Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 214 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

Bộ tư pháp

Trường đại học luật Hà Nội

Nguyễn minh hằng

Pháp luật về chào bán cổ phần
của công ty cổ phần ở việt nam
Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Chuyên ngành:

Luật Kinh tế

Mã số:

62.38.50.01

Luận án tiến sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. PHạM THị GIANG THU
2. Ts. NGUYễN AM HIểU

Hà nội - 2010


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi.


Các số liệu nêu trong luận án là
trung thực. Những kết luận khoa
học của luận án chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án

Nguyn Minh Hng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AIM: Thị trường đầu tư thay thế của Anh
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM: Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về hợp tác Á - Âu;
EC: Uỷ ban Châu Âu
EU: Cộng đồng châu Âu
FSA: Cơ quan dịch vụ tài chính của Anh
FSMA: đạo luật Dịch vụ và thị trường tài chính năm 2000 của Anh
IFRS: Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế
RGAMF: Cơ quan quản lý thị trường tài chính Pháp
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước
UKLA: Cơ quan cấp phép niêm yết Vương quốc Anh
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


Môc lôc
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG


1
11

CHÀO BÁN CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN
1.1

Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chào bán cổ phần
của công ti cổ phần

11

1.2

Những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về hoạt động
chào bán cổ phần của công ti cổ phần

36

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ
PHẦN CỦA CÔNG TI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

70

2.1

70

Quy định về chủ thể tham gia quan hệ chào bán cổ phần của
công ti cổ phần


2.2. Qui định pháp luật về các phương thức chào bán cổ phần của
công ti cổ phần
2.3

Quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán cổ
phần của công ti cổ phần

91

138

CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN CỦA CÔNG TI
CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
3.1 Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về chào bán cổ phần của công ti cổ phần ở Việt Nam.

155

3.2

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ
phần của công ti cổ phần ở Việt Nam hiện nay

166

3.3

Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả pháp luật về

chào bán cổ phần của các doanh nghiệp ở Việt Nam

183

PHẦN KẾT LUẬN

198

DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO

201

155


1
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2000 là thời điểm đánh dấu bước đi đầu tiên của thị trường chứng
khoán Việt Nam.Trải qua chặng đường 10 năm, nhu cầu được điều chỉnh
bằng một hệ thống pháp luật minh bạch, đầy đủ đối với hoạt động chào bán
chứng khoán nói chung và hoạt động chào bán cổ phần nói riêng của công ty
cổ phần càng chứng tỏ một cách rõ ràng.Thị trường chứng khoán là một thị
trường tiềm ẩn nhiều rủi ro, tuy nhiên, sức hấp dẫn của thị trường này khiến
cho các nhà đầu tư luôn có nhu cầu tham dự, thậm chí chấp nhận rủi ro. Đứng
ở góc độ bình ổn xã hội và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong
kinh doanh, pháp luật luôn can thiệp để giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro,
từ đó làm cho nền kinh tế ít bị ảnh hưởng bởi những biến động tiêu cực của
một thị trường đặc biệt như thị trường chứng khoán. Pháp luật chủ yếu can

thiệp để điều chỉnh các điều kiện tham gia thị trường chào bán cổ phần (bao
gồm có chào bán cổ phần riêng lẻ và chào bán cổ phần ra công chúng), trong
đó chú trọng tới việc công khai thông tin của chủ thể phát hành, một trong
những mấu chốt ảnh hưởng tới độ rủi ro của việc đầu tư vào thị trường vốn.
Bước phát triển của pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công
ty cổ phần được thể hiện rõ từ khi Chính phủ ban hành Nghị định
48/1998/NĐ-CP ngày 11/ 7/ 1998; Quyết định 127/1998/QĐ-TTg về việc
thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh; Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán cho đến Luật Doanh nghiệp 2005,
Luật Chứng khoán 2006, Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày
19/01/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Chứng khoán 2006, Nghị định số
01/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/01/2010 về chào báo cổ phần riêng
lẻ, Nghị định số 84/NĐ-CP ngày 20/09/2010 sửa đổi, bổ sung Nghị định số
14/2007/NĐ-CP, Nghị định số 85/NĐ-CP ngày 02/08/2010 về xử lý vi phạm


2
trong lĩnh vực chứng khoán và các Thông tư hướng dẫn như Thông tư số
17/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn hồ sơ đăng kí
chào bán chứng khoán ra công chứng; Thông tư số 38/2007/TT-BTC của Bộ
Tài Chính ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán.
Bên cạnh việc khẳng định nhu cầu tất yếu phải được điều chỉnh bằng
pháp luật đối với hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ và chào bán cổ phần ra
công chúng của công ty cổ phần, có thể nói, việc nghiên cứu thực trạng pháp
luật về vấn đề này là một trong những yêu cầu cấp thiết trong việc đánh giá và
đề ra phương hướng hoàn thiện chế định pháp luật này.
Pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam là một
chế định pháp luật được tạo thành bởi nhiều quy định pháp luật nằm rải rác ở

các văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh các vấn đề cụ thể phát sinh trong
quá trình công ty cổ phần thực hiện việc chào bán cổ phần riêng lẻ và chào
bán cổ phần ra công chúng. Hơn nữa, thực trạng pháp luật về chào bán cổ
phần của công ty cổ phần còn nhiều điểm bất cập, hiệu quả áp dụng trên thực
tế chưa cao. Vì vậy,việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực trạng
pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam có
thể được thực hiện dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, và ở cách tiếp cận nào
cũng tìm thấy những giá trị cơ bản, đóng góp cho việc hoàn thiện pháp luật về
chào bán cổ phần của công ty cổ phần cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định pháp luật này trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần bao gồm pháp luật
điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ và pháp luật điều chỉnh hoạt
động chào bán cổ phần ra công chúng là một trong những nội dung quan
trọng của pháp luật tài chính, thương mại trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, đang được nhiều nhà khoa học ở nhiều quốc gia, thuộc các lĩnh vực
khác nhau quan tâm nghiên cứu. Ở các phạm vi và mức độ khác nhau, có một


