đình nhà chồng; đã có tình nhân hoặc đã
lạm dụng quyền hưởng di sản mà không có biên bản kê khai [24, tr.189].
1.3.2. Pháp luật từ năm 1945 đến trước khi BLDS năm 2005 có
hiệu lực
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, theo Sắc
lệnh ngày 10/10/1945, nhà nước vẫn áp dụng những chế định thừa kế
của pháp luật thời thực dân, phong kiến (chỉ áp dụng những quy định
phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, pháp luật). Hiến pháp
1959 ra đời ghi nhận nguyên tắc thừa kế: “Nhà nước chiểu theo pháp
luật để bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân” (Điều 19), nguyên
tắc này đã khởi đầu cho sự ra đời các văn bản pháp luật cụ thể hoá việc
giải quyết các tranh chấp về thừa kế, Từ năm 1959, tuy đã có một số
Thông tư của Toà án hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về quyền thừa
kế (Thông tư 594/NCPL ngày 27/08/1968 hướng dẫn đường lối xét xử
các tranh chấp về thừa kế; Thông tư 02/TATC ngày 02/08/1973 hướng
dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản liệt sỹ; Thông tư số
01/NV ngày 05/01/1974 của Bộ Nội vụ quy định việc tổ chức chôn cất,
quản lý hồ sơ, di sản và mồ mả của cán bộ, đồng bào miền Nam chết ở
miền Bắc do những người thừa kế gần nhất của người chết là vợ, chồng,
con đẻ, bố mẹ đẻ thực hiện...) nhưng đến trước năm 1981, tại miền Bắc
vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào chính thức quy định về những
người không có quyền hưởng di sản.


20

Ở Miền Nam Việt Nam, dưới chế độ Việt Nam cộng hoà chủ yếu
áp dụng quy định về thừa kế theo Dân luật Cộng hoà dưới chế độ
Nguyễn Văn Thiệu. Điều 502 (Thiên thứ nhất, Quyển III) Bộ luật dân sự
và thương sự tố tụng Việt Nam cộng hoà năm 1972 quy định:
“Bị coi là bất xứng thừa hưởng di sản:
1, Người nào bị kết án vì đã cố sát hay thanh toán người để lại di
sản hay ông bà cha mẹ của người này;
2, Người nào bị kết án vì đã vu cáo người mệnh một hay ông bà
cha mẹ của người này về một trọng tội;
3, Người thừa kế trưởng thành biết sự cố sát người mệnh một mà
không tố giác;
Nhưng sự tố giác đó không thể viện ra nếu kẻ sát nhân là tôn ti
thuộc thuộc trực hệ của người thừa kế, hay tôn thuộc của hàng tôn ti đó,
hay người phối ngẫu, anh chị em ruột, cô chú bác cậu dì, cháu trai cháu
gái ruột của người thừa kế”.
Cơ sở pháp lý để tước quyền thừa kế của một người chỉ thực sự
bắt đầu quy định tại Thông tư 81-TATC ngày 24/7/1981 của Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Khoản
4 Mục A Phần III Thông tư 81 nêu:
“...4, Người không được thừa kế
Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với
người đó thì không được thừa kế di sản của người đó.
Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm toàn bộ
di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì không được thừa kế
di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và người bị giết)”.
Nhưng những hướng dẫn trên vẫn chưa dự liệu hết được nhiều
trường hợp, tình huống phát sinh trong xã hội như: người thừa kế vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, hành hạ, ngược đãi người để lại di sản, huỷ
di chúc, việc giết người thừa kế khác hàng với mình.... Đến Pháp lệnh



×