3
số công trình đã được công bố, đề cập đến một vài khía cạnh kinh tế và pháp
lý của hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần.
Xét trên phạm vi khu vực và toàn thế giới, các công trình nghiên cứu về
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần chủ yếu tập trung vào: (i)
giới thiệu các đặc điểm và cách thức tiến hành hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần, đặc biệt là hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
của một số quốc gia trên thế giới (Mark Greene, Securities Finance, Law
Bussines Reseach ltd, 2007); (ii) đánh giá những tác động của hoạt động chào
bán cổ phần của công ty cổ phần tới nền kinh tế (Eilis Ferran, Principles of
Corporate Finance Law, Oxford University Press, 2008; Mathew Harrison,

Asia-Pacific Security Markets, Sweet & Maxwell Asia, 2003, ISBN 962661
2061, tr. 77-78.); (iii) nghiên cứu hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ
phần dưới góc độ pháp luật (Catherine Shephard, Public Companies and
Equity Finance, College of Law Publishing, 2006). Những công trình nghiên
cứu trên đã bước đầu tạo ra những cơ sở lý luận làm nền tảng trong quá trình
nghiên cứu luận án này; đồng thời cũng cho thấy quan điểm của các nhà khoa
học và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về lĩnh vực pháp luật điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần.
Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu đề cập đến một số khái niệm liên
quan đến hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần trong tương quan so
sánh với pháp luật của một quốc gia cụ thể như bài viết của tác giả Phạm Thị
Thành Dương, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh với tên gọi: Nghiên cứu so
sánh pháp luật về phát hành chứng khoán Nhật; từ một số khía cạnh pháp lý có
liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần như bài viết của
tác giả Phạm Thị Giang Thu, Về cơ sở pháp lý cho chủ thể phát hành chứng
khoán, Tạp chí Luật học số 4, trường đại học Luật Hà Nội, 1997; Bàn về bảo
lãnh phát hành trên thị trường chứng khoán, Tạp chí Luật học số 1, trường

Đại học Luật Hà Nội, 2000.
Bên cạnh đó, một số công trình tiếp cận nghiên cứu một số nội dung cụ thể
của pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, như:


4
luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Minh Hằng (2002), với đề tài
Pháp luật phát hành chứng khoán doanh nghiệp Việt nam – thực trạng và
phương hướng hoàn thiện, Trường Đại học Luật Hà nội, 2002. Công trình này
nghiên cứu pháp luật chào bán chứng khoán doanh nghiệp trong những năm
2001-2003 (trước khi ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán
và thị trường chứng khoán và Luật chứng khoán 2006) trên cơ sở tiếp cận các

loại chủ thể là các doanh nghiệp được quyền chào bán chứng khoán ở Việt
Nam bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn và các loại chứng khoán khác nhau được chào bán trong các doanh
nghiệp đó như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư…
Tuy nhiên, những công trình kể trên mới dừng lại ở việc nghiên cứu
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần dưới góc độ kinh tế và
những ảnh hưởng của hoạt động này tới đời sống xã hội hoặc nghiên cứu từng
khía cạnh nhỏ của hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần dưới góc
độ pháp lý, ví dụ như vấn đề chủ thể chào bán cổ phần hoặc phương thức chào
bán cổ phần ra công chúng của công ty cổ phần.
Từ việc đánh giá tình hình hình nghiên cứu pháp luật về hoạt động chào
bán cổ phần ở Việt Nam, cho thấy đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần dựa trên cơ sở hệ thống
các quy định hiện hành; điều kiện kinh tế xã hội là thời kỳ của Việt Nam giai
đoạn những năm 2005-2010 và quan trọng hơn, chưa có công trình khoa học
pháp lý nào ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học chỉ nghiên cứu pháp luật về chào
bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam cho đến thời điểm luận án này
được công bố, trên cơ sở đó chỉ ra cơ sở khoa học của việc hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ
phần ở Việt Nam hiện nay. Có thể khẳng định đây là công trình đầu tiên
nghiên cứu về vấn đề này ở nước ta, với cấp độ luận án tiến sỹ Luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của
pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, trên cơ


5
sở đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động chào
bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam trên những điều kiện kinh tế, xã
hội cụ thể.

Để thực hiện mục đích trên, Luận án đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

+ Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động chào bán cổ
phần của công ty cổ phần và pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần;
+ Phân tích nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần; đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt
Nam hiện hành điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần;

+ Xây dựng quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: các quan điểm, tư tưởng luật học
về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần và pháp luật điều chỉnh
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần; các văn bản pháp luật thực
định của Việt Nam điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ
phần; pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế liên quan đến hoạt động chào
bán cổ phần của công ty cổ phần; thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam.Vấn đề
chào bán cổ phần của các công ty cổ phần là một hiện tượng kinh tế xã hội
phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Do
vậy, pháp luật ở một số nước trên thế giới về lĩnh vực này có thể nói là đã
tương đối hoàn thiện vì hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ
phần đã được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị
trường như hệ thống pháp luật Anh Mỹ, hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
Tuy nhiên, ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt Nam, thị
trường giao dịch chứng khoán nói chung và thị trường chào bán cổ phần nói
riêng còn khá non trẻ và đang từng bước đi vào hoạt động theo những quy



6
luật và các nguyên tắc chung để hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các nhà đầu tư và đảm bảo cho hoạt động của thị trường phát
hành minh bạch, an toàn, hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu để xây dựng và
hoàn thiện bộ phận pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần là một
yêu cầu tất yếu và có tính chất bắt buộc.
Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công
ty cổ phần là vấn đề pháp luật còn tương đối mới ở Việt Nam và có nội dung
khá phức tạp. Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong
pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, nhất là
những nội dung có nhiều điểm bất cập, đang gây cản trở, làm giảm hiệu quả
của hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
được tạo thành bởi nhiều quy định pháp luật nằm rải rác ở các văn bản pháp
luật khác nhau, điều chỉnh các vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình công ty
cổ phần thực hiện hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần. Vì vậy,
việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty
cổ phần được thực hiện dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Luận án lựa chọn
cách tiếp cận để nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần dựa trên các nội dung cơ bản, bao gồm:
(i) Cơ sở lý luận và những điều kiện kinh tế, xã hội để ban hành và thực
thi có hiệu quả pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty
cổ phần ở Việt Nam.
(ii) Các quy định về chủ thể liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần (bao gồm: chủ thể chào bán, chủ thể hỗ trợ chào bán, nhà
đầu tư). Luận án đã lý giải để xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài bao
gồm cả việc trình bày về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
chuyển đổi từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty cổ phần
chuyển đổi từ doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước.



7
(iii) Các quy định về phương thức chào bán cổ phần của công ty cổ
phần (bao gồm: phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ và phương thức chào
bán cổ phần ra công chúng);
(iv) Các quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán cổ
phần của công ty cổ phần.
Như vậy, với phạm vi nghiên cứu đã được chỉ rõ, từ chương 1 đến
chương 3, luận án tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra quan
điểm cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán
cổ phần của công ty cổ phần dựa trên cơ sở ba vấn đề nêu trên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, Luận án sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn... Các phương pháp nghiên cứu trong Luận án
được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận duy vật lịch sử, duy vật
biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Những kết quả nghiên cứu và những điểm mới của luận án
Luận án đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, xây dựng quan điểm pháp lý tiến bộ, khoa học về chức năng,
vai trò và đặc điểm của pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần; xác định rõ mối quan hệ giữa pháp luật điều chỉnh hoạt động
chào bán cổ phần của công ty cổ phấn với các chế định pháp luật khác có liên
quan, nhất là với pháp luật doanh nghiệp và pháp luật đầu tư. Từ đó đánh giá
sự cần thiết phải có những quy định phù hợp, bổ trợ giữa các chế định pháp
luật kể trên với pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty
cổ phần nhằm tạo ra chế định pháp luật minh bạch và đầy đủ để điều chỉnh
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam.

Thứ hai, xác định được rõ kết cấu pháp luật chào bán cổ phần của công
ty cổ phần bao gồm: pháp luật về chủ thể chào bán cổ phần, pháp luật về


8
phương thức chào bán cổ phần và pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần.
Thứ ba, chỉ rõ những bất cập và nguyên nhân dẫn đến bất cập của pháp luật
hiện hành điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, đang ảnh
hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực hiện hoạt động này trên thực tế, đồng thời ảnh
hưởng đến quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh của các công ty cổ phần cũng
như các nhà đầu tư trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam. Những bất cập
của pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt
Nam được luận án chỉ ra gồm: sự thiếu hụt một khái niệm và phân chia ranh giới cụ
thể giữa chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng; điều kiện về chào bán cổ
phần ra công chúng và chào bán riêng lẻ còn thể hiện sự hạn chế quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể; quy định về nhà đầu tư còn chưa thống nhất; quy định về
cách thức quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
còn thể hiện sự chưa phù hợp và hiệu quả. Trong số những bất cập chủ yếu được chỉ
ra này, luận án xác định rằng bất cập về cách thức quản lý nhà nước đối với hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần là bất cập quan trọng nhất cần được giải
quyết bởi lẽ khi giải quyết được bất cập này, các bất cập khác sẽ được giải quyết
như là hệ quả của việc hiệu quả hóa quản lý nhà nước trong chào bán cổ phần của
công ty cổ phần ở Việt Nam. Những nội dung khác liên quan đến pháp luật về chào
bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam chưa được đề cập trong luận án này sẽ
là những ý tưởng gợi mở để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu trong những công
trình khoa học khác.

Thứ tư, đề xuất quan điểm và xác định luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần,

đảm bảo cho các công ty cổ phần tiến hành hoạt động chào bán cổ phần hiệu
quả, tự do và bình đẳng ; đảm bảo giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư khi
tham gia vào mối quan hệ với các công ty cổ phần thông qua việc mua cổ
phần phát hành của các công ty cổ phần này ;
Thứ năm, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định điều chỉnh hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp (2005),


9
Luật Chứng khoán (2006) và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể là: (i)
kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo lãnh phát hành đối với hoạt động chào
bán cổ phần ra công chúng của công ty cổ phần, đặc biệt là hoàn thiện quy
định về chủ thể bảo lãnh phát hành; (ii) kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về các phương thức chào bán cổ phần tạo điều kiện cho công ty cổ phần
thực hiện hiệu quả hoạt động thương mại này, trong đó đặc biệt là kiến nghị
sửa đổi các quy định về điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ và chào bán cổ
phần ra công chúng của công ty cổ phần; (iii) kiến nghị hoàn thiện quy định
điều chỉnh về Bản Cáo bạch; (iv) đề xuất giải pháp tăng hiệu quả áp dụng của
các quy định pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần,
trong đó nhấn mạnh đến việc kiện toàn hệ thống kiểm toán độc lập cũng như
hoàn thiện các chế định về xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm liên
quan đến hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần.
Những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần được đề xuất trong luận án có khả
năng ứng dụng ngay để thiết lập sự thống nhất, nâng cao hiệu quả áp dụng của
pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần với
pháp luật tài chính, thương mại nói chung và các chế định pháp luật có liên
quan trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Về những điểm mới của luận án.
Luận án có những điểm mới đóng góp cho sự phát triển của khoa học

pháp lý chuyên ngành, bao gồm:
+ Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu các học thuyết, quan niệm về hoạt động
chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở những nước phát triển cũng như thực
tiễn pháp lý Việt Nam, luận án đã xây dựng được hệ thống lý luận khoa học pháp
luật vê hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam;

+ Thứ hai, luận án đã chỉ rõ pháp luật về chào bán cổ phần của công ty
cổ phần ở Việt Nam chưa đạt được sự tương thích cần thiết trong tương quan
với pháp luật doanh nghiệp, pháp luật đầu tư. Có thể nói, sự thiếu tương thích
giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty


10
cổ phần này là vấn đề rất quan trọng, quyết định tới hiệu quả của hoạt động
chào bán cổ phần của công ty cổ phần;
+ Thứ ba, luận án là công trình khoa học đầu tiên phân tích, đánh giá
một cách có hệ thống những bất cập trong từng quy định cụ thể của pháp luật
điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam, cụ
thể là chỉ ra những hạn chế trong các nội dung pháp luật gồm: pháp luật về
chủ thể chào bán cổ phần; pháp luật về phương thức chào bán cổ phần và
pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán cổ phần của công
ty cổ phần;
+ Thứ tư, luận án đã xây dựng hệ quan điểm khoa học cũng như đưa ra
những giải pháp tiến bộ, hiện đại cho việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam phù hợp với
pháp luật và tập quán thương mại quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
6. Kết cấu luận án
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, luận án được cơ cấu thành 03 chương
với các nội dung cụ thể như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động chào bán cổ phần của công ty
cổ phần và pháp luật về chào bán cổ phần của công ty cổ phần
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần của công ty
cổ phần ở Việt Nam
Chương 3. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chào bán
cổ phần của công ty cổ phần ở Việt Nam


11
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CỔ PHẦN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần
1.1.1. Quan niệm chung về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần

1.1.1.1. Quan niệm về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
dưới góc độ kinh tế
Chào bán cổ phần của công ty cổ phần là một trong những hoạt động
huy động vốn cơ bản nhất của công ty cổ phần. Dưới góc độ kinh tế, hoạt
động chào bán cổ phần tạo ra loại hàng hóa đặc biệt cho thị trường chứng
khoán, đó là cổ phần (thường được thể hiện bằng hình thức cổ phiếu). Dùng
cổ phần để huy động vốn, với cách huy động vốn này, công ty cổ phần đồng
thời huy động vốn điều lệ, mặt khác có thể thu về một khoản vốn thặng dư từ
việc bán cổ phiếu, khoản thu này sẽ làm gia tăng thêm vốn và tài sản của công
ty. Các nhà đầu tư tìm đến cổ phần như tìm đến một phương thức đầu tư hiệu
quả, thông qua đó, với tư cách cổ đông công ty cổ phần, các nhà đầu tư có thể
thực hiện quyền quản lý, tham gia vào quá trình điều hành kinh doanh của
công ty cổ phần hoặc chỉ đơn giản là đầu tư mua cổ phần để bán lại trên thị

trường giao dịch chứng khoán để tìm kiếm thu nhập và lợi nhuận. Với những
lợi ích mà cổ phần mang lại cho công ty cổ phần và cho các nhà đầu tư, nền
kinh tế xã hội cũng vì thế mà phát triển, dựa vào sự tăng trưởng vốn kinh
doanh và sự luân chuyển linh hoạt của dòng vốn này.
Ở Việt Nam, giá trị biểu thị một phần vốn đầu tư này được định danh
bằng hai thuật ngữ là “cổ phần” và “cổ phiếu”, người nắm giữ các “cổ phần”,
“cổ phiếu” này gọi là “cổ đông” (Điều 77, Luật Doanh nghiệp 2005). Các
giao dịch thương mại được thiết lập với đối tượng là các cổ phần, cổ phiếu do
công ty cổ phần chào bán đã tạo nên sự linh hoạt trong vấn đề luân chuyển
vốn và tăng trưởng vốn của các chủ đầu tư nói riêng và của cả nền kinh tế - xã


12
hội nói chung. Dưới khía cạnh kinh tế, hoạt động chào bán cổ phần của công
ty cổ phần đã thiết lập nên những mối quan hệ giữa chủ thể chào bán cổ phần
và nhà đầu tư, nhằm mục đích huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của
công ty cổ phần và tạo cơ hội đầu tư hưởng lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Có thể khẳng định, hoạt động chào bán cổ phần là tiền đề để các chủ
thể có thể thực hiện các giao dịch tài chính, thương mại liên quan đến cổ
phần. Nói cách khác, không có hoạt động chào bán cổ phần sẽ không có
những hoạt động như kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán hay lưu
ký chứng khoán [123, tr15]. Như vậy, dưới góc độ kinh tế, hoạt động chào
bán cổ phần là nền tảng, cơ sở để thiết lập nên các hoạt động khác liên quan
đến chứng khoán. Hoạt động này được hiểu là việc tổ chức chào bán có đủ
điều kiện đưa cổ phần vào thị trường theo trình tự thủ tục xác định, với ý
nghĩa giúp các tổ chức chào bán cổ phần dễ dàng huy động vốn với chi phí
thấp hơn so với các hình thức huy động vốn khác.
Chào bán cổ phần của công ty cổ phần là hoạt động mà xét dưới các
góc độ chủ thể khác nhau sẽ mang những ý nghĩa kinh tế - xã hội khác nhau,
các nhóm lợi ích cụ thể được thể hiện như sau:

(i) Đối với công ty cổ phần chào bán cổ phần, hoạt động chào bán cổ
phần là hoạt động huy động vốn chủ sở hữu tạo ra Vốn Điều lệ tại thời điểm
thành lập công ty hoặc làm tăng vốn Điều lệ thực có nhằm khẳng định khả
năng tài chính cũng như đáp ứng các điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh,
mở rộng thị trường của công ty cổ phần;
(ii) Đối với các chủ đầu tư tiến hành mua cổ phần, hoạt động chào bán
cổ phần của công ty cổ phần là cơ hội để các chủ đầu tư khẳng định thêm vị
thế tài chính trong công ty cổ phần mà họ đã là cổ đông; hoặc là cơ hội để các
chủ đầu tư mới trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Trong công ty cổ phần,
cổ đông được phân chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo loại cổ phần mà
họ nắm giữ, tuy nhiên, ở mức độ nhất định, các cổ đông sẽ cùng nhau san sẻ
trách nhiệm kinh doanh cũng như các rủi ro trong kinh doanh trong công cuộc
tìm kiếm lợi nhuận từ hình thức đầu tư trực tiếp này;
(iii) Đối với nền kinh tế - xã hội, hoạt động chào bán cổ phần của công


13
ty cổ phần là hoạt động cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán bao
gồm thị trường tập trung và thị trường phi tập trung tuỳ thuộc vào phương
thức chào bán mà công ty lựa chọn.
Dưới góc độ kinh tế, xuất phát từ chủ thể chào bán là các công ty cổ
phần, hoạt động chào bán cổ phần có thể được khái quát qua một số giai đoạn
cơ bản sau đây:
(i) Chuẩn bị chào bán: Chuẩn bị chào bán có hai nội dung cơ bản: một
là, chuẩn bị chào bán cổ phiếu để hình thành vốn điều lệ cho công ty cổ phần;
hai là chuẩn bị chào bán khi công ty cổ phần huy động thêm vốn điều lệ, tăng
quy mô vốn cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, việc xây dựng kế hoạch
chào bán đặc biệt quan trọng, cụ thể là tổ chức chào bán phải xác định được
quy mô vốn của công ty để từ đó quyết định số lượng cổ phần và giá cổ phần
dự kiến chào bán, các mức độ yêu cầu phù hợp đối với cổ phần của công ty và

bản chất hoạt động kinh doanh của công ty. Từ việc xác định các yếu tố này,
công ty có thể lựa chọn phương thức chào bán phù hợp với điều kiện thực tế
của mình và gắn liền với nó là những trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.
Giai đoạn này có ý nghĩa kinh tế quan trọng, quyết định khả năng thành công
của đợt chào bán, có nghĩa là xác định được số vốn mà công ty có thể huy
động được trong đợt chào bán đó. Việc chuẩn bị chào bán có sự tính toán về
tỷ lệ giữa số vốn huy động được và chi phí cần thiết để tiến hành chào bán cổ
phần sẽ góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động chào bán cổ phần
của công ty cổ phần.
(ii) Tiến hành chào bán cổ phần: Dưới góc độ kinh tế, đây là hoạt động
tổng hợp các công đoạn chào bán. Tuỳ theo quy mô và phương thức chào bán
mà các công đoạn này được các công ty cổ phần xác định mức độ đơn giản
hay phức tạp. Đối với chào bán cổ phần nội bộ (chào bán riêng lẻ), quá trình
chào bán đơn giản hơn do quy mô và số lượng các nhà đầu tư bị hạn chế. Đối
với chào bán cổ phần rộng rãi cho các nhà đầu tư không hạn chế số lượng
(chào bán ra công chúng), các công đoạn chào bán thường phức tạp do có tổ
chức tài chính trung gian chịu trách nhiệm thiết kế cuộc chào bán, xác định
mức giá cổ phiếu và trực tiếp phân phối cổ phiếu. Trong giai đoạn này, trách


14
nhiệm đối với nhà đầu tư của tổ chức chào bán và tổ chức tài chính trung gian
cũng được xác định. Những hành vi gian lận trong quá trình này cần phải
được loại trừ từ cả hai phía là bên mua và bên bán để đảm bảo sự công bằng
và quyền lợi hợp pháp của các bên. Dưới góc độ kinh tế, việc thực hiện thành
công giai đoạn tiến hành chào bán cổ phần sẽ được thể hiện bằng các yếu tố:
công ty được phép chào bán cổ phần; nhà đầu tư tiến hành mua cổ phần; công
việc thanh toán tiền mua cổ phần hoàn thành. Giai đoạn này có ý nghĩa quan
trọng về mặt kinh tế, quyết định sự thành công của kế hoạch huy động vốn
của công ty cổ phần.

(iii) Xác nhận kết quả chào bán: Sau khi kết thúc cuộc chào bán, tổ
chức chào bán phải có thông báo kết quả chào bán cho nhà đầu tư và cơ quan
quản lý (trong những trường hợp bắt buộc phải thông báo với cơ quan quản
lý). Mặt khác, tổ chức chào bán cũng tiến hành hoạt động xác nhận quyền sở
hữu cổ phiếu cho nhà đầu tư đã đăng ký mua hoặc đấu giá thành công. Việc
xác nhận quyền sở hữu cũng như tính hợp pháp của cổ phiếu cho nhà đầu tư
có thể được thực hiện bởi tổ chức chào bán hoặc bởi tổ chức bảo lãnh chào
bán. Ngược lại, nhà đầu tư phải có hành vi chuyển tiền mua cổ phiếu vào tài
khoản của tổ chức chào bán hoặc tổ chức bảo lãnh chào bán.
Dưới góc độ kinh tế, quan hệ mua bán cổ phần giữa công ty cổ phần và
nhà đầu tư là quan hệ mua bán mang tính dân sự, thương mại và nó cũng
không nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, thương mại. Tuy nhiên,
hàng hoá trong quan hệ mua bán này là loại hàng hoá đặc biệt, nó không chỉ
là sự mua bán vốn thông thường mà đây là hoạt động bán vốn và đầu tư có tổ
chức, vì vậy, dưới góc độ kinh tế, hoạt động này có ý nghĩa sâu sắc và có ảnh
hưởng quan trọng đối với sự hình thành, hoạt động và phát triển của công ty
cổ phần nói riêng và đồng thời cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới sự
bình ổn của nền kinh tế - xã hội nói chung.
Quan hệ giữa công ty cổ phần và nhà đầu tư thể hiện rõ nét nhất ở giai
đoạn công ty cổ phần chào bán cổ phần để hình thành vốn Điều lệ của công ty
hoặc gọi thêm vốn Điều lệ trong quá trình hoạt động kinh doanh. Khác với
những quan hệ góp vốn hình thành doanh nghiệp khác, việc góp vốn vào công


15
ty cổ phần phải thông qua quan hệ mua – bán cổ phần. Ví dụ như đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, số vốn mà thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn góp vốn hoặc cam kết góp vốn sẽ được ghi nhận chính
xác trong vốn điều lệ của công ty theo tỉ lệ phần trăm trên tổng vốn điều lệ.
Nếu nhà đầu tư góp vốn bằng tài sản, các thành viên của công ty phải cùng

định giá tài sản và giá trị vốn của mỗi thành viên được ghi nhận trong vốn
điều lệ phải bằng chính giá trị đã được định giá. Khác biệt với các hoạt động
góp vốn trên, việc góp vốn vào công ty cổ phần thông qua việc mua cổ phần
do công ty chào bán, chủ đầu tư có thể phải trả lượng vốn lớn hơn, thậm chí
lớn hơn nhiều lần so với giá trị vốn của chủ đầu tư này được ghi nhận trong
vốn điều lệ của công ty cổ phần. Ngược lại, với số trường hợp đặc biệt, giá trị
đồng vốn mà chủ đầu tư bỏ ra để “mua” được lượng cổ phần của công ty cổ
phần lại nhỏ hơn so với giá trị vốn mà chủ đầu tư này được ghi nhận trong
vốn điều lệ của công ty cổ phần. Khác với các loại hình công ty khác, công ty
cổ phần ngay từ đợt chào bán cổ phần lần đầu để hình thành vốn điều lệ mà
thành công đã có một nguồn vốn thặng dư nằm bên ngoài vốn điều lệ của
công ty chào bán. Chính vì vậy, huy động vốn của công ty cổ phần thông qua
việc chào bán cổ phần cho các nhà đầu tư thể hiện sự linh hoạt, hiệu quả hơn
so với hoạt động huy động vốn của các loại hình công ty khác được điều
chỉnh theo Luật Doanh nghiệp. Xuất phát từ đặc trưng về mặt kinh tế của hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, pháp luật điều chỉnh hoạt động
này cũng thể hiện bản chất kinh tế đó với những đặc trưng riêng biệt.
1.1.1.2. Quan niệm về hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, thông thường hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần được điều chỉnh ở một số vấn đề như sau: các chủ thể tham
gia vào quá trình chào bán cổ phần của công ty cổ phần; phương thức chào
bán cổ phần của công ty cổ phần; hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt
động chào bán cổ phần của công ty cổ phần. Hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần là loại hoạt động có nhiều chủ thể tham gia. Đó có thể là chủ


16
thể chào bán cổ phần, nhà đầu tư, tổ chức bảo lãnh, các tổ chức hỗ trợ chào
bán khác và không thể thiếu sự tham gia của các chủ thể quản lý nhà nước. Số

lượng và loại chủ thể tham gia vào hoạt động chào bán cổ phần phụ thuộc vào
phương thức chào bán của công ty cổ phần, phương thức chào bán riêng lẻ
hay chào bán ra công chúng.
Pháp luật các nước Anh, Mỹ, Australia quan niệm rằng hoạt động chào
bán cổ phần của công ty cổ phần được thể hiện dưới các phương thức chào
bán cổ phần khác nhau như chào bán, góp vốn. Theo quan niệm pháp luật các
nước này, chào bán lần đầu ra công chúng là sự kết hợp của cả hai phương
thức nêu trên [121; tr1]. Các phương thức khác như phương thức đầu tư, hay
giới thiệu cũng được coi là các phương thức chào bán cổ phần có tính truyền
thống, được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh. Theo cách quan niệm khác,
chào bán cổ phần có những loại hình nhất định được phân biệt khác nhau.
Trước hết phải kể đến chào bán có tổ chức, thực chất đây là hình thức chào
bán cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược và nó cũng là một dạng của hình
thức chào bán cổ phần riêng lẻ. Bên cạnh đó là chào bán theo phương thức
bán lẻ, hình thức chào bán này cũng được pháp luật điều chỉnh dành cho một
số ít những nhà đầu tư đủ tiêu chuẩn và đã được lựa chọn. Ngoài ra còn có
hình thức chào bán cổ phần cho người lao động trong công ty, đây là một hình
thức chào bán cổ phần đặc biệt nhằm hướng tới hai mục đích: một là, hình
thức thưởng cho người lao động khi cho họ tham gia mua cổ phần với giá ưu
đãi; hai là, khuyến khích người lao động gắn bó với công ty bằng việc đồng sở
hữu công ty. Như vậy, người lao động cùng chia sẻ và đóng góp công sức đối
với sự lớn mạnh, phát triển của công ty và đó cũng là sự ghi nhận những
đóng góp của họ đối với sự thành công của công ty. Chào bán cổ phần cho
người lao động được pháp luật các nước có những quy định điều chỉnh đặc
biệt vì đây là hình thức chào bán thể hiện những ưu đãi rõ ràng về đối tượng
được tham gia mua, về giá chào bán, khối lượng cổ phần sẽ chào bán. Pháp
luật về chào bán cổ phần cho người lao động ở Việt Nam cũng có sự tương
thích với pháp luật các nước trên thế giới. Các quy định về chào bán cổ phần



17
cho người lao động cũng được nêu ra trong các văn bản pháp luật về cổ phần
hoá doanh nghiệp. Theo đó, người lao động trong doanh nghiệp sẽ được
hưởng quyền mua cổ phần của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp
của họ vào doanh nghiệp đó.
Tuy có những phương thức chào bán khác nhau tuỳ theo quan niệm,
thực tế chào bán cổ phần cũng như tập quán của các quốc gia khác nhau
nhưng nhìn chung, pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của các
công ty cổ phần theo hệ thống luật Anh Mỹ, luật Châu Âu lục địa (điển hình
là Pháp và Cộng hoà liên bang Đức) và pháp luật một số nước khu vực châu
Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore) đều quy định hoạt động chào bán cổ
phần của công ty cổ phần được bao gồm hai phương thức chào bán cơ bản là
chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Có thể khẳng định, cùng với sự
phân biệt hai phương thức này là sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật đối với
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần.
Về phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ, pháp luật của hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều coi đây là một phương thức chào bán chứng khoán
trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định và đôi khi có tính chất đặc biệt như
các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, các nhà đầu tư chiến lược có tiềm lực về
vốn, các công ty đầu tư chứng khoán, các quỹ tín thác đầu tư... Chào bán cổ
phần riêng lẻ thường được các tổ chức chào bán lựa chọn trong các trường
hợp: một là, những công ty cổ phần không đủ tiêu chuẩn, điều kiện để thực
hiện chào bán cổ phần ra công chúng; hai là, những công ty cổ phần tuy đủ
điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng không lựa chọn phương thức
chào bán cổ phần ra công chúng (lý do là số vốn cần huy động ít, nếu chào
bán ra công chúng thì chi phí chào bán cao, hiệu quả huy động vốn vì thế bị
ảnh hưởng hoặc bản thân những công ty cổ phần này không muốn công khai
thông tin với cơ quan quản lý chào bán); ba là, các công ty cổ phần tăng vốn
điều lệ bằng cách chào bán thêm cổ phần cho những cổ đông hiện hữu tương
ứng với tỉ lệ sở hữu vốn cổ phần của họ trong công ty hoặc các nhà đầu tư

chiến lược nhằm huy động vốn nhanh với chi phí chào bán thấp.


18
Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều có quy chế pháp lý riêng điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Nội dung cơ bản của những quy chế
này là tạo cho chủ thể chào bán quyền tự định đoạt những nội dung liên quan đến
đợt chào bán như giá cổ phần dự kiến chào bán, thời điểm thích hợp để đợt chào
bán thành công, số lượng cổ phần dự định chào bán tương ứng với số vốn mà
công ty dự kiến huy động. Ở Việt Nam, hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ của
công ty cổ phần được quy định tại Điều 87 Luật Doanh nghiệp. Các quy định
trong Điều 87, Luật Doanh nghiệp Việt Nam tạm thời được coi là quy định về
chào bán cổ phần riêng lẻ đối với những loại công ty cổ phần thành lập và hoạt
động theo luật này. Bên cạnh đó, Nghị định số 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010
của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ cũng đưa ra định nghĩa về chào bán
cổ phần riêng lẻ, theo đó, chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần
hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng cho một trong các đối tượng sau: (i) các nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp; (ii) dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp” (Khoản 1, Điều 4, Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010
của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ)
Trên thế giới, các quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ có thể thức và thủ
tục chào bán khá đơn giản. Tổ chức chào bán không phải đăng ký chào bán với
cơ quan có thẩm quyền quản lý chào bán. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa tổ
chức chào bán không thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ về đợt chào bán cho
các nhà đầu tư mà ngược lại, tổ chức chào bán phải có nghĩa vụ công bố thông
tin chào bán riêng lẻ thông qua các tổ chức tài chính trung gian như tổ chức bảo
lãnh phát hành, tổ chức môi giới chào bán, hoặc các đại lý phân phối chứng
khoán. Pháp luật Anh, Mỹ còn yêu cầu tổ chức chào bán tiến hành chào bán
riêng lẻ phải công bố thông tin chào bán trên các phương tiện thông tin đại chúng

như báo chí, đài phát thanh, truyền hình, biển quảng cáo và qua internet [121;
tr4]. Ở Việt Nam, theo Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 của Chính

phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ, chào bán riêng lẻ có những điểm đặc thù.
Tính đặc thù thể hiện ở chỗ Nghị định này đã phân chia quyền quản lý


19
các chủ thể chào bán cho một số cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước… và yêu
cầu chủ thể chào bán phải đăng kí với các cơ quan quản lý trực tiếp trước mỗi
đợt chào bán cổ phần riêng lẻ.
Về phương thức chào bán cổ phần ra công chúng, ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc và một số quốc gia khác, tiêu chí để
nhận diện một đợt chào bán cổ phần ra công chúng của công ty cổ phần chính
là việc công ty cổ phần chào bán phải tiến hành đăng kí việc chào bán này với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ở Mỹ, Quy chế về thị trường giao dịch
chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ ban
hành đã đưa ra định nghĩa chào bán chứng khoán ra công chúng được nhận
diện là hoạt động chào bán mà chủ thể chào bán phải đăng ký hoạt động này
với cơ quan quản lý chứng khoán [123]. Ở Trung Quốc, Luật chứng khoán
đưa ra khái niệm về chào bán chứng khoán ra công chúng, trong đó hoạt động
chào bán này phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán chấp
thuận, xác minh, phê chuẩn.[74]
Chào bán chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật Việt
Nam là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức như sau:
(i) thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả internet; (ii) chào bán
chứng khoán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp; (iii) chào bán chứng khoán cho một số lượng nhà đầu tư
không xác định (Khoản 12, Điều 6, Luật Chứng khoán 2006). Theo quan điểm

của các nhà làm luật Việt Nam, tiêu chí để phân biệt chào bán chứng khoán ra
công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ phụ thuộc vào số lượng các nhà
đầu tư tham gia cuộc chào bán và phương thức chào bán có tính chất đại
chúng.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đưa ra khái niệm
chào bán cổ phần ra công chúng và mặc định rằng những phương thức chào
bán cổ phần còn lại của công ty cổ phần đều được coi là chào bán cổ phần
riêng lẻ. Cách quy định như vậy có ưu điểm là pháp luật sẽ điều chỉnh đầy đủ


20
hoạt động chào bán nào của công ty cổ phần. Tất cả các hoạt động chào bán
cổ phần của công ty cổ phần trước hết được nhận diện với các đặc điểm của
hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, nếu không thỏa mãn, một cách tự
động sẽ được coi là hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Và như vậy, sẽ
không có trường hợp tồn tại một hoạt động chào bán không thỏa mãn đặc
điểm của chào bán cổ phần ra công chúng, cũng không thỏa mãn đặc điểm
của chào bán cổ phần riêng lẻ. Pháp luật Việt Nam lại cùng lúc đưa ra khái
niệm về phương thức chào bán cổ phần ra công chúng và khái niệm về
phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ với những đặc điểm nhận diện khác
nhau. Như vậy, nếu áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam, sẽ có
những hoạt động chào bán cổ phần không thỏa mãn các điều kiện để được coi
là chào bán cổ phần ra công chúng, mặt khác, cũng không thỏa mãn các điều
kiện để trở thành hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Thực tế sẽ không có
quy định pháp luật phù hợp để điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần này của
công ty cổ phần.
Có thể nói, ở quốc gia nào cũng vậy, phương thức chào bán cổ phần
của công ty cổ phần được coi là quan trọng nhất trong nội dung pháp luật điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần. Bởi lẽ, pháp luật điều
chỉnh các phương thức này dựa trên bản chất kinh tế của chúng, từ đó quyết

định các vấn đề khác cần phải điều chỉnh như điều kiện chào bán, thủ tục chào
bán, nhà đầu tư có quyền mua cổ phần chào bán của công ty cổ phần.. Như
vậy, với việc xem xét cách nhìn nhận của pháp luật về một quy trình trong số
các quy trình chào bán cổ phần của công ty cổ phần có thể thấy rằng, dưới góc
độ pháp luật, hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần là phức hợp
của nhiều hoạt động khác nhau, thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau xoay
quanh việc thực hiện một quyền được pháp luật xác nhận và bảo vệ của công
ty cổ phần. Chính vì vậy, hoạt động phức tạp và có khả năng ảnh hưởng lớn
tới nền kinh tế xã hội này đã được các chế định pháp luật điều chỉnh một cách
chi tiết, đầy đủ và cụ thể.
Như vậy, xuất phát từ bản chất kinh tế, hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần được xác định để điều chỉnh dưới dạng một tập hợp các hoạt


21
động tương đối phức tạp của công ty cổ phần và các chủ thể khác có liên quan.
Nghiên cứu hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần dưới góc độ pháp
lý để hiểu một cách sâu sắc hơn về bản chất pháp lý của hoạt động này; đồng
thời hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần của công
ty cổ phần nói riêng và khung pháp luật tài chính, thương mại nói chung.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần và
phân biệt hoạt động này với các hoạt động huy động vốn khác
1.1.2.1. Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần
Hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần được ghi nhận là một
cách thức huy động vốn điển hình, linh hoạt và có khả năng xã hội hoá cao
của công ty cổ phần. Việc tổ chức thực hiện hoạt động chào bán cổ phần của
công ty cổ phần trong nội bộ doanh nghiệp được giải quyết chủ yếu dựa vào
nguyên tắc đối vốn. Dưới góc độ kinh tế và góc độ pháp lý, khi nghiên cứu
hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần, chúng tôi cho rằng hoạt

động này có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, hoạt động chào bán cổ phần của công ty cổ phần là một hoạt
động huy động vốn chủ sở hữu. Hoạt động này được thể hiện cụ thể với hai
mục đích, đó là kiến tạo vốn điều lệ ban đầu của các công ty cổ phần ở thời
điểm thành lập hoặc tăng thêm vốn điều lệ hiện có của công ty cổ phần. Sự
thành công của một đợt chào bán cổ phần riêng lẻ hay chào bán cổ phần ra
công chúng đều có kết quả là thiết lập hoặc làm tăng số vốn điều lệ thực có
của công ty cổ phần. Số lượng cổ đông có thể tăng hoặc không tăng thêm qua
các đợt chào bán, tùy thuộc vào việc giới hạn đối tượng được phép mua cổ
phần chào bán của công ty cổ phần, tuy nhiên, vốn điều lệ thực có của công ty
cổ phần luôn tăng lên sau mỗi đợt chào bán thành công. Quan trọng hơn,
nguồn vốn thu được là nguồn vốn chủ sở hữu, không tạo ra cho công ty cổ
phần những khoản nợ phải trả cùng với những cam kết về lãi suất tiền vay
như khi công ty cổ phần tiến hành chào bán một số loại chứng khoán khác
như trái phiếu công ty.
Eilis Ferran, trong cuốn Principles of Corporate Finance Law, đã nhận


